Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “Uncategorized”

KÝ ỨC PHỤC SINH (The Resurrection Memory)

the_walk_to_emmaus

MỪNG CHÚA PHỤC SINH 2014

Thay mặt Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam

Hội trưởng: Mục sư Nguyễn Đức Na

 

KÝ ỨC PHỤC SINH
( The Resurrection Memory )

Trong mùa Phuc sinh năm nay tôi muốn cùng tôi con của Chúa suy nghĩ về những ký ức đã được sống lại trong số các môn đồ (disciples) và các sứ đồ của Chúa (apostles) trong khoảng thời gian  từ khi Chúa bị bắt bớ, chịu thương khó và sống lại từ âm phủ .

I/ SƠ LƯỢT VỀ KÝ ỨC:

(Generality of Memory)

Ký ức (Trí nhớ) là khả năng của trí óc có Thể nhớ lại những sự kiện mà nó đã ghi nhận. Khi chúng ta không nhớ nổi một sự kiện mà ai đó nhắc lại, ta thường nói tôi e rằng sự kiện đó đã trượt khỏi ký ức của tôi .(I am afraid that the fact slipped my memory.)
Trong nảo bộ của con người, khoa học tìm thấy rằng có một vùng gọi là ” hạnh nhân” (amygdala) nó  tạo cảm xúc và in dấu những ký ức của con người.  Lớp ngoài của vỏ nảo lưu giữ trí nhớ ( ký ức) dài hạn ở những khu vực khác nhau.Một Vùng sâu trong nảo bộ (hippocampus) sẽ có nhiệm vụ duy trì ký ức.

 II/ ĐIỀU KIỆN ĐỂ KÝ ỨC HỒI SINH.

 (Conditions for resurrection memory)

 1/ Hiện Tượng Sinh Học:

 ( Biological phenomena )

 Muốn ký ức tái xuất hiện, ký ức phải được in dấu trong vỏ nảo và được lưu giữ ở đó.

 2/ Hiện Tượng Tâm lý.

 ( Psychological phenomena )

Một người có lòng nhân ái (charity) thì ký ức dễ tái hiện.

Hai môn đồ đi về làng Em-ma-út cùng với Chúa, họ đã chân tình với lòng nhân ái, giục Ngài vào làng nghĩ lại đêm vì trời đã sập tối. Họ lo cho sự an nguy của người khách bộ hành xa lạ với hành trình tiếp theo trong đêm tối. (Luke 24:29 ) But they urged him strongly, “Stay with us, for it is nearly evening; the day is almost over.” So he went in to stay with them.”

Giả sử họ không nhiệt tình mời Chúa với lòng Trắc ẩn (compassion) thi họ đã không gặp được “Chúa Phục Sinh”,hay nói cách khác ký ức về Chúa không có dịp hồi sinh đúng lúc.

3/ Hiện Tượng Hướng Thượng.

 (Spiritual phenomena )

Một tấm lòng hướng thượng cũng là một điều kiện để ký ức hồi sinh.

Hai môn đồ tìm kím Chúa nhưng không gặp, lòng họ buồn bã không biết Chúa mình đang ở đâu vì như Chúa quở trách họ  là “ngu dại và có lòng chậm tin vào những lời tiên tri.” “How foolish you are, and how slow of heart to believe all that the prophets have spoken” ( Luke 24:25).

Tuy vậy lòng họ lúc nào cũng suy nghĩ về Chúa mình. Một tâm hồn hướng thượng.

Chúng ta ai cũng biết rằng Juda là sứ đồ của Chúa, nhưng lòng Ông hướng về vật chất nên lời quở trách của Chúa trực tiếp đến với Ông không được kích hoạt để in dấu ở vỏ nảo để được duy trì. Do đó Juda không có một ký ức nào để hồi sinh! Và Ông đã treo cổ tự vận!

4/ Đức Thánh Linh Hành Động .

Trong đời sống thuôc linh, những người thuộc về Đức Chúa Trời thì Đức Thánh Linh là Đấng sẽ hành động trong chúng ta để ký ức của chúng ta tái xuất hiện với mục đích làm cho chúng ta ăn năng, nóng cháy và đứng dậy Phuc sự Ngài.

” But the Councellor,  the Holy Spirit, whom the Father will send in my name, will teach you all things and will remind you of everything.”

III/ NHỮNG YẾU TỐ GIÚP KÝ ỨC HỒI SINH:

  (Elements to support the resurrection of memory)

1/ Hành Động. (Action).

 Đang khi ngồi ăn cùng 2 môn đồ, thì Chúa hành động với tư cách là Chúa của họ chứ không phải là khách mời. Ngài chủ động lấy bánh, cảm tạ, bẻ ra và phân phát cho họ. Ngài biết rằng hành động của Ngài sẽ tái hiện ký ức về Chúa của họ vì nhiều lần các môn đồ này đã ghi nhận hình ảnh Chúa lấy bánh , tạ ơn rồi bẻ ra và phân phát cho môn đồ. Thay vì Chúa nói với họ Ta là Chúa phục sinh đây, Ngài cho họ  một hành động , tức thì mắt họ mở ra và nhận biết Ngài.

” When he was at the table with them, he took bread, gave thanks, broke it and began to give it to them. Then their eyes were opened and they recognized  him, and he disappeared from their sight.”

  2/ Âm Thanh. (Sound)

 Phi-e-rơ trong khi đứng trước uy quyền đã để cho tâm thần mình yếu đuối cho nên đã chối Chúa đến 3 lần.Tức thì gà gáy, một âm thanh vang lên trong khoản không gian tỉnh mịnh va lạnh lẻo “tiếng gà gáy “. Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa phán “Trước khi gà gáy,  ngươi sẽ chối ta 3 lần.”  Mặc dù trước đó Phi-e-rơ đang nói những lời mạnh mẽ, quyết chí theo Chúa tưởng chừng không ai bằng.

“Immediately a cock crowed . Then Peter remembered the words Jesus had spoken: Before the cock crows, you will disown me three times.”

Âm vang tiếng gà gáy đã hồi sinh ký ức của Phi-e-rơ. Ông đã đi ra ngoài và khóc lóc đắng cay.

” And he went outside and wept bitterly.”

3/ Hình ảnh. (Image)

Khi tiên tri Giô-na đã theo ý mình, không vâng lời Chúa đến cảnh cáo thành Ni-ni-ve mà đi Ta-rê-si, bảo tố nổi lên và người ta trên thuyền phát hiện lý do bảo tố là vì Giô-na.

Giô-na bằng lòng để người ta liệng mình xuống biển để sóng yên gió lặng.

Chúa đã dự bị một con cá lớn nuốt Giô na vào bụng.

Trong bung cá, Giô-na để cho ký ức mình hồi sinh. Ông thấy đền thánh mà Ông đã từng ở trong đó nguyện cầu.

Giô na nói rằng tôi đã bị ném khỏi trước mặt Ngài; dầu vậy tôi còn nhìn lên đền thánh của Ngài.

“I have been banished from your sight; yet I will look again towards your holy temple.” ( Jonah 2:4) 

Giô-na đã cầu nguyện với ký ức là mình đang ở trong đền thánh và đã cầu nguyện rằng khi linh hồn tôi mòn mõi trong tôi, thì tôi nhớ đến Đức Giê Hô Va, và lời cầu nguyện của tôi đạt đến Ngài, vào đền thánh Ngài.

 “When my life was ebbing away, I remember you, Lord, and my prayer rose to you, to your holy temple.”

LỜI KẾT:

Mong rằng khi đọc những giòng chữ này, lòng của quý vị hãy rộng mở với lòng vị tha, nhân ái, mọi tự ái , tị hiềm nhỏ nhen nhường chỗ cho tình yêu của Chúa Phục sinh để những ký ức đáng trân quý trong mỗi chúng ta được Đức Thánh Linh làm cho sống lại . Khi đó chúng ta cũng sẽ nói như các môn đồ có ký ức về Chúa phục sinh rằng : “Lòng chúng ta há chẳng nóng nảy sao? Nội giờ đó họ liền đứng dậy, trở về thành Giê ru sa lem gặp mười một sứ đồ cùng các môn đồ khác đương nhóm lại nói với họ rằng: Chúa thật đã sống lại, và hiện ra với Si môn”.( Luca 24: 32-34). 

Và nếu có ai hỏi bằng cớ Chúa sống đâu nào, “rằng Chúa sống trong lòng này” một cách chân thành không hề dối trá, hay tô vẻ cho mình một hình thức “Phục sinh” bên ngoài với đủ mọi nhản mác (lables) để tự đánh lừa mình và đánh lừa người khác.

Một đời sống thực sự Phục sinh là một đời sống nóng cháy phục vụ tha nhân theo gương “Chúa Jesus Phục Sinh.”, là một đời sống đích thực phước hạnh.

 

Amen.

Mục sư JosephNa.

 

Kinh Thánh Chứng Cứ Khoa Học

Kinh Thánh Chứng Cứ Khoa Học

Nghiên cứu quỹ đạo vệ tinh nhân tạo, tìm lại 23 giờ 20 phút và 40 phút bị mất

Việc xảy ra cách đây mấy năm về trước. Tại trạm nghiên cứu vũ trụ ở Crimpelth thuộc tiểu bang Meryland nước Mỹ, các nhà khoa học hàng ngày dùng máy tính làm việc đã truy ngược lại một triệu năm về trước để điều tra lại quỹ đạo của mặt trăng và mặt trời. Không thể phóng được vệ tinh nhân tạo nếu không biết cặn kẽ quỹ đạo của mặt trăng và mặt trời. Chỉ sau khi kết thúc việc điều tra quỹ đạo của mặt trăng, mặt trời, và cả các hành tinh xung quanh, thì mới có thể vẽ được quỹ đạo của vệ tinh nhân tạo sẽ phóng lên. Nhưng khi đang tiến hành công việc điều tra đó bỗng nhiên máy tính dừng lại đột ngột và trên máy tính chỉ báo có tính hiệu lạ. Kết quả điều tra tỉ mỉ, họ hiểu ra một sự thực là: một ngày trên các quỹ đạo đã biến mất, trong khi trên máy tính không có trục trặc nào. Các nhà khoa học vũ trụ giỏi nhất nghiên cứu kỹ, không thế nào giải quyết được vấn đề này. Nếu việc này không cứu vãn, thì không thể phóng vệ tinh nhân tạo lên, đó là vấn đề rất nghiêm trọng đến mức gần như bất khả kháng.

Mấy ngày sau có một thanh niên đã từng đi nhà thờ Tin Lành lên tiếng : “Thưa quý vị, đây là câu chuyện tôi nghe hồi nhỏ ở trường học. Ông Giô-suê đã cầu nguyện để mặt trời ngửng lại trong một ngày đấy.” Khi nghe thấy lời này tất cả mọi người đều cười phá lên. Nhưng không còn cách nào khác, một nhà khoa học lớn tuổi đã đề nghị : “Không biết có như vậy không, ta thử tìm hiểu qua Kinh Thánh xem sao.” Sau đó, họ đã đọc Giô-suê một cách kỹ lưỡng. “Mặt trời bèn dừng, mặt trăng liền ngừng, cho đến chừng dân sự đã báo thù quân địch mình… Mặt trời dừng lại giữa trời và không vội lặn ước một ngày trọn” (Giô-suê 10:13). Các nhà khoa học đã dùng máy tính xem xét lại thời gian lúc đó và vô cùng ngạc nhiên. Họ đã phát hiện ở đấy thiếu mất 23 giờ 20 phút.

Vì sự thực này, các nhà khoa học vô cùng phấn khởi với suy nghĩ: “Không chừng 40 phút còn lại cũng có thể tìm thấy trong Kinh Thánh”, họ đã nhiệt tình đọc và điều tra Kinh Thánh. Cuối cùng, đến tận chương 20 của sách 2 Các Vua. Ở đây có câu chuyện thực được ghi : Ê-xê-chia vua Giu-đa bị bệnh nặng gần chết đã khẩn thiết cầu nguyện Đức Chúa Trời nên đã được kéo dài cuộc sống thêm 15 năm, và lúc đó, vua Ê-xê-chia đã cầu xin Đức Chúa Trời cho một dấu để làm chứng về việc Ngài sẽ làm. Lúc đó, Đức Chúa Trời đã quay ngược lại 10 độ bóng của năm. Mắt các nhà khoa học đã dừng lại ở đoạn này. Đồng hồ năm, lấy vòng tròn làm trung tâm chia 24 giờ. Trong đó có 10 độ có nghĩa chính xác là 40 phút. Họ lặng lẽ quỳ xuống và cầu nguyện “Lạy Đức Chúa Trời, chúng con đã quên lời dạy chính xác của Ngài.”

Kinh Thánh không phải là một cuốn sách giáo khoa. Vì vậy, không nói nhiều về khoa học và cũng không dùng nhiều từ chuyên môn mà các nhà khoa học hiện đại thường dùng. Nhưng khi nói về khoa học thì Kinh Thánh nói rất chính xác : Tri thức khoa học mà các nhà khoa học hiện đại có, thì người thời xưa làm sao mà có được. Thậm chí lúc đó còn là thời điểm mà thế giới quan bị tính thần thoại và phi khoa học thống trị. Bất chấp điều đó, Kinh Thánh diễn tả rất chính xác về sự thực khoa học.

Xin lấy ví dụ sau đây : Gióp 26:7 có chép : “Chúa trải Bắc cực ra trên vùng trống, treo trái đất trong khoảng không” – Gióp là người sống ở khoảng năm 2000 TC và ông nói rõ rằng trái đất đứng ở trong không trung. Khi đó tuyệt đối không có người nào có tư duy như vậy. Người Ai Cập cổ đại đều cho rằng trái đất được đặt lên một chiếc cột lớn, còn người Hy Lạp thì cho rằng thần Atlas cõng trái đấ trên lưng. Song Kinh Thánh miêu tả giống như sự thực khoa học hiện đại.

Trường hợp trong sách I Cô-rinh-tô 15:39 cũng vậy : “Mọi xác thịt chẳng phải là đồng một xác thịt; nhưng xác thịt của loài người khác, xác thịt của loài thú khác, loài chim khác, loài cá khác.” Trong thời gian dài, câu Kinh Thánh này đã bị phê phán là phi khoa học. Họ cho rằng tất cả xác thịt đều được cấu tạo bởi cùng một chất nên giữa các loại xác thịt không có gì khác nhau. Nhưng ngày nay các nhà khoa học đều công nhận một sự thực là có 4 loại xác thịt thực hữu tùy theo cách kết cấu của chất và của nhân tế bào.

Sự kiện công ty dầu lửa Standart của Mỹ phát hiện ra dầu lửa ở Ai Cập là một câu chuyện nổi tiếng. Một nhân viên cao cấp của công ty này đang đọc Cựu Ưóc sách Xuất Ê-díp-tô-Ký thì bị thu hút vào chương 2 câu 3 : “(mẹ của Môi-se) biết là không thể giấu lâu hơn nữa, nàng bèn lầy một cái rương mây, trét hắc ín và nhựa cây vào, đặt đứa trẻ vào trong đó rồi mang thả trong đám sậy dựa mé sông Nin.” Vị nhân viên đó nghĩ ngay rằng nếu có hắc ín thì phải có dầu mỏ, thời của Môi-se có vậy thì bây giờ vẫn thế, bèn gửi Charles Whitshott, là nhà địa chất học, chuyên gia về dầu lửa tới thăm dò quanh vùng sông Nin, và đúng như dự đoán ở trên, kết quả là thành công lớn.

Kinh Thánh không phải là quyển sách dạy về khoa học. Nhưng khi khoa học được đề cập đến trong kinh thánh, đều được chứng cứ rõ ràng như khoa học hiện đại.

Chang Doo Man

(Nguyễn Sĩ Phú dịch, theo Trước Khi Bạn Nói Không Có Đức Chúa Trời)

NÀNG THƠ LÃNG MẠN

NÀNG THƠ LÃNG MẠN – Mỹ Vi Qui Nhơn (Bài chọn đăng 92)
Ngày 20/03/2014

            Đình Dũng ra đi khá bất ngờ, kết thúc một cuộc tình với Chúc Anh. Dũng bắt buộc phải phục tùng cha mẹ kết hôn với một người con gái khác không phải là người yêu của mình. Yêu một người và rồi cưới một người khác làm vợ cũng là chuyện thường tình ở đời. Nhưng điều này đã làm cho Chúc Anh đau khổ tột cùng, dường như cả một thế giới đang sụp đổ trong đôi mắt cô gái hai mươi mốt  tuổi.

pilklg

Đang là sinh viên năm thứ ba Khoa Ngữ Văn của Trường Đại Học Sư Phạm, Chúc Anh bắt đầu làm thơ trên facebook để vơi đi nỗi buồn sau một cuộc tình đổ vỡ:

Phải chi chiều ấy đừng gặp nhau
Sẽ không đem lụy quấn lấy sầu
Phải chi chiều ấy mưa đừng vội
Chắc sẽ không cần tay đan nhau

Ai bảo chiều Đông là giá lạnh

Chiều không anh em cũng lạnh lắm rồi.

Và bỗng dưng cô sinh viên Khoa Ngữ văn trở thành một nhà thơ học đường chuyên sản xuất thơ tình. Lê Cường, một bạn học cùng lớp với Chúc Anh có khuôn mặt của một quái kiệt giống hệt như Bùi Giáng bắt đầu để ý đến hiện tượng này. Cường quyết định sẽ theo đuổi Chúc Anh không phải vì yêu nhưng là muốn bạn học của mình phải bước qua cú sốc này. Cường bắt đầu bình luận các bài thơ của Chúc Anh:

Giá như chiều ấy em đừng gặp
Một cái nhìn theo xé rách hồn
Ước chi ngày đó không người ấy
Em vẫn là cô em gái tôi

Phạm Vũ Khanh, thạc sĩ Tâm Lý Học là giảng viên của Chúc Anh cũng vào cuộc. Mọi người đều yêu mến Chúc Anh và tìm mọi cách để đắt đưa cô nữ sinh đáng thương này vượt qua một cuộc tình dang dở. Duy Khanh viết lời bình luận trên Facebook của Chúc Anh:

Tôi biết em mang nặng một mối sầu
Đã theo tình, tình phớt mãi em ơi
Nè cô gái nỗi buồn da diết quá
Sao cứ ôm hoài một mối tình xa
Hãy đứng lên từ những tàn tro
Sau cơn mưa trời bao giờ cũng sáng
Bão tan rồi chim vẫn hót vô tư

Mặc cho bao nhiêu lời động viên khích lệ, Chúc Anh vẫn ôm ấp nỗi buồn của mình, dường như không có cách gì gỡ ra được. Trong một ngày cuối năm cô ấy viết bài thơ này:

Em đang ngồi bện nỗi nhớ và cô đơn
Thành sợi dây thừng để thắt tình yêu chết
Anh hài lòng chưa đam mê em dốc hết
Trả một lần, hổn hển thở rồi thôi

Sống thì lẻ loi nên chết cũng mồ côi
Chỉ có nỗi buồn chen chân để đưa tiễn
Cả đắng cay nữa cũng tranh nhau tiễn biệt
Dù tình yêu em chẳng được chúc phúc bao giờ

Đêm qua rồi lòng chưa tỉnh khỏi mơ
Làm sao thoát cám dỗ của ký ức
Hong giọt nước rèm mi mà bất lực
Tự mỉa mai mình không phước mà đa đoan

Anh đứng bên đời dìu dặt những nhặt khoan
Chỉ nay mai thôi nguội quên chút tình nhỏ
Chấp chới mình em vẫn một thân vò võ
Ngồi bện đan lòng để cố giết tim đi

Xuân đến rồi anh cứ bước chân đi
Chỉ phía em là gió Đông thốc ngược

Nỗi nhớ thương một người tình đã ra đi không bao giờ trở lại, cũng được Chúc Anh viết trong bài “Nhớ Anh”:

Nén lòng mình, hai tiếng: “Anh ơi!”
Mà sao thấy nhớ thương thăm thẳm quá
Em bỗng muốn mình trở thành tượng đá
Để thiên thu tình ấy chẳng hao mòn

Người đâu còn để dạ vẫn sắt son
Nào ai hẹn mà giữ thề với hứa
Thời gian vẫn vùn vụt như vó ngựa
Cuối đường trần nỗi buồn chạm đáy chưa?!

Xuân đến rồi, cỏ còn khát cơn mưa
Đông bước qua mặc lòng thêm vôi vữa
Thoáng chiếc lá nhẹ rơi ngoài bậu cửa
Cũng xót lòng bật thành tiếng: “Anh ơi!”

Tâm trạng ra sao thơ ra như thế, Chúc Anh được bạn bè gọi là nàng thi sĩ thất tình đành mượn thơ để tìm quên. Nhưng quên làm sao được khi nỗi buồn cứ đeo đuổi mãi không rời?

Thật may mắn  là còn có một người bạn cùng lớp âm thầm cầu nguyện cho linh hồn của Chúc Anh. Đó là Uyên Vi, một Cơ đốc nhân đang sinh hoạt tại nhà thờ Trương Minh Giảng, Sài Gòn. Uyên Vi không có khả năng làm thơ nhưng cô gái này vốn là một nữ sinh rất yêu mến Chúa.

Một buổi chiều kia, sau khi tan trường Uyên Vi chủ động mời Chúc Anh:

-Tối nay mời bạn đến nhà thờ Trương Minh Giảng với mình tham dự một đêm truyền giảng Phúc Âm trong mùa Giáng sinh?

-Mình chưa bao giờ đến nhà thờ Tin Lành, nên không biết ở đó có thích hợp với mình hay không?

-Đừng ngại, nơi ấy thích hợp cho tất cả mọi người. Mình chắc chắn là như vậy.

Một cách miễn cưỡng Chúc Anh theo Uyên Vi đến nhà thờ. Đó là lần đầu tiên trong đời nàng thơ lãng mạn này được nghe những bài Thánh Ca với một giai điệu thanh thoát, lạ lùng không giống với bất kỳ dòng nhạc nào bên ngoài. Rồi đến bài giảng của ông truyền đạo thật  sinh động tràn đầy nhiệt huyết. Mọi người trong Ban tiếp tân ân cần hỏi thăm, xin số điện thoại của Chúc Anh… Những điều này  đã có một tác động tích cực vào tâm hồn của cô gái trẻ. Chúc Anh trở về nhưng những lời chia sẻ của ông truyền đạo như một thách thức cho tâm hồn cô ấy. Và lạ thật Chúc Anh nhớ rất rõ sứ điệp của ông truyền đạo:

-Chúa Jesus đang phán với các bạn: “Nếu các ngươi làm theo điều ta dạy thì các ngươi là bạn hữu ta.” Ngài là người bạn thật của tất cả những ai thực hành Lời của Ngài. Ngài không chỉ là một người bạn bình thường như bao nhiêu người bạn thân khác mà Ngài còn là người bạn có khả năng thông cảm, thấu hiểu và trở thành người cố vấn cho bạn trong những khủng hoảng cuộc đời. Nếu bạn đang đau buồn vì những đổ vỡ trong cuộc sống, Ngài là người bạn sẽ nâng vực bạn đứng dậy để bước tới. Nếu bạn bị người khác bỏ rơi, thì Chúa Jesus là người bạn thân đứng bên cạnh đưa cánh tay Ngài ra cho bạn nắm lấy. Nếu bạn bị người khác phản bội thì Chúa là Đấng thành tín, nguồn trông cậy bền vững để bạn chạy đến với Ngài….

Ông truyền đạo còn giảng nhiều điều trong khoảng ba mươi phút, và Chúc Anh có thể nhớ được một số ý chính của bài giảng. Nhà thơ sinh viên này thầm nghĩ: “Tại sao ông này lại nói đúng tâm trạng của mình quá? Như vậy chắc mình phải cần đến Chúa, nếu Ngài là người bạn chân thật của mọi người.”

Sau bài giảng còn có một nữ thanh niên đơn ca bài “Ôi Jesus,  Chúa ta là bạn thật,  bằng lòng gánh tội lỗi chúng ta…” Bài hát được trình bày với một chất  giọng sang trọng đã đọng lại trong tâm khảm của Chúc Anh.

Chúc Anh trở về Ký túc xá suy nghĩ mông lung: “Tiếp nhận Chúa làm Cứu Chúa hay không?” Câu hỏi này hiện ra trong đầu của Chúc Anh.

Uyên Vi tiếp tục cầu nguyện cho Chúc Anh: “Lạy Chúa xin Ngài bày tỏ tình yêu và sự thương xót của Ngài trên cuộc đời của người bạn con. Xin Chúa cứu cô ấy ra khỏi tâm trạng đau khổ vì một cuộc tình tan vỡ.”

Chỉ có một mình Uyên Vi là Cơ đốc nhân trong một lớp học gồm bốn mươi sinh viên đến từ nhiều tỉnh thành trên cả nước. Uyên Vi là một người thường xuyên cầu nguyện cho linh hồn người khác. Cô nữ sinh này biết bản thân mình không thể thuyết phục được ai đến với Phúc Âm, nhưng tin rằng chính Chúa sẽ kéo người ta đến với Ngài.

Một tuần lễ sau đó Uyên Vi có dịp nói chuyện với Chúc Anh:

-Chúc Anh có cảm nhận gì về buổi truyền giảng ở nhà thờ tuần trước?

-Mình cũng không biết phải nói ra cảm nhận đó như thế nào. Có lẽ mình cần thời gian để suy nghĩ. Dù sao cũng cám ơn Uyên Vi đã đưa mình tới đó.

Chúc Anh tiếp tục thả hồn của mình theo từng bài thơ. Có người khi thất tình thì uống rượu giải sầu, còn Chúc Anh thì mượn thơ để ký thác tâm trạng. Người như thế nào thì thơ như thế ấy. Thơ chính là con người bên trong phát tán ra bên ngoài. Và nàng thơ này chỉ viết xoay quanh có mỗi một chủ đề:Tình Xót Xa:

Có lẽ tôi là người bảo thủ quá chăng ?!
Nên tôi không thích cái gì gọi là tình đầu hay tình cuối.
Đối với tôi, một kiếp người chỉ cần một lần yêu là đủ.
Yêu đến điên cuồng – rồ dại – lẫn si mê.

Và nỗi buồn của nhà thơ dường như bất tận mỗi ngày:

Ngày mới rồi nhưng em mòn hơn xưa
Tập tành quen với nỗi buồn vắt vẻo
Ký ức chỉ như giọt sương trong trẻo
Rơi xuống rồi chỉ còn mặn môi thôi
.

Có mấy ai đọc những dòng thơ như vậy mà không thương cảm cho tác giả!

Một buổi chiều kia sau khi tan trường, tình cờ Chúc Anh gặp giáo viên của mình trong một quán cà phê trên đường Nguyễn Văn Cừ: Thầy Phạm Vũ Duy Khanh dạy môn Tâm Lý Học. Duy Khanh chủ động mở đầu câu chuyện:

-Chào em, khí cầu tình yêu của em bay tới đâu rồi?

-Ồ thầy khéo nói đùa, khí  cầu của em đã vỡ, rơi xuống Thái Bình Dương cả một năm nay.

-Thật thế sao, thầy không nghĩ như vậy. Đọc những bài thơ em viết trên facebook  buồn quá.

-Có thể nào khác được thầy ơi. Nỗi buồn là một phần của cuộc sống mà.

-Đúng như em nói nhưng nếu nỗi buồn cứ đeo bám dai dẳng một người nào đó, thì đời sống còn có ý nghĩa gì?

-Đó chính là ý nghĩa cuộc sống của em. Thầy không thể lấy đi nỗi buồn của em.

Duy Khanh trầm ngâm:

-Vâng, tôi không thể làm điều đó, nhưng tôi có thể lắng nghe và cảm nhận từ nơi em một nỗi buồn mà đáng lý ra em có thể quên nó. Đời sống có những nghịch lý: Theo tình, tình phớt. Phớt tình, tình theo. Tôi hy vọng thời gian sẽ là liều thuốc chữa lành trái tim bị thương tổn của em. Hiện nay điều đó chưa đến, nhưng tới một thời điểm nào đó, có thể là một năm nữa em sẽ thay đổi. Tình cảm con người không phải luôn luôn bất biến, tôi chúc cho em gặp được ý trung nhân trong một tương lai gần.

-Cám ơn thầy đã động viên em. Hiện giờ tâm hồn em trống vắng và hầu như không thể yêu ai được nữa. Có lẽ em giống như một con chim gãy cánh mà không biết đến bao giờ mới được lành.

Buổi truyền giảng tiếp theo, Uyên Vi lại mời Chúc Anh đến nhà thờ. Nàng thơ miễn cưỡng nhận lời. Tối hôm ấy Mục sư diễn giả trình bày sứ điệp “Mục đích của đời sống”. Ông nhấn mạnh:

-Mục đích của đời sống không phải là yêu và được yêu, nhưng là yêu thương và ban cho đến người khác. Chúa Jesus đã đến thế giới này không phải để được người ta yêu thương, trái lại nhân loại đã đóng đinh Ngài. Ngài đến để hoàn thành mục đích của đời sống: Yêu thương nhân loại và ban cho nhân loại chính mạng sống của Ngài. Chúa Jesus đã trở thành một gương mẫu cho tất cả chúng ta hôm nay. Tình yêu có nghĩa là phục vụ, giúp đỡ người khác để qua đó người được giúp đỡ có thể thấy được vẻ đẹp của Chúa Cứu Thế ở bên trong mỗi chúng ta. Chúa Jesus đã đến thế giới để phục vụ nhân loại, Ngài không trông đợi con người phục vụ Ngài. Nếu bạn muốn hiểu bản chất thật của tình yêu, bạn hãy đến với Chúa Jesus để trải nghiệm một tình yêu ngọt ngào với Ngài. Khi một người đã có Chúa trong tâm hồn, người đó sẽ biết cách yêu thương như Chúa đã yêu thương và Ngài trở thành gương mẫu của một tình yêu vô đối.

Khi đang giảng, bỗng dưng vị mục sư dừng lại và nói tiên tri (lời này ông không soạn trước trong bài giảng):

-Trong vòng các bạn những người đang lắng nghe sứ điệp này có một người mang tâm trạng u buồn, sầu khổ vì người yêu của mình đã sang ngang. Tình yêu của con người không có gì bảo đảm. Tôi kêu gọi người đang có tâm trạng đó hãy tiến lên đây sau khi tôi giảng để cầu nguyện tiếp nhận Chúa. Chỉ có tình yêu của Chúa Jesus mới chữa lành được những tấm lòng đang bị tổn thương.

Tự dưng Chúc Anh nghe lạnh ở sống lưng. Có ấy vẫn còn giữ sự tự chủ, nhưng có một tiếng nói nhẹ nhàng trong tâm hồn mách bảo: “Tôi chính là người đó, và tôi cần sự chữa lành”.

Không ai có thể biết được phương cách mà Đức Thánh Linh làm việc trong lòng của một con người. Ngài có mọi phương pháp và chiêu thức tác động vào mỗi cá nhân để kéo người đó trở về với Đấng là Cội Nguồn của mọi sự. Chúc Anh đã nghe được tiếng nói êm dịu nhỏ nhẹ từ trong sâu thẳm của tâm hồn.

Kết thúc bài giảng, Mục sư diễn giả đưa ra lời kêu gọi:

-Các bạn muốn nhận Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa của mình, hãy tiến lên phía trước tòa giảng để được hướng dẫn cầu nguyện.

Uyên Vi nhẹ nhàng nắm tay Chúc Anh đứng lên rời khỏi hàng ghế đi về phía trước tòa giảng. Hai chân của Chúc Anh bỗng trở nên thanh thoát như lướt trên những đám mây ngoan ngoãn đi theo bạn mình. Vị Mục sư hướng dẫn cho Chúc Anh cùng với mười hai người nữa tin Chúa trong buổi tối hôm ấy. Nữ thi sĩ lãng mạn đã được ghi danh vào trong sách sự sống của Chiên Con!

Kể từ đây những cảm xúc của nàng thơ bắt đầu thay đổi. Chúc Anh được giải phóng ra khỏi cái tôi, bản ngã của mình để nhìn đời trong một lăng kính mới. Ngày xưa cuộc đời qua đôi mắt của Chúc Anh chỉ là một mùa Thu ảm đạm với lá vàng rơi hiu hắt. Có lúc Thu chuyển sang Đông cũng chỉ thấy một bầu không khí se lạnh bao trùm với những cơn mưa chiều muộn màng trên phố Sài Gòn đông đúc. Còn bây giờ bầu trời trở nên quang đãng đến lạ lùng. Mây vẫn bay và gió vẫn trôi nhưng mọi sự từ nay đã đổi tông màu.

Chúc Anh không còn thương nhớ bóng hình của người yêu cũ nữa. Nàng thơ bắt đầu đọc Kinh Thánh một cách say mê, giống như người tìm được báu vật mới trong đời. Cô nàng càng đọc Lời Chúa tâm trí cô càng biến đổi. Chúc Anh lấy làm tiếc là tại sao cho đến bây giờ mình mới bắt đầu đọc quyển sách best seller (sách bán chạy nhất) trong mọi thời đại này.

Chỉ một tuần sau đó Chúc Anh viết bài thơ sau trên facebook của mình:

Thôi nhé tạ từ thời dĩ vãng
Những đam mê u uất của tâm hồn
Hãy bay đi những kỷ niệm dật dờ
Thời hoang dại chưa tìm ra lối thoát

Tưởng đã chết nhưng bây giờ lại sống
Giữa trùng khơi tìm được một cánh tay
Kéo tôi lên thuyền cứu nạn an bình
Trong tay Chúa ôi bình an diễm tuyệt

Chim gãy cánh phục hồi trong nắng mới
Gió Thu về đâu còn rợn nước sông
Và chiều Đông vẫn ấm áp lạ thường
Vì Cứu Chúa chữa lành trong ân sủng

Tạ ơn Cha từ ái mãi đợi chờ
Con hoang đàng nay trở về tổ ấm
Đời bình yên phước hạnh ở trong Ngài
Hồng ân Chúa muôn đời con ghi nhớ.

Uyên Vi đọc bài thơ này, và nhanh chóng bình luận:

Đây là một trong những bài thơ lạc quan nhất của tác giả mà tôi từng đọc. Tạ ơn Chúa vì Ngài đã đem Chúc Anh trở về trong ngôi nhà của Tình yêu và Hy Vọng. Tôi trông đợi những bài thơ khác của tác giả với những trải nghiệm mới mẻ trên bước đường theo Chúa.

                                                                       MỸ VI QUI NHƠN

 321 lượt xem tại: http://songdaoonline.com/e2783-nang-tho-lang-man-my-vi-qui-nhon-bai-chon-dang-92-.html

SỰ XỨC DẦU THẦN THƯỢNG

SỰ XỨC DẦU THẦN THƯỢNG

 

 

Trên vua dầu xức đổ ra,

Giúp vua cai trị an hoà trên ngôi;

Tiên tri được xức dầu rồi,

Phát ngôn cho Chúa những lời cao sâu;

Thầy tư tế hưởng xức dầu,

Phụng thờ đền thánh cúi đầu khiêm cung.

Jêsus, Cứu Chúa vô cùng,

Cha ban dầu xức vui mừng nhiều hơn;

Ngài đi chữa bệnh, làm ơn,

Rao tin mừng lớn nông thôn, thị thành.

Ô người Cơ đốc, hỡi anh,

Linh quyền năng có vận hành qua chăng?

Trong anh Linh đến một lần,

Mà không biểu lộ nhân quần thấy sao?

Tại anh nhốt Chúa quá lâu,

Ngài đang tiềm ẩn chẳng sao tỏ bày;

Anh ơi, đầu phục cùng Ngài,

Chúa chờ anh để phô bày thế nhân.

(7-3-2014)

 

 

Trích Nguồn: http://prayers4vn.net/QuanDiemHoiThanh

 

TÌNH VẪN CÒN ĐẦY

2014_02_10_3zmp26ixqos

Thầy giáo Bửu trở về nhà mặt lầm lì không nói. Một nỗi buồn thấu tận tâm can làm anh vô cùng đau đớn. “Hoàn cảnh như thế này thì chết tốt hơn là sống”, anh suy nghĩ mông lung.

Diệu Thu, người vợ có hai đứa con với anh đã không thể chối cãi khi cô ấy ở chung phòng trong khách sạn với một người đàn ông.

Ở tuổi bốn mươi ba, Diệu Thu vẫn còn giữ được những nét duyên dáng, quyến rũ của một thời xuân sắc. Người phụ nữ này đã từng là hoa khôi của Trường Trung học trước đây. Bây giờ vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng của cô ấy vẫn còn làm cho bao kẻ si tình phải ngất ngây.

Lớn lên trong một gia đình đạo dòng, Diệu Thu được mọi người nhìn nhận là một phụ nữ ngoan đạo. Nhưng thế giới nội tâm của cô ấy là cả một khung trời bí ẩn mà rất khó cho người khác nhận biết được. Cô ấy thuộc mẫu người duyên dáng nhưng cũng đầy huyền bí, giấu kín bên trong những cảm xúc phức tạp của một phụ nữ hồi xuân tràn đầy sinh lực.

Là một phụ nữ xinh đẹp tham gia vào ca đoàn của giáo xứ, Diệu Thu đã làm cho Đức Trung, một người cùng tuổi phụ trách ca đoàn của nhà thờ bối rối. Hai người trao đổi với nhau bằng ánh mắt mà chỉ có họ mới có thể hiểu được. Ngôn ngữ của tình yêu thật lạ lùng, khi hai tâm hồn đã hòa điệu trong một tần số yêu đương thì ai có thể ngăn cản họ?

Tình cảm tự nhiên giữa giáo hữu với nhau vốn trong sáng như lẽ thật của Phúc Âm. Nhưng cái ranh giới mong manh của nó với tình yêu nam nữ chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc. Đức Trung là nhạc sĩ đã góa vợ, ông có những nhu cầu và cảm xúc giống như bao nhiêu người khác. Và trong mối quan hệ với Diệu Thu, Đức Trung đã vượt lằn ranh cho phép của Lời Chúa và Giáo hội. Hai người đã hẹn hò với nhau trong một khách sạn ở Biên Hòa.

Thầy giáo Bửu đau khổ vì vợ anh đã sẩy chân. “Một phút yếu lòng trăm năm nghìn hận” Có lẽ Diệu Thu rơi vào tình trạng đó. Văn Bửu tự chọn cho mình một cách giải quyết vấn đề: Anh ra khỏi căn nhà của mình và thuê một phòng trọ sống biệt lập với gia đình, sớm tối đi về tránh mặt Diệu Thu để chiêm nghiệm nỗi buồn của mình. Và cũng từ đó anh không bao giờ dám đến nhà thờ nữa. Đối với anh giáo đường quen thuộc trước đây, bây giờ đã trở nên lạ lẫm. Nơi đó người vợ yêu dấu đã làm anh bị sỉ nhục không kể xiết. Và ông nhạc sĩ kia là người thứ ba đã chen vào hủy hoại cuộc sống hôn nhân đang hạnh phúc của anh.

Một buổi chiều cuối năm khi vừa xong hai tiết dạy tại một Trung tâm Anh Ngữ ở huyện Trảng Bom, Đồng Nai, tôi gặp Văn Bửu. Đôi mắt anh buồn vời vợi, tôi mở đầu câu chuyện:

-Chào thầy Bửu, tôi biết thầy có tâm trạng buồn. Hãy nói đi, tôi đang muốn nghe câu chuyện của thầy và biết đâu tôi sẽ có lời an ủi thích hợp vào lúc này.

-À, tôi không nghĩ như vậy. Nỗi buồn của tôi không ai có thể chia sẻ được. Nó là của riêng tôi.

-Tôi đã nghe câu chuyện của thầy từ bạn bè trong Trường học. Tôi nghĩ thầy nên tha thứ cho Diệu Thu.

-Trong lúc này sự tha thứ có còn ý nghĩa gì không?

-Vô cùng ý nghĩa. Thiên Chúa đã tha thứ cho thầy, vì vậy thầy hãy tha thứ cho vợ của mình.

-Câu này tôi đã nghe anh chị em trong giáo xứ nói, nhưng hiện nay điều này đối với tôi là bất khả thi.

-Tại sao?

-Thầy không ở vào hoàn cảnh của tôi thì không thể hiểu được nỗi đau của tôi?

Là giáo viên cùng chung một thế hệ nên tôi không khó khăn lắm để gần gủi với Văn Bửu và lắng nghe từ đầu tới cuối câu chuyện của anh. Văn Bửu nói với một giọng trầm buồn, có lúc anh phải cố kiềm chế cảm xúc không cho phép những giọt nước mắt chực chờ tuôn ra:

Tôi yêu Diệu Thu từ khi cô ấy còn là một thiếu nữ tuổi mười lăm. Bốn năm sau đó chúng tôi kết hôn trong ngôi giáo đường này. Vì cô ấy tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả những bí tích, thánh lễ từ yêu cầu của Giáo hội, mặc dù tôi xuất thân từ một gia đình không có đạo. Hai năm sau chúng tôi đã có với nhau đứa con đầu tiên và đó cũng là lúc tôi bắt đầu nghi ngờ mối quan hệ trên mức bình thường của vợ tôi với nhạc sĩ Đức Trung ở giáo xứ này. Diệu Thu tham gia vào ca đoàn phụ nữ của nhà thờ, Đức Trung tập hát và đánh đàn cho ca đoàn. Tình cảm của họ phát sinh trong những lần gặp nhau và tôi biết vợ tôi cũng có một cảm tình đặc biệt dành cho ông nhạc sĩ tài năng này. Tình cảm đó có vượt qua sự cho phép của Giáo hội hay không? Tôi nghĩ là rất có khả năng vợ tôi sẽ trượt chân trong mối quan hệ đó. Và điều tôi lo sợ đã thực sự xảy ra. Trong lòng tôi oán hận cả hai người. Vợ tôi đã cắm cho tôi một cái sừng, còn ông nhạc sĩ kia là kẻ đâm sau lưng tôi. Nỗi buồn này ai có thể chia sẻ với tôi?

Tôi thẫn thờ khi nghe những lời trần tình từ anh bạn đồng nghiệp đáng thương. Trong cuộc sống của mỗi người luôn có những nỗi đau, và đối với Văn Bửu thì nỗi sầu khổ này quá lớn. Anh vẫn còn yêu vợ của mình mặc dù biết rằng cô ấy đã có thêm một người đàn ông khác trong cuộc đời. Tôi đưa ra một lời đề nghị:

-Tôi muốn tìm kiếm một giải pháp thích hợp cho câu chuyện của thầy. Trong đêm giao thừa của Tết dương lịch sắp tới mời thầy đến nhà tôi uống ly trà cuối năm, cùng đón năm mới, hy vọng là chúng ta tiếp tục thảo luận với nhau về câu chuyện này và tìm ra một hướng đi nào đó.

-Vâng, tôi sẽ cố gắng đến.

Văn Bửu đến nhà tôi vào 10 giờ tối hôm ấy. Các anh em trong nhóm cầu nguyện của hội thánh cũng đang ở đó trong một buổi cầu nguyện đặc biệt cho khởi đầu của năm mới 2010. Mục sư Nguyễn Phi Bình từ Quận 8, Sài Gòn ra thăm chúng tôi trong buổi nhóm ấy, ân cần nói chuyện với Văn Bửu:

-Chào anh, thầy giáo Minh có nói sơ qua về anh với tôi. Tôi muốn đọc cho anh nghe vài câu Kinh Thánh. Anh có muốn nghe không?

-Vâng, xin mời mục sư.

-Câu thứ nhất ở Phúc Âm Giăng 3:16, “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời”. Câu này bảo đảm cho mọi người là hễ ai tiếp nhận Chúa Jesus, là Con của Đức Chúa Trời vào lòng, người đó sẽ nhận lãnh sự sống đời đời. Anh có muốn nhận lãnh sự sống này không.

-Dĩ nhiên, tôi muốn.

-Và còn nữa, câu thứ 2 là đây, tôi mời anh hãy đọc câu này: “Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta” (Khải huyền 3:20). Trong câu này Chúa Jesus đang mời gọi anh mở cửa lòng ra để mời Ngài bước vào. Khi Chúa được mời, Ngài sẽ vào trong tấm lòng của anh, kết bạn thâm giao với anh. Anh có muốn Chúa Jesus trở thành thiết hữu của anh không?

-Tôi muốn.

Đọc thêm vài câu Kinh Thánh khác, mục sư Bình hướng dẫn Văn Bửu dâng lên lời cầu nguyện ngay sau đó:

Lạy Thiên Chúa hằng sống. Tạ ơn Ngài đã đến thế giới này làm một con người và chết thay cho tội lỗi của con trên thập tự giá. Con xin mở cửa tâm hồn con tiếp nhận Ngài bước vào làm Cứu Chúa của con kể từ hôm nay. Xin tha tội cho con vì bấy lâu nay con sống mà không có Ngài. Con xin giao nộp thân, hồn, linh của con cho Ngài. Nguyện xin Ngài làm chủ cuộc đời con mãi mãi và hướng dẫn các bước con đi tiếp theo. Con thành tâm cầu nguyện nhân danh Chúa Jesus Christ. Amen.

Khác với những trải nghiệm trước đây mà Văn Bửu đã từng có, một cảm giác bình an đến lạ lùng trào dâng trong tâm hồn anh sau lời cầu nguyện.

Chúng tôi ngồi lại thành một vòng tròn nhỏ đón giao thừa bên cạnh những tách trà nóng và bánh ngọt. Văn Bửu được mọi người khích lệ bằng những lời động viên đầy tình yêu thương để khởi đầu một đời sống mới với Chúa Jesus. Trước khi chia tay, mọi người đặt tay cầu nguyện cho Văn Bửu, đặc biệt là xin Chúa ban cho anh sự hướng dẫn từ Đấng Khôn Ngoan để anh có thể bày tỏ tình yêu và sự tha thứ cho Diệu Thu.

Bên ngoài trời cuối Đông se lạnh, nhưng trong phòng khách hơi ấm của tình yêu thương lan tỏa. Khuôn mặt Văn Bửu dường như sáng rỡ ra sau khi cầu nguyện. Mọi người có thể thấy ánh mắt anh lấp lánh một niềm tin yêu mới. Đêm nay thật là một đêm đặc biệt!

Văn Bửu trở về phòng trọ lúc hai giờ sáng, đầu óc hoàn toàn tỉnh táo và anh không thấy buồn ngủ chút nào. Anh nghĩ đến những điều sẽ chờ đợi anh trong năm mới này. “Xin Chúa dẫn dắt con trong mỗi chi tiết của đời sống, đặc biệt là trong cách mà con sẽ thể hiện với Diệu Thu”. Anh thầm dâng lên lời cầu nguyện với Chúa.

Văn Bửu bắt đọc đầu Tân Ước một cách thích thú như chưa bao giờ đọc trước đây. Ánh sáng thiên thượng tràn vào lòng anh. Càng đọc anh càng cảm nhận những gì lời Chúa dạy thật quá nhiệm mầu. Đức Thánh Linh và Lời Chúa đã đem đến sự chữa lành cho linh hồn anh. Văn Bửu như được lột xác trở thành một con người mới. Trong tư tưởng của anh có một sự thay đổi kỳ lạ. Từ chỗ là một người cay đắng, đầy oán hận với những ai đã làm anh đau khổ, Văn Bửu đã thay đổi trong ánh sáng của Lời Chúa để trở nên một người đầy ắp tình yêu thương. Quyển Kinh Thánh Tân Ước đã giải phóng anh ra khỏi những ý tưởng truyền thống, chật hẹp cố hữu.

Văn Bửu quyết định trở về sau khi anh được Chúa biến đổi. Giã từ phòng trọ anh về nhà gặp lại Diệu Thu vào một buổi sáng mùa Xuân:

-Anh thông cảm và bỏ qua mọi chuyện trước đây em đã gây ra.

Diệu Thu mở to đôi mắt, dường như không tin vào những lời cô ấy đang nghe:

-Anh tha thứ cho em sao?

-Vâng anh tha thứ cho em tất cả về những gì em gây ra, vì Lời Chúa đã biến đổi anh.

Diệu Thu rất tò mò muốn biết điều gì đã xảy ra trong tâm hồn Văn Bửu:

-Lời Chúa biến đổi anh như thế nào?

-Trước đây anh chưa bao giờ đọc Tân Ước một cách nghiêm túc, những gì anh học được chỉ là những giáo điều, nghi lễ của giáo hội. Nhưng từ khi anh thật sự có Chúa Jesus thì tâm hồn anh đã hoàn toàn thay đổi. Anh đã hiểu thế nào là lời cầu nguyện: Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng tôi (Ma-thi-ơ 6:12). Vì thế anh sẵn sàng tha thứ cho em và tất cả những ai đã làm tổn thương anh.

Diệu Thu ngỡ ngàng như ở trong cơn mơ. Những giọt nước mắt tự động tuôn ra trên khuôn mặt xinh đẹp của nàng:

-Cảm ơn anh đã tha thứ cho em. Từ khi anh bỏ nhà đi, em đã không ngủ được suốt mấy tuần lễ sau đó. Trong thao thức, trằn trọc em biết mình đã trượt chân và lún sâu vào tội lỗi. Em cầu mong anh trở về và cho em nói lời xin lỗi. Thực ra một lời xin lỗi của em cũng không thể chữa lành trái tim tan vỡ của anh. Nhưng chắc chắn là em rất muốn anh hãy tha thứ cho em. Từ khi anh ra đi, nhạc sĩ Đức Trung đã dời nhà về Bình Dương và nghe đâu ông ấy cũng đã tục huyền, an phận với một người phụ nữ khác.

Cả hai vợ chồng ôm chầm lấy nhau trong những giọt nước mắt cảm thông hạnh phúc. Ai ngờ gương vỡ lại lành! Ngoài kia nắng ấm cũng vừa lên như reo vui trong ngày tái hợp.

Nhờ ân điển Chúa, Văn Bửu không mất đi người vợ yêu dấu của mình. Tình yêu của anh dành cho Diệu Thu vẫn như một bát nước đầy sau khi trải qua cơn sóng gió.

DAVID LINH ÂN

401 lượt xem tại: http://www.songdaoonline.com/e2708-tinh-van-con-day-david-linh-an-bai-chon-dang-so-75-.html

TIN MỤC VỤ

Trong đợt mục vụ tại Giáo khu Cần  thơ vào 2 ngày 01 và 02 thang 3 vừa qua, khi xe chúng tôi đến nơi các tôi tớ Chúa đã chuẩn bi xe honda đưa Ban Điều hành chúng tôi đến phòng nhóm của Hội thánh Tin lành Liên Hiệp Thới Tân 1, Huyên Thới lai.
Tay bắt mặt mừng chúng tôi bắt đầu ngay buổi làm việc với các Giáo khu sau khi Ms giáo khu trưởng cầu nguyện.
Muc sư hội trưởng công bố các HT thuộc các Giáo khu như sau:I/ Giáo khu Thới Lai 1 gồm các HT sau:1/ HTTLLH Thới Tân 1
Nữ TĐ Nguyễn Hoa Tươi QN .
2/ HTTLLH Thới Tân 2
TĐ Lê Thanh Hồng QN.
3/ HTTLLH Đông Thuân2
Nữ TĐ Lê Thi Thu QN.
4/ HTTLLH Đông Hiệp 2
Nữ TĐTS Lý Thi Huế Phụ trách .
5/ HTTL LH Thới Tân 3
TDTS Nguyễn Văn Cửu Phụ trách.II/ Giáo khu Thới Lai 2 gồm các HT:1/ HTTLLH Đông Thuận 1
MSNC Nguyễn Thanh Hồng QN .
2/ HTTLLH Đông Bình 1.
TĐ Nguyễn Văn Giáo QN.
3/ HTTLLH Đông Bình 2
TĐ Trần Văn Hoàng QN.
4/ HTTLLH Trường Xuân 1
TĐ Trần Văn Chánh QN

III/ Giáo khu Cờ đỏ gồm các HT:

1/ HTTLLH Đông Thắng 1
TĐ Nguyễn Văn Tình QN.
2/ HTTLLH Đông Hiệp 1
TĐTS Nguyễn Chí Tâm Phụ trách
3/ GTTLLH Trung Hưng 1
TDTS Nguyễn Thanh Hồng Phụ trách.
Ms Phó Hội Trưởng Nội vụ Lương Thời cầu nguyện cho các Giáo khu được sức mới Từ nơi Chúa để Phuc sự Ngài.

Ms Hội Trưởng Nguyễn Đức Na dùng lời Chúa ở Rô ma 20:28 ” Anh em hãy giữ lấy mình,và luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập Anh em làm kẻ coi sóc,để chăn hội thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình.” để nhắc nhở các tôi tớ Chúa 2 ý :
Ý thứ nhất:
Anh em đã tình nguyện nhận lấy sự kêu gọi của Chúa và Đức Thánh Linh đã lập Anh em làm người chăn bầy. Giáo hội chỉ xem xét để công nhận chức vụ coi sóc bầy chiên của Anh em.hổ trợ giúp đở và Liên kết Anh em để thực hiện Khải tượng mà Anh em đã nhận từ nơi Chúa.

Ý thứ hai:
Hội thánh là bầy của Chúa mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình và chính Ngài lập nên Hội thánh Ngài trên vầng đá muôn đời. Như Anh em đã biết Giáio Hội Tin lành Liên Hiệp Toàn Cầu- Việt nam đã nhận được sự soi sáng của Đức Thánh Linh nên không bao giờ có ý nghĩ dùng tiền bạc hay vật chất đời này để mua chuộc HT.
Nhưng thật đáng buồn có những con người mang danh hầu việc Chúa mà dùng tiền bạc, vật chất, nhất là đồng tiền nước ngoài, đi mua chuộc Hội thánh để kinh doanh kiếm lời.
Về phần Anh em, tôi cãm tạ Chúa, vì Anh em đã từ bỏ con đường cũ, không  để cho kẻ Buôn thần bán thánh lợi dụng mà đem HT của Chúa mua bán nữa .
Những kẻ dùng Hội thánh Chúa mà Ngài đã mua bằng chính huyết minh đi mua bán thì sẽ phải trả bằng chính huyết của họ.
Hãy cẩn thận!

Phần tiếp theo là phân công các chức viên trong Ban ĐH GH tham dự buổi thờ Phượng Chúa vào sáng Chúa nhật 2/3/2014 với các Hội thánh địa phương để ” biết sự tình ” cả thuộc Thể lẫn thuộc linh nhu sau:

MS Phó Hội trưởng Nội vu Lương Thời Về các HT:

1/ HT TL LH Trường Xuân 1.
2/ HTTLLH Thới Tân 3

MS Phó HT Tài chánh Về các HT:

1/ HTTLLH Đông Thuận 1.
2/ HTTLLH Đông Thuận 2

MS TTK Về các HT:

1/ HTTLLH Thới Tân 2
2/ HTTLLH Thới Tân 1.

MS Hội trưởng vê các HT:

1/ HTTLLH Đông Thắng 1.
2/ HTTLLH Đông Hiệp 1.

Truyền đạo Lê Thanh Hồng cầu nguyện kết thúc Buổi  họp mặt và bày tỏ lòng vui mừng được mời Ban Điều Hành Giáo Hội và toàn thể tôi tớ Chúa về HT Thới Tân  2 dùng bửa tối cháo và gỏi vịt thật ngon trong tinh thần hiệp một.

securedownload

Hình chụp tại HTTLLH Thới Tân 1.
Hàng ghế đầu là Ban ĐHGH.
Hàng đứng phía sau từ trái qua phải:
TĐ Nguyễn Văn Tình, TĐ Trần Văn Chánh, TĐTS Nguyễn Văn Cửu,TĐ Nguyễn Văn Giáo, TĐ Trần Văn Hoàng, MSNC Nguyễn Thanh Hồng, TĐ Lê Thanh Hồng,NTĐ Lê Thị Thu. NTĐ Nguyễn Hoa Tươi, NTĐTS lý Thị Huế.

Một vài hình ảnh thờ Phượng Chúa ơ các HT  địa phương.

securedownload (1)

photo
WP_001068

Bữa ăn thân mật của BĐH GH và các nhân sự

Sau khi thờ Phượng Chúa với các HT địa phương ban ĐHGH và các Giáo khu trưởng tập họp tai HTTLLH Đông Thuân1 cùng nhau dự bửa cơm trưa do Ban ĐH GH chiêu đải.
Chia tay nhau ra về các tôi tớ Chúa cầu nguyện cho chuyến hành trình trở về của BDH với đoạn đường trên 400 km.

CẦU NGUYỆN CHUẨN BỊ XÂY DỰNG PHÒNG NHÓM MỚI

Trong dịp vê thờ Phượng Chúa với các HT địa phương, Muc sư Hội trưởng cũng là Sáng lập viên và là Trưởng Đoàn Từ Thuện Joseph đã quyêt định hổ trợ cho HTTLLH Thới Tân 1 vật liệu gạch, cát và xi măng để xây các bức vách của phòng nhóm thay cho vách bằng tôn cũ hầu cho phòng nhóm được sạch sẽ khang trang và ấm áp hơn.
Đoàn Từ Thiên Joseph cũng đã hổ trợ vật liệu để HTTLLH Đông Bình 2 tu sửa phòng nhóm. Nền được lót gạch sãh sẽ , mái được lợp lai để khỏi bị mưa dột và phòng nhóm được biệt riêng cho sự thờ Phượng Chúa.

Đoàn từ thiện Joseph đồng công cùng Giáo hội cũng đang cầu nguyện xin Chúa tiếp trợ để có thể hổ trợ cho HTTLLH Đông Thuận 1 xây dựng một phòng nhóm riêng biệt để thờ Phượng Chúa và cũng sử dụng cho viêc Huấn luyện kinh thánh, muc vụ cũng như bồi linh , Hiệp nguyện cho Liên giáo khu.

Ước ao trong năm nay HT Đông Thuận 1 sẽ thuc hiên được dự án này.

Trước đây chúng tôi cũng đã có bài viết nhan đề: CHUNG TAY XÂY DỰNG NHÀ NGUYỆN ĐÔNG THUẬN, CẦN THƠ tại trang web:

http://hoitinlanhlienhiep.com/?p=860

(Quí vị có thể xem lại bài này để có đầy đủ thông tin)

TTV Hướng Dương.

BƯỚC ĐƯỜNG CỦA BA RÁC

Đê-bô-ra được Linh Đức Giê-hô-va cảm thúc hát: “trong ngày Sam-ga, con trai A-nát và nhằm lúc Gia-ên, các đường cái đều bỏ hoang, những hành khách nương theo các lối quanh quẹo, trong Y-sơ-ra-ên thiếu các quan trưởng cho đến chừng ta là Đê-bô-ra chổi dậy như một người mẹ trong Y-sơ-ra-ên”.
Nhà bà Đê-bô-ra ở trong vùng đồi núi Ép-ra-im ở giữa khoảng Bê-tên và Ra-ma. Ra-ma này là quê hương của tiên tri Sa-mu-ên, nằm trên đường ranh giới chi phái Ép-ra-im và Bên-gia-min. Ra-ma cách Giê-ru-sa-lem 6 dặm về phía Đông Bắc, còn Bê-tên cách Ra-ma 5 dặm về phía Bắc.

Bà Đê-bô-ra ngồi dưới gốc cây chà là (kè) Đê-bô-ra để xét đoán dân chúng đến cùng bà. Thi thiên 92: 12 chép: “người công bình sẽ thịnh vượng như cây kè, đầy nhựa sống và xanh tươi”. Nữ tiên tri Đê-bô-ra giống như cây kè  cung cấp trái ngọt và bóng mát cho dân thánh đang bị ngoại bang chà đạp hung tàn.

Là tiên tri, lẽ tự nhiên Đê-bô-ra thường nhận được các sự khải thị từ Đức Chúa Trời và lời hiện hành của Ngài để giải đáp mọi nan đề và cấp dưỡng dân thánh. Công việc thường xuyên của bà là gì? Kinh thánh chép: “trong lúc đó Đê-bô-ra, nữ tiên tri … đã xét đoán dân Y-sơ-ra-ên”. Rõ ràng Đê-bô-ra là quan xét, là quyền bính của Đức Chúa Trời trong thời kỳ đó.

Kinh thánh chép “dân Y-sơ-ra-ên lên đến cùng người, đặng nghe sự xét đoán” Dân 27: 21 chép: “người phải ra mắt Ê-li-a-sa, thầy tế lễ, rồi người (Ê-li-a-sa) sẽ vì Giô-suê cầu hỏi sự xét đoán của U-rim trước mặt Đức Giê-hô-va”. Trong cả hai trường hợp từ liệu “sự xét đoán” có thể dịch là “phán quyết”. Cảm tạ Chúa, dù dân chúng thường xuyên chống đối, nhưng các tiên tri Đức Chúa Trời vẫn cứ xét đoán dân chúng, vẫn đưa ra các phán quyết do khải thị thần thượng soi dẫn. Phao-lô nói: “tôi tỏ ý kiến (sự quyết định tư pháp) như kẻ đã được thương xót để làm người đáng tin” (I Cô 7: 25). Anh em có thể tin nỗi các quyết định tư pháp của các tiên tri quyền bính chăng?

“Bà đã sai (người) và gọi Ba-rác, con trai A-bi-nô-am từ Kê-đe trong đất Nép-ta-li đến…”. Do phán quyết Chúa ban cho, Đê-bô-ra sai người kêu gọi Ba-rác từ Kê-đe đất Nép-ta-li đến ứng hầu trước mặt Đức Giê-hô-va tại cây kè Đê-bô-ra.

Theo Giô-suê 21: 32, Kê-đe của chi phái Nép-ta-li, xứ Ga-li-lê là thành của con cháu Ghẹt-sôn. Có thể Ba-rác là người Ghẹt-sôn, chi phái Lê-vi chăng. Bước chân đầu tiên của Ba-rác là phải vâng lời quyền bính đại biểu của Đức Chúa Trời, đến ra mắt bà tại núi Ép-ra-im. Với kinh nghiệm bản thân, tôi thấy sự khải thị từ người Đức Chúa Trời đều phải đưa chúng ta lên cư trú miền đồi núi. Núi Ép-ra-im là vùng núi chế ngự cả khu trung bộ xứ thánh. Dù anh em có sống trong Kê-đe, thành ẩn náu – cứu ân của Christ – ở bước đầu, anh em cũng cần lên miền núi khi người Đức Chúa Trời kêu gọi anh em.

Đê-bô-ra nói cùng Ba-rác: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã truyền lịnh này, hãy chọn đem theo ngươi một vạn người trong con cháu Nép-ta-li và trong con cháu Sa-bu-lôn”. Trước sự dâng mình của Ba-rác và các quan tướng các cấp, Đê-bô-ra hát: “khá ngợi khen Đức Giê-hô-va vì những quan trưởng đã cầm quyền quản trị trong Y-sơ-ra-ên và bá tánh dâng mình cách vui lòng … Lòng ta ái mộ các quan trưởng của Y-sơ-ra-ên, là những người trong dân chúng dâng mình cách vui lòng, đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va”. Đê-bô-ra là quyền bính quyết định, Ba-rác là quyền bính chấp hành.

“Vậy Đê-bô-ra đứng dậy đi cùng Ba-rác đến Kê-đe, Ba-rác nhóm hiệp người Sa-bu-lôn và người Nép-ta-li tại Kê-đe, có một vạn người đi theo sau người, và Đê-bô-ra cũng đi lên với người”. Điều bất năng mà các tôi tớ Đức Chúa Trời thường gặp là khó nhóm họp, vận động dân Chúa đi vào phương án của Chúa. Tôi tớ thành công của Đức Chúa Trời là người có thể vận động mọi người một ta-lâng, đưa mọi chi thể của Thân Thể Christ đi ra làm việc. Theo Giô-suê 20: 7, Kê-đe nằm trên núi Nép-ta-li, núi của xứ Ga-li-lê.

Ba-rác được sinh trưởng trong thành Kê-đe, trên núi Nép-ta-li- cứu ân hoàn bị của Đức Chúa Trời, cao như đỉnh núi – nhưng ông phải trải qua núi Ép-ra-im, dưới bóng cây chà là, nhận lãnh và am hiểu các tư tưởng, các khải thị của Chúa, mà đối với Ba-rác, chúng cũng cao như núi Ép-ra-im. Rồi đỉnh núi cuối cùng Ba-rác phải theo chân Đê-bô-ra cùng bước lên với cả đoàn tinh binh đến là Tha-bô.

Đê-bô-ra truyền lịnh của Chúa: “Hãy chọn đem theo người một vạn người trong con cháu Nép-ta-li và trong con cháu Sa-bu-lôn mà đi thẳng đến núi Tha-bô”.

Theo Giô-suê 19: 22, núi Tha-bô thuộc về chi phái Y-sa-ca. Chúa truyền Ba-rác mộ quân từ Nép-ta-li và Sa-bu-lôn, còn các bậc chỉ huy thuộc hạ của Ba-rác lại từ chi phái Y-sa-ca, vì Đê-bô-ra hát: “Các quan trưởng của Y-sa-ca đều theo Đê-bô-ra, Y-sa-ca và Ba-rác đồng một ý nhau”. Địa hình, địa vật núi Tha-bô và trũng Ki-sôn ở dưới núi các vị quan tướng đó đều quen thuộc. Tha-bô-và chiến trường Ki-sôn không gì khác hơn là sự kinh nghiệm tình trạng chiến tranh thuộc linh trong đời sống của các Đê-bô-ra và Ba-rác hiện tại.

Bọn tà linh có báo cáo cho Sa-tan khi thấy anh em và hội thánh đã lên Tha-bô thuộc linh rồi chăng? Kinh thánh chép: “người ta thuật lại cho Si-sê-ra hay rằng Ba-rác … đã đi đến núi Tha-bô”. Và khi hội thánh đăng quang, chiếm các địa vị thuộc linh, các nơi cao trên trời trong Đấng Christ.

Người Đức Chúa Trời luôn thấy trước chiến thắng và các tôi tớ Chúa luôn đánh thắng Sa-tan từ địa vị đã đắc thắng, còn Sa-tan vốn đã bị phế thải nên thường bị động và co cụm. Chúa phán trước cùng Ba-rác lúc còn ở núi Ép-ra-im “ta sẽ khiến Si-sê-ra … đến cùng ngươi tại khe Ki-sôn, luôn với các xe cộ và quân lính của hắn, ta sẽ phó hắn vào tay ngươi”.

Khi giờ hành động đến, nữ tiên tri Đê-bô-ra hạ lệnh cho Ba-rác: “hãy đứng dậy vì nầy là ngày Đức Giê-hô-va phó Si-sê-ra vào tay ngươi. Đức Giê-hô-va há chẳng ở đằng trước người sao”.

Cám ơn Chúa, rồi Ba-rác đi xuống núi Tha-bô, có mười ngàn người đi theo. Đê-bô-ra mô tả chiến thuật đánh như vậy là: “Bấy giờ các kẻ còn sót lại trong dân đều xuống, đến cùng các tráng sĩ đặng ra trận, dân Đức Giê-hô-va xuống đánh kẻ dòng sĩ”. Hội thánh Đức Chúa Trời ngày nay ít kinh nghiệm lối cầu nguyện quyền bính, không chuyên tâm thực hành phụng sự Chúa từ địa vị đăng quang trên trời, trên bè lũ Sa-tan và dân chúng. Chúa Jesus phán về Ngài và những kẻ liên hiệp chặt chẽ với Ngài rằng: “Đấng từ trên mà đến là trên hết thảy, kẻ từ đất mà ra là thuộc về đất, và nói cũng thuộc về đất, còn Đấng từ trời đến thì trên hết thảy”. Đối với Đức Chúa Trời thánh khiết, Đấng Cứu chuộc, chúng ta cần thật nhận biết mình vốn là bụi đất, còn đối với Sa-tan và thế giới chúng ta phải tin cậy và phô diễn nguồn gốc thiên thượng, thần thượng của mình là giấu kín với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời.

Tóm lại, trong Kê-đe trên núi Nép-ta-li, Ba-rác hưởng cứu ân hoàn bị trong thành ẩn náu, Ba-rác lên núi Nép-ta-li nhận các khải tượng thuộc linh về nhu cầu Đức Chúa Trời và sự chiến bại của kẻ thù. Sau đó, ông cùng đoàn quân phải đứng trên núi Tha-bô phô diễn sự toàn thắng của Chúa và mãi mãi kiềm chế, đè bẹp địch quân dưới lòng khe thấp thỏi.

Có ai dám bước theo bước chân của Ba-rác chăng? Xin Chúa dấy lên nhiều Ba-rác như vậy. Amen./.
Minh Khải

BÌNH MINH RỒI CŨNG ĐẾN

2014_02_08_pk775pth7je

Khi tiếng chuông nhà thờ vang lên thì cũng là lúc nó nhanh chân đến quán cà phê.  Ba nó là truyền đạo của một nhà thờ Tin Lành trong tỉnh Bình Định, thế nhưng nó chỉ có mặt ở nhà thờ mỗi năm có một lần, đó là thời điểm mà Hội Thánh tổ chức lễ Giáng sinh. Vì vậy mọi người gọi nó là tín đồ Nô-ên.

Nó ngồi đó trong một quán cà phê quen thuộc với đám bạn “nối khố” sống chết có nhau. Nhóm bạn của nó đánh cờ tướng, tán gẫu đủ mọi chuyện trong khi chủ quán mở dàn máy âm thanh với những bản tình ca thịnh hành của những năm 1980.

Cuộc sống của nó không khác gì cả so với những bạn bè bên ngoài nhà thờ. Bạn bè chơi gì nó chơi nấy. Bạn bè tới bến nó cũng tới bến luôn. Vậy là bó tay rồi! Cuộc đời nó xem như không còn thuốc chữa. Ba mẹ nó chỉ biết khóc trong sự cầu nguyện. Mọi lời khuyên đối với nó chỉ là đàn gảy tai trâu, nước đổ đầu vịt không có tác dụng gì. Mẹ nó vô cùng lo lắng cho tương lai của nó. Bà quyết định giới thiệu nó cho một người bà con có thế lực ở cao nguyên để tìm kiếm sự giúp đỡ. Dưới sự bảo trợ của người này nó được vào học tập ở Sở Thể Dục Thể Thao Lâm Đồng để trở thành cầu thủ dự bị cho đội bóng đá của tỉnh. Ba mẹ nó hy vọng trong môi trường mới này nó sẽ dành thì giờ rèn luyện thể lực và tập đá bóng. Biết đâu nhờ vậy nó sẽ giảm đi những thói hư tật xấu với đám bạn vô công rỗi nghề bên ngoài.

Cuộc sống không đơn giản như ba mẹ nó nghĩ. Từ một thiếu niên được huấn luyện, chuẩn bị trở thành cầu thủ dự bị, nó đã trở nên cầu thủ chính thức đá ở vị trí hậu vệ biên sau hai năm tham gia đội tuyển. Nó được mọi người trong đội bóng gọi là “Hùng Máy Ủi” vì có khả năng làm chiếc máy ủi cày nát hàng phòng vệ đối phương. Bây giờ nó trở nên nổi tiếng với tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh trong túi quần, ăn xài nhiều hơn trước vì đồng lương của một cầu thủ bóng đá như nó cũng khá hậu hĩnh.

Thỉnh thoảng nó trở về thăm gia đình trong cương vị của một thanh niên có vẻ như thành đạt. Nó là anh cả của năm đứa em, đứa út được gọi là bé Thùy Duyên chỉ mới sáu tuổi. Những lúc như vậy nó dẫn hết đám em của nó đi ăn bún cá Qui Nhơn rồi còn mua quà cho chúng nữa. Kể ra nó cũng là một người anh cả yêu thương các em của mình. Ba mẹ nhìn nó vừa mừng vừa lo, vì không biết được là linh hồn thằng này sẽ về đâu bởi vì từ khi vào đội tuyển bóng đá nó không hề đến nhà thờ.

Hùng Máy Ủi có một triết lý sống khá hiện sinh: Sống là phải hưởng thụ. Người ta biết gì thì nó phải biết nấy. Nó không muốn bị người khác coi thường là một thanh niên không biết ăn chơi. Đối với nó Tin Lành chỉ là một tôn giáo, như bao tôn giáo khác, không có gì đặc biệt. Mặc dù ba nó là truyền đạo, nhưng nó không cảm nhận được gì cả về con đường của ba mẹ nó đi. Thực ra nó cũng không được dạy dỗ nhiều từ gia đình, và những hấp dẫn của cuộc sống bên ngoài đã lôi kéo nó sống buông thả, tự do như bao thanh thiếu niên khác không có niềm tin vào một Thiên Chúa vĩnh hằng.

Những năm 1980 là quãng thời gian khó khăn cho nhiều người. Các Mục sư, Truyền đạo vừa lo công việc Hội Thánh vừa lo kinh tế gia đình. Các Hội Thánh nhỏ lúc bấy giờ không đủ sức cấp dưỡng cho các Mục sư quản nhiệm. Ngay cả Mục sư phụ trách nhà thờ chính của thị xã Qui Nhơn cũng phải làm thêm nhiều việc bên ngoài để có thể tồn tại. Ba nó là Truyền đạo, thư ký của Hội Thánh Qui Nhơn đồng thời cũng là một thợ may. Mẹ nó bán từng ly kem ở một góc phố kiếm tiền nuôi các em nó tới trường.  Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, nhưng cầu thủ Hùng có một cuộc sống với thu nhập khá lý tưởng. Nó có quyền hãnh diện với mọi người về chỗ đứng của nó trong xã hội. Với quần Jean, áo T-shirt, giày thể thao trông nó thật điển trai, dễ dàng lọt vào tầm nhìn của các em ngoài phố.  Cuộc sống bên ngoài của một cầu thủ thì không ai có thể kiểm soát được. Hùng là một cánh chim tự do bay lên trên bầu trời xanh với những tham vọng vô hạn của tuổi trẻ, nó hoàn toàn buông thả linh hồn của mình trôi theo chiều gió.

Vào một ngày cuối năm, nó được nghỉ phép, về nhà chuẩn bị ăn Tết với gia đình. Hôm ấy ba của Hùng có dịp nói nói chuyện riêng với nó:

-Hùng nè, năm nay con đã hai mươi lăm tuổi. Con nên nghĩ đến chuyện trở về với nhà Chúa và tính đến chuyện lập gia đình. Cuộc đời cầu thủ của con rồi sẽ chấm dứt khi tuổi càng ngày càng lớn.

-Ba nói vậy cũng được, có lẽ con nên tìm một cô gái nào đó trong nhà thờ. Bạn gái của con bên ngoài cũng có, nhưng tất cả giống như khách qua đường mà thôi.

-Dĩ nhiên là con trai của ba, con không thể lấy vợ bên ngoài được. Ba sẽ tìm cho con một cô gái xinh đẹp trong nhà thờ.

Hai năm sau đó Hùng Máy Ủi ra khỏi đội tuyển bóng đá vì tuổi đã lớn so với tiêu chuẩn hiện thời, và một phần phong độ của nó đã giảm sút nhanh chóng do rượu chè bên ngoài.  Nó trở về nhà, nhanh chóng kết hôn với Tiểu Mai, một nữ thanh niên xinh đẹp có một giọng hát khá hay của Hội Thánh Sông Cầu từ sự giới thiệu của một người quen trong Hội Thánh. Tiểu Mai không “kén cá chọn canh”, nhìn thấy Hùng cũng khá điển trai lại là con của một thầy truyền đạo nên đồng ý lấy nó. Hôn lễ của cặp đôi này được tổ chức đúng bài bản trong nhà thờ. Nhưng sau ngày cưới, Hùng cũng chỉ là tín đồ Nô-ên. Chuyện này không có gì lạ mặc dù nhiều năm trước đó nó được làm báp-tem một cách hình thức khi ở tuổi mười lăm.

Hùng bắt đầu cuộc sống gia đình bằng nghề đạp xích lô. Ba nó phân trần với mọi người:

-Lãnh đạo của đội tuyển không chấp nhận tính cách  ăn chơi, rượu chè của nó, nên khi ra khỏi đội tuyển nó  bắt buộc phải trở về nhà. Giá như mà nó là một cầu thủ đàng hoàng, thì khi hết ra sân cũng có thể được giữ lại trong Sở thể thao để học làm trọng tài biên hoặc trở thành một viên chức nào đó của Sở. Thôi thì bây giờ chấp nhận đạp xích lô để nuôi sống bản thân và vợ con.

Vậy là thời vàng son của nó đã đi qua.  Hùng Máy Ủi oai hùng, phong lưu ngày xưa trở thành Hùng Xích Lô. Sau một ngày đạp xe vất vả, người ta thấy nó trở về nhà chếnh choáng hơi men. Tiểu Mai rất xấu hổ vì chồng của mình như vậy. Những cuộc cãi vã giữa hai vợ chồng tăng dần theo năm tháng. Vào một buổi sáng kia, trước khi chồng mình đẩy chiếc xích lô ra khỏi nhà, Tiểu Mai nói với Hùng:

-Nè anh, chúng mình đã có con nhỏ, nếu anh tiếp tục uống rượu như thế sẽ làm gương xấu cho con sau này.

Hùng chống chế:

-Ừ, biết rồi, anh sẽ cố gắng.

Vào thời điểm này Hùng và Tiểu Mai đã có đứa con đầu lòng bốn tuổi được gọi là bé Thảo. Bé được lớn lên trong bầu không khí gia đình không êm ả và nó dường như nhạy cảm với những xung đột của ba và mẹ nó. Dù rất thương ba nhưng nó không thích lại gần ba nó với mùi rượu nồng nặc mỗi khi chiều về.

Lời nói của Hùng thường không đi đôi với việc làm, Tiểu Mai thừa biết là chồng mình chỉ nói cho qua chuyện thế thôi. Còn Hùng thì nói mà thực ra không biết là mình nói gì. Ma men đã đi sâu vào lòng của nó, tự bản thân nó không cách gì gỡ bỏ được. Thực ra Hùng bắt đầu uống rượu từ năm mười sáu tuổi. Thời kỳ đầu nó chỉ uống vài ly sương sương, rồi sau đó thì liều lượng nâng cấp dần theo năm tháng. Đến bây giờ vào tuổi ba mươi chín, chiều nào nó và hai đệ tử lưu linh khác cũng lai rai hết một lít rượu trắng. “Nam vô tửu như kỳ vô phong” là câu nói nằm trên cửa miệng của chúng nó. Đời sống chóng qua, đâu có ai biết được việc ngày mai, thôi thì mượn ly rượu tìm vui. Vui cũng uống, buồn cũng uống, không vui không buồn cũng làm vài ly, còn sống ngày nào là còn uống ngày ấy. Có thể nhịn ăn cơm nhưng không thể nhịn uống rượu. Có thể bỏ vợ con qua một bên nhưng không thể nào bỏ nàng ma men hấp dẫn đầy quyến rũ này. Hùng trở thành nô lệ cho ma men tự bao giờ!  Bây giờ nó là Hùng Xích Lô, nó chỉ có một niềm vui còn lại: mỗi khi chiều về phải uống vài ly, bên cạnh là đĩa mồi cá nướng hoặc gọn hơn chỉ cần một trái xoài cũng có thể chén tạc chén thù với anh em bè bạn. Cuộc đời thế là mãn nguyện. Có chết đi cũng chẳng ân hận gì. Cái triết lý của nó chỉ có chừng đó.

Rồi cái ngày đen đủi nhất của nó cũng đến. Một buổi chiều kia sau khi ngồi ở một vỉa hè uống rượu với đám bạn bè, nó xây xẩm mặt mày, lăn đùng ra và được đưa vào bệnh viện cấp cứu.

Nó được khám bệnh tổng quát, làm các xét nghiệm, chiếu X quang. Các bác sĩ kết luận thằng này bị ung thư gan và lao phổi thời kỳ cuối.

Vậy là hết, nó được thông báo là chuẩn bị tâm lý để ra đi. Nhiều lắm là hai tháng nữa nó sẽ phải nói lời vĩnh biệt với mọi người.

Hùng bàng hoàng khi biết mình sắp chết. Da thịt nó trở nên vàng như nghệ. Cuộc đời nó sẽ kết thúc ở tuổi bốn mươi sao?

Ung thư gan và lao phổi thời kỳ cuối là một căn bệnh truyền nhiễm. Hùng phải cách ly với mọi người. Không ai dám lại gần nó kể cả vợ con. Tiểu Mai vô cùng đau khổ.

May mắn cho Hùng là vẫn còn có một vài người thương nó. Cậu mợ nó là những người hầu việc Chúa biết được bệnh tình của nó nên vội vàng tới thăm:

-Hùng à, cậu mợ thấy rằng con nên quay về với Chúa. Dù con tội lỗi cỡ nào Chúa cũng tha thứ.

-Cám ơn cậu mợ, con sẽ chết trong vòng vài tháng nữa. Con muốn được trở về với Chúa, con cũng hy vọng Chúa sẽ tha thứ cho con.

Cậu mợ của Hùng hướng dẫn nó cầu nguyện tiếp nhận Chúa trở lại. Nó quì xuống ngay trên sàn nhà đơn sơ dâng lời cầu nguyện:

Lạy Đức Chúa Trời hằng sống là Cha thương xót nhân từ. Xin Cha tiếp nhận con trở về sau bao nhiêu năm con đã chìm sâu trong vũng bùn lấm của tội lỗi. Xin tha tội cho con và nhận con làm con của Ngài. Con cầu nguyện trong danh Chúa Jesus. Amen.

Nó bắt đầu đi nhà thờ. Mọi người dành riêng cho nó một cái ghế biệt lập cuối phòng nhóm. Cả Hội Thánh nhìn nó thương hại, nhưng không ai dám lại gần vì sợ bị lây nhiễm bệnh từ nó.

Cha mẹ, gia đình và cả vợ con không ai dám đến gần, Hùng đành phải đến nhà thờ tá túc để chờ đợi ngày ra đi về cõi vĩnh hằng. Một thằng bạn thân trước đây trong nhà thờ cho nó một tấm chiếu, một cái mền và một cái gối, nhờ vậy nó ngủ qua đêm trong một hành lang khuất của giáo đường. Anh chị em tín hữu thương tình cho nó thức ăn, một ít tiền tiêu vặt rồi nhìn nó thở dài ngao ngán.

Cũng có người nêu vấn đề cầu nguyện cho bệnh tình của nó. Nhưng không may mắn cho Hùng, sau khi được anh em trong Hội Thánh cầu nguyện, hoàn cảnh của nó vẫn y nguyên. Có người nói rằng với thằng này thì Chúa cũng đành thúc thủ. Thực ra sự chữa lành là một huyền nhiệm. Kathryn Kuhlman, tác giả quyển “Thượng Đế Còn Làm Phép Lạ”  cũng không biết tại sao một thiểu số người nào đó vẫn không thể nhận được sự chữa lành trong các chiến dịch truyền giảng của bà.

Đúng hai tháng sau kể từ ngày được chẩn đoán bệnh nó yếu dần đi, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Cái chết đã cận kề.

Tiểu Mai và đứa con nhỏ lại gần nó trong giờ phút lâm chung. Hùng chỉ còn da bọc xương nằm đó, đôi mắt mở ra yếu ớt, hai tay chắp trước ngực và lí nhí dâng lời cầu nguyện.

Tiểu Mai không cầm được nước mắt. Bé Thảo bỗng khóc òa.

Hùng thở hắt ra một hơi cuối cùng rồi đầu nó lệch sang một bên.

Tiểu Mai đưa đôi tay run run vuốt mắt cho chồng.

Cuối Đông ngoài trời mưa phùn se lạnh.

Một bông hoa tàn tạ đến cuối đời được dâng về cho Chúa.

Bình minh cứu rỗi rồi cũng đến trên cuộc đời nó. Nhưng sau khi tiếp nhận Chúa thì cũng là lúc đời sống trên đất của nó đã hoàng hôn. Dù sao thì muộn cũng còn hơn không.

Sau một năm kể từ ngày Hùng ra đi, Tiểu Mai dẫn bé Thảo đến thăm mộ phần của chồng tại nghĩa trang Qui Nhơn và đặt lên đó một bó hoa. Bé Thảo bỗng dưng hỏi mẹ:

-Mẹ ơi giờ này ba đang ở đâu?

Tiểu Mai ngạc nhiên trước câu hỏi và trả lời ngập ngừng:

-Ba con đang ở trong một nơi gọi là Vườn Yên Nghỉ với Chúa.

-Mẹ ơi, trước lúc đi về Vườn Yên Nghỉ con có nghe ba cầu nguyện.

-Con nghe như thế nào?

-Ba cầu nguyện là: Lạy Đức Chúa Trời xin thương xót lấy con, vì con là kẻ có tội.

Tiểu Mai nhìn lên những đám mây bay lơ lửng trên bầu trời xanh. Một thoáng thẫn thờ!

Hai mẹ con trở về trong yên lặng. Tự dưng đôi mắt bé Thảo ươn ướt.


DAVID LINH ÂN

404 lượt xem 

NGUỒN: http://songdaoonline.com/e2701-binh-minh-roi-cung-den-david-linh-an-bai-chon-dang-so-73-.html

ROMANS 3

Romans 3

New International Version (NIV)

1  What advantage, then, is there in being a Jew, or what value is there in circumcision? Much in every way! First of all, the Jews have been entrusted with the very words of God.

What if some were unfaithful? Will their unfaithfulness nullify God’s faithfulness? Not at all! Let God be true, and every human being a liar. As it is written:

So that you may be proved right when you speak
and prevail when you judge.”[a]

But if our unrighteousness brings out God’s righteousness more clearly, what shall we say? That God is unjust in bringing his wrath on us? (I am using a human argument.) Certainly not! If that were so, how could God judge the world?Someone might argue, “If my falsehood enhances God’s truthfulness and so increases his glory, why am I still condemned as a sinner?” Why not say—as some slanderously claim that we say—“Let us do evil that good may result”? Their condemnation is just!

What shall we conclude then? Do we have any advantage?Not at all! For we have already made the charge that Jews and Gentiles alike are all under the power of sin. 10 As it is written:

“There is no one righteous, not even one;
11     there is no one who understands;
there is no one who seeks God.
12 All have turned away,
they have together become worthless;
there is no one who does good,
not even one.”[b]
13 “Their throats are open graves;
their tongues practice deceit.”[c]
“The poison of vipers is on their lips.”[d]
14     “Their mouths are full of cursing and bitterness.”[e]
15 “Their feet are swift to shed blood;
16     ruin and misery mark their ways,
17 and the way of peace they do not know.”[f]
18     “There is no fear of God before their eyes.”[g]

19 Now we know that whatever the law says, it says to those who are under the law, so that every mouth may be silencedand the whole world held accountable to God. 20 Therefore no one will be declared righteous in God’s sight by the works of the law; rather, through the law we become conscious of our sin.

21 But now apart from the law the righteousness of God has been made known, to which the Law and the Prophets testify.22 This righteousness is given through faith in[h] Jesus Christ to all who believe. There is no difference between Jew and Gentile, 23 for all have sinned and fall short of the glory of God, 24 and all are justified freely by his grace through the redemption that came by Christ Jesus. 25 God presented Christ as a sacrifice of atonement,[i] through the shedding of his blood—to be received by faith. He did this to demonstrate his righteousness, because in his forbearance he had left the sins committed beforehand unpunished— 26 he did it to demonstrate his righteousness at the present time, so as to be just and the one who justifies those who have faith in Jesus.

27 Where, then, is boasting? It is excluded. Because of what law? The law that requires works? No, because of the law that requires faith. 28 For we maintain that a person is justified by faith apart from the works of the law. 29 Or is God the God of Jews only? Is he not the God of Gentiles too? Yes, of Gentiles too, 30 since there is only one God, who will justify the circumcised by faith and the uncircumcised through that same faith. 31 Do we, then, nullify the law by this faith? Not at all! Rather, we uphold the law.

 

CÁC ĐIỂM NGỮ PHÁP ĐƯỢC NGHIÊN CỨU:

 

  1.  Jew và The Jews (trong câu 1, 2 và 22).

What advantage, then, is there in being a Jew, or what value is there in circumcision? (câu 1)

Much in every way! First of all, the Jews have been entrusted with the very words of God. (câu 2)

This righteousness is given through faith in Jesus Christ to all who believe. There is no difference between Jew and Gentile (câu 22).

 

Jew (n. sing): a person who believes in and  practises Judaism

The Jews (n. plu): those who believe in and  practise Judaism

Câu 1 và 2 có nghĩa là: Dường ấy, một người Do-thái có sự thuận lợi gì? Sự cắt bì có giá trị gì?  Nhiều hơn mọi đàng! trước hết là chính Lời của Đức Chúa Trời đã uỷ thác cho họ (những người Do Thái).

 

  1.                               2.  Will và  shall:

What shall we conclude then? Do we have any advantage?Not at all! For we have already made the charge that Jews and Gentiles alike are all under the power of sin (câu 9)

since there is only one God, who will justify the circumcised by faith and the uncircumcised through that same faith.  (câu 30).

 

Chúng ta xem Auxiliary verbs ( trợ động từ ) .SHALL và WILL được dùng trong câu 9 và câu 30. Chúng được dùng với một động Từ chính để tạo thành thì simple future ( tương lai đơn ).

Thì này được dùng để diển tả một hành động sẽ xảy ra trong tương lai.

Lưu ý:

Shall được dùng cho ngôi thứ nhất số it và số nhiều : I và WE.

Will được dùng cho các ngôi còn lại.

Chú ý:

Khi thể hiện một ý định chắc chắn trong tương lai như một lời hứa thì Will được dùng cho ngôi thứ nhất.

 

Đây là điếm ngữ pháp thuộc sơ cấp (elementary level).

 

(Shall and will cũng được dùng như là  modal verbs. ( biến cách động từ ). Chúng ta sẽ nghiên cứu trong những câu Kinh thánh sẽ gặp trong tương lai.

 

Chúng ta tham khảo các câu KT sau đây:

 

Matthew 6:31:

So do not worry, saying, “what shall we eat?”, or ” what shall we drink”, or ” what shall we wear?”.

Romans 6:1:

What shall we say, then? Shall we go on sinning, so that grace may increase?.

Corinthians 4:21:

What do you prefer? Shall I come to you with a whip, or in love and with a gentle spirit?.

Psalm 27:1:

The Lord is my light and my salvation- whom shall I fear?

The Lord is my stronghold of my life- of whom shall I be afraid?

 

Gen 12: 1-3

The Lord had said to Abram, “Go from your country, your people and your father’s household to the land I will show you.

 “I will make you into a great nation,
and I will bless you;
I will make your name great,
and you will be a blessing.[a]
 I will bless those who bless you,
and whoever curses you I will curse;
and all peoples on earth
will be blessed through you.

 

Câu 9 có nghĩa: Thế thì Chúng ta SẼ kết luận như thế nào? Người Do thái có gì khá hơn  dân tộc khác chăng? Không, chẳng có gì cả; vì chúng ta đã từng tố cáo rằng:  tất cả người Do-thái lẫn người Hi-lạp, hết thảy đều phục dưới quyền của tội lỗi.

Câu 30 có nghĩa: vì Đức Chúa Trời vốn là duy nhứt; Ngài SẼ do đức tin mà xưng nghĩa cho người chịu cắt bì, cũng sẽ do cùng đức tin đó mà xưng nghĩa cho người không chịu cắt bì nữa.

Note: Will, shall còn dùng trong những trường hợp khác như là Modal verbs và sẽ được đề cập trong những bài tới.

 

3. If – clause: ( mệnh đề điều kiện )

But if our unrighteousness brings out God’s righteousness more clearly, what shall we say? That God is unjust in bringing his wrath on us? (I am using a human argument.) (v 5).

Chúng ta thấy trong câu trên có mệnh đề điều kiện được bắt đầu với Từ ” if ” .

Động Từ trong mệnh đề if : ” brings ” ở thì simple

present; Động Từ ở mệnh đề chính ở simple future.

 

Đây là loại câu điều kiện có thật ( real condition ).

 

Ta có thể tóm lược như sau:

 

 

 
If clause.                    Main clause
simple present.             Simple future

 

 

Câu 5 có nghĩa là: Nhưng nếu sự bất nghĩa của chúng ta chứng tỏ sự công nghĩa của Đức Chúa Trời rõ ràng hơn, thì chúng ta SẼ phải nói làm sao? Đức Chúa Trời giáng thạnh nộ trên chúng ta thì Ngài há bất nghĩa sao? (Tôi nói theo cách người ta nói.)

 

4. Were – past subjunctive. ( điểm ngữ pháp này ở  intermediate level / Trung cấp)

 

Certainly not! If that were so, how could God judge the world? (v 6)

Chúng ta thấy trong mệnh đề điều kiện trên chủ ngữ ( subject ) là ” that ” số it mà động từ to be lai dùng ” were ”  và động Từ ở mệnh đề chính là ” could judge ”

Đây là loại câu điều kiện không thật ở hiên tại ( unreal/ Imaginary condition in the present ”

Were được dùng trong mệnh đề IF

là thì quá khứ của subjunctive mood ( quá khứ của Thể giả định) . Ta có thể nói gọn là past subjunctive.   “The meaning of the past subjunctive is not factual but counterfactual (e.g. [ I wishhe were hereIf I were you . . .) or tentative (e.g. I would be surprised if he were to do that). . . .

Were là past subjunctive được dùng cho tất cả các ngôi, số ít và số nhiều.

Câu 6 có nghĩa là:  Chắc chắn là không! Nếu như thế,  thì Đức Chúa Trời xét đoán thế gian thể nào?

Ta có thể summary như sau:

Unreal/ imaginary condition in present

 

If clause                Main clause

Past subjunctive      Conditional present

( were for to be). ( could+ bare infinitive )

Note : chỉ có to be có past subjunctive riêng; còn tất cả các động từ khác có past subjunctive giống như past simple .

Chúng ta tham khảo câu nói của Chúa Jesus nói khi Giu đa phản ngài ở

Matthew 26:24

“…The Son of Man will go just as it is written about him. But woe to that man who betrays the Son of Man! It would be better for him if he had not been born”.

Chúng ta thấy ” it would be better for him” :thật tốt hơn cho nó ( kẻ phản Chúa) nhưng sự thật không phải như vậy ( Giu Đa đã tự tử)

“If he had not been born ” nếu nó không được  sinh ra ( nhưng sự thật thì Giu Đa đã được sinh ra rồi.): Had not been born là past perfect subjunctive được dùng trong mệnh đề điều kiện không thật ở quá khứ.

SUMMARY: unreal condition in the past

 

If clause.                         Main clause

 

Past perfect subjunctive.    Conditional perfect

( had+ past participle).      ( should/ would + have+

past participle )

 

 

5. Objective complent.( advanced level)

Chúng ta thấy trong câu này động từ prove được dùng ở thể pasive và có một Objective complement ( ở active voice) và là subjective complement ở pasive voice.
So that you may be proved right when you speak
and prevail when you judge (V 4).

Câu 4 có thể viết lại: The very words of God may prove you right when you speak and prevail when you judge

Câu 4 có nghĩa là:… Để cho Chúa được chứng minh là đúng khi Chúa phán,
và chiếm ưu thế khi Ngài xét đoán.”

Trong English grammar có một số động từ ngoài direct object ra, nó còn có một Objective complement mới đủ nghĩa.

Trong câu trên RIGHT là Objective complement.

 

Trong đoạn 3 câu 21 cũng có cấu trúc câu tương tự: Từ known là subjective complement ( active) và Objective complement ( passive)

 

 

But now a rightousness from God, apart from the law, has been made known, to which the Law and the Prophets testify.(v 21).

Ta có thể đổi câu này sang active:

 

But now our God has made a righteousness from God known, apart from the Law, to which the Law and the Prophets testify.

Summary:  objective complement

 

Subject+ finite verb+ direct Object+ objective complement

Loại động Từ này gọi là loai transitive verbs of incomplete predication.
Notes: Objective complement  có thể là một adjective ,  a noun hay a bare infinitive.

Tham khảo

Active:

Jeremiah 6:27.   I have made you a tester of metals

 

Acts 2:35.      I make your enemies
a footstool for your feet

Passive:

Luke 14:34.  Salt is good, but if it loses its saltiness, how can it be made salty again?

 

Proverbs 20:28.   Love and faithfulness keep a king safe;
through love his throne is made secure.

Act 14:12

Barnaba they called Zeus, and Paul they called Hermes because he was the chief speaker.

Genesis 1:10

God called the dry ground ” land”, and the gathered water he called ” sea.”

Jonah4:6

Then the Lord God provided a vine and made it grow up over Jonah to give shade for his head to ease his discomfort.

 

Các bạn hãy đổi các câu KT trên qua thể ngược lại để xác định sư hiểu chắc chắn loại câu này.

 

 

(Còn tiếp kỳ sau)

 

 

NGÔI SAO HUYỀN NHIỆM

STAR_OF_BETHLEHEM-Preview

 

 

“Kỳ lạ thật, một vì tinh tú vừa mới xuất hiện trong dải ngân hà dày đặc. Ta phải thông báo báo điều này với Ga-par ngay”. Mê-chi-ô tự nói một mình khi đăm chiêm nhìn qua viễn vọng kính trên ngọn tháp thiên văn ở Mê-sô-pô-ta-mi.

Một cuộc họp được tổ chức nhanh chóng ngay trong phòng khách của Mê-chi-ô.  Nhóm HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÂN LÝ của nhà bác học này qui tụ các nhà thiên văn và học giả tranh luận sôi nổi về một ngôi sao lạ phát sáng rực rỡ ở một khu vực thuộc Trung Đông.

Mê-chi-ô tóm tắt bài tham luận đầu tiên của mình:

– Đây là một ngôi sao kỳ lạ bỗng dưng xuất hiện trong dải ngân hà. Tôi đã tìm đọc trong các nghiên cứu trước đây đều không có bất kỳ sự đề cập nào đến ngôi sao lạ lùng này. Theo học thuyết chiêm tinh của chúng ta thì đây là ngôi sao báo hiệu một quân vương mới vừa ra đời. Sự ra đời của vị Vua này sẽ tạo nên một chấn động lịch sử. Tại sao? Có nhiều vị vua trên thế giới, nhưng không phải mỗi lần một ông vua ra đời là có một ngôi sao xuất hiện. Tôi cho rằng đây là ngôi sao duy nhất chỉ xuất hiện một lần trong các nghiên cứu thiên văn của chúng ta. Theo tôi biết, nhiều học giả đều cho rằng khắp phương Đông hiện nay có một niềm tin mãnh liệt là sẽ có một quân vương mới xuất hiện từ Giu-đa đến cai trị thế giới. Cá nhân tôi sẵn sàng gác bỏ mọi công việc nghiên cứu và gia đình sang một bên để làm một cuộc hành trình vượt sa mạc sang Trung Đông triều bái vị Vua mới này. Căn cứ vào cách tính tọa độ trên bản đồ thiên văn thế giới, có thể nơi chúng ta phải đến là xứ Pha-lét-tin.

Se-ne-ca nhà học giả với râu tóc bạc phơ như một đạo sĩ huyền bí lên tiếng:

– Tôi đã già rồi không thể tháp tùng các bạn sang xứ Pha-lét-tin, nhưng tôi đồng ý với Mê-chi-ô là nhóm chúng ta hãy nhanh chóng lên đường sang Trung Đông để chiêm bái vị Vua mới này. Hãy chuẩn bị những lễ vật tốt nhất cho Ngài. Riêng tôi mặc dù không có khả năng tham gia vào cuộc hành trình  nhưng tôi cũng sẽ chuẩn bị cho Vị Vua mới này một lễ vật đặc biệt.

Bal-tha-za, một viên quan đương triều cũng là một thành viên của nhóm phát biểu với giọng trịnh trọng:

– Chúng ta phải tổ chức một cuộc viếng thăm và triều bái vị vua mới trong cấp độ nhà nước, ngày mai tôi sẽ tấu trình với hoàng đế việc này. Hy vọng Ngài sẽ có một chiếu chỉ ủng hộ nhóm của chúng ta.

 

Cả nhóm các nhà thông thái tiếp tục thảo luận về ngôi sao huyền nhiệm. Cuối cùng họ đưa ra một thông báo chung:

-Chúng tôi là nhóm các nhà thông thái HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÂN LÝ sẽ lên đường đi Trung Đông trong tuần này với một sứ mạng lịch sử: Triều bái Vị Vua Lớn của thế giới. Cần huy động những người phục vụ tình nguyện cho cuộc hành trình đặc biệt này. Chúng tôi kêu gọi các nhà quí tộc hãy quyên góp các lễ vật cần thiết cho vị Vua.

Chỉ trong vòng ba ngày đã có trên một trăm thanh niên khỏe mạnh tình nguyện phục vụ cho chuyến đi xa. Bảy mươi lạc đà sung sức cũng được các nhà quí tộc gởi đến tham gia vận chuyển hành lý.  Ông đạo sĩ huyền bí Se-ne-ca gởi đến một kiện hàng hai trăm cân một dược chuẩn bị làm lễ vật dâng lên cho Tân Vương. Kiện hàng này gây sự hiếu kỳ của mọi người. Mê-chi-ô tỏ vẻ ngạc nhiên:

-Ngài chuẩn bị một dược cho vị Vua mới là nghĩa gì?

-À, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về của lễ này. Tôi cho rằng vị Vua mới của chúng ta sẽ cần đến nó trong chức vụ của Ngài. Đây là loại một dược được tôi tuyển chọn trong khắp đế quốc Ba-by-lôn, nó được xem là tốt nhất thế giới hiện nay, cái này rất xứng đáng dâng vào trong kho tàng cho các vua chúa.

Mê-chi-ô trầm ngâm suy nghĩ trước những điều Se-ne-ca nói. “Ta phải tuyển chọn những lễ vật còn lại thực sự có ý nghĩa cho vị Vua này” ông thầm nghĩ.

Những thỏi vàng tốt nhất và đá quí được các nhà quí tộc gởi đến cho nhóm HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÂN LÝ bên cạnh đó lại có thêm ba trăm cân trầm hương. Các nhà thông thái phải quyết định dâng những loại lễ vật nào cho vị Vua đặc biệt này.

Cuối cùng, vàng, nhũ hương và một dược được chọn cho vào những  kiện hàng đóng kín để làm lễ vật cho cuộc viếng thăm. Đây là một cuộc viếng thăm qui mô mang tính cách ngoại giao cấp nhà nước của một quốc gia ở vùng Mê-sô-pô-ta-mi xa xôi đến triều bái một hoàng đế mới đã ra đời được suy đoán là tại một nơi nào đó thuộc xứ Pha-lét-tin.

Nhóm HÀNH TRÌNH ĐẾN CHÂN LÝ tập họp quân số của họ trước khi xuất phát. Tổng cộng là hai trăm mười sáu người (bao gồm tám mươi vệ sĩ đi theo để làm công tác bảo vệ) và bảy mươi lạc đà được ba nhà thông thái Ga-par, Mê-chi-ô và Bal-tha-za hướng dẫn nhắm hướng của ngôi sao huyền nhiệm tiến bước. Họ sẽ vượt sa mạc rộng lớn hàng ngàn dặm đường với thời tiết khắc nghiệt, ban ngày trời nắng nóng như lửa đốt, ban đêm lạnh thấu xương và thỉnh thoảng phải đối diện với những trận bão cát sa mạc bất ngờ. Ngôi sao huyền nhiệm giống như một ngọn hải đăng từ đằng xa cuốn hút cả đoàn người tiến về phía trước. Những toán cướp trấn lột khách lữ hành trong sa mạc cũng phải chùn bước khi nhìn thấy lực lượng hùng hậu của nhóm ba học giả. Trên đường đi có lúc ngôi sao huyền nhiệm không được nhìn thấy qua ống kính thiên văn, và điều này trở nên một thử thách cho cả đoàn du hành. Ba thủ lĩnh của họ phải họp lại suy đoán để đưa ra quyết định nên tiến về hướng nào. Đôi khi cảm giác hụt hẫng đến trong tâm trí họ vì chuyến đi quá gian nan, nhưng niềm tin mãnh liệt vào một vị Vua lớn chắc chắn sẽ xuất hiện để cai trị thế giới làm hưng phấn những bước chân mỏi mòn của họ. Họ dựng những lều bạt ở qua đêm trên sa mạc, bên cạnh những đốm lửa bập bùng được nhen lên chống thú dữ và cướp. Hành trình chuyến đi được ghi chép cẩn thận trong cuốn biên niên sử bằng da lừa của họ.

Sau sáu mươi hai ngày du hành trong sa mạc, cuối cùng cả đoàn người đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Sự xuất hiện của họ làm cả thành phố xôn xao:

-Họ là ai, từ đâu tới, tại sao họ đến đây?

Một người phiên dịch trong đoàn hỏi một nhóm cư dân Giê-ru-sa-lem bằng tiếng Hê-bơ-rơ trên đường phố:

-Hoàng đế của Do Thái mới sinh đang ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài bên phương Đông, nên tìm đến đây để triều kiến Ngài.

Không nhận được câu trả lời thích hợp từ những người này. Nhưng câu hỏi của họ đã lan truyền đến tai vua Hê-rốt. Nhà vua chấn động và ông nhanh chóng nghĩ ra một kế hoạch.

“Nếu thực sự hài nhi mới ra đời là Vua dân Do Thái, thì quyền lực của ta đang bị thử thách đây”. Hê-rốt thầm nghĩ. Trong đầu ông chợt lóe sáng một âm mưu đen tối…

Hê-rốt là một người Ê-đôm, không phải là Do Thái chính gốc được Sê-sa-Âu-gút-tơ của đế quốc La Mã  dựng lên cai trị dân Do Thái. Vị Vua này bị bệnh hoang tưởng: bất kỳ một cá nhân nào mà ông nghĩ là nguy hiểm cho vương triều hiện tại đều bị ông ta thủ tiêu. Ông đã từng giết chết vợ và hai con trai vì cho rằng những người này muốn cướp ngôi của ông.

Hê-rốt triệu tập khẩn cấp các thầy tế lễ và thông giáo của Do Thái giáo để tìm hiểu xem vị vua mới sẽ sinh ra tại đâu. Các chuyên gia về Kinh Thánh nhanh chóng đưa ra câu trả lời:

-Thưa đại vương, theo lời tiên tri trong sách Mi-chê được viết cách đây năm trăm năm, vị vua mới này sẽ sanh ra tại Bết-lê-hem. Nơi đây là một tiểu thôn cô quạnh cách Giê-ru-sa-lem về hướng Nam chỉ hơn năm dặm đường.

“Tốt rồi, ta biết phải làm gì”, Hê-rốt tự nói với chính mình.

Hê-rốt bí mật mời nhóm các nhà thông thái vào trong cung để tra hỏi chi tiết về ngôi sao huyền nhiệm mà họ đã thấy từ Mê-sô-pô-ta-mi, rồi nhà vua yêu cầu họ đến Bết-lê-hem:

-Các ngươi hãy đi tìm hiểu kỷ về Hài Nhi đặc biệt đó, khi tìm được rồi hãy cho ta biết để ta cũng đến triều bái Ngài.

Nhóm học giả tiếp tục lên đường về phía Nam của Giê-ru-sa-lem theo hướng của ánh sao huyền nhiệm. Trên đầu họ ngôi sao lơ lửng như một khí cầu di động dẫn đường. Đấng Tối Cao đang can thiệp vào trật tự của thiên nhiên để đưa ra một tín hiệu kỳ diệu chỉ đường cho nhóm các học giả.

Lúc bấy giờ Chúa Jesus đã được một tháng tuổi đang ở trong một ngôi nhà bé nhỏ tại Bết-lê-hem cùng với bà Ma-ri, mẹ phần xác và ông Giô-sép, người bảo dưỡng của Ngài. Ngôi sao dẫn đường cho các nhà thông thái đưa dẫn bước chân của họ đến ngay địa chỉ mà họ muốn tìm. Ngôi sao huyền nhiệm dừng lại ngay phía trên của ngôi nhà như đã hoàn tất một sứ mạng lịch sử!

Ba nhà thông thái bước vào bên trong ngôi nhà diện kiến Đức Vua. Họ cung kính quì xuống thờ lạy Ấu Chúa đang nằm trong chiếc nôi nhỏ. Những lễ vật được dâng lên với lời tôn vinh đầy ý nghĩa của Ga-par, đại diện cho các nhà thông thái:

-Chúng tôi có mặt ở đây để triều bái vị Vua mới sinh. Chúng tôi tin rằng Ngài đã đến để làm Vua trên thế giới này. Ngài đến thay đổi dòng lịch sử của nhân loại. Từ thời điểm này cả thế giới sẽ nhìn thấy vinh quang của Ngài. Chúng tôi là những người hạnh phúc và may mắn được triều kiến Ngài hôm nay. Những lễ vật này được dâng lên cho Ngài bày tỏ sự tôn kính mà chúng tôi dành cho vị Vua vĩ đại của thế giới. Ngài đã đến đem Tin Mừng đích thực cho trần thế. Cả vũ trụ cũng vui mừng chào đón Ngài. Sự vinh hiển, cao trọng đáng được qui về cho Ngài từ bây giờ cho đến đời đời.

Ma-ri và Giô-sép ngỡ ngàng trước cuộc viếng thăm đặc biệt của các nhà thông thái. Ông bà không thể tưởng tượng ra một cảnh tượng hoành tráng như vậy với Hài Nhi Jesus. Bé trai này sẽ là Vua của cả thế giới sao? Trước và sau khi Đấng Em-ma-nu-ên trở thành nhục thể có biết bao nhiêu câu chuyện kỳ lạ xảy ra! Bao nhiêu câu hỏi hiện ra trong đầu của ông bà…

Trong giấc mơ tối hôm ấy, thần của Đức Giê-hô-va đã báo mộng cho các nhà thông thái hãy trở về quê hương bằng một con đường khác, họ không được phép quay trở lại cung điện Hê-rốt.

Thờ lạy Ấu Chúa xong, nhóm các học giả lên đường trở về. Giô-sép liền được Đấng Toàn Tri mách bảo qua chiêm bao phải đem Hài Nhi Jesus và mẹ Ngài sang Ai-cập tị nạn chính trị, vì vua Hê-rốt đang tìm cách giết chết Ấu Chúa. Giô-sép lập tức đưa Chúa Jesus và Ma-ri lên đường ngay trong đêm trốn sang Ai- cập để tránh cuộc truy sát tàn khốc sắp đến. Cuộc hành trình từ Bết-lê-hem sang Ai-cập rõ ràng không dễ chịu chút nào với Giô-sép, người thợ mộc này đã phải dùng đến số vàng mà các nhà thông thái dâng tặng lên Ấu Chúa để làm lộ phí cho một chuyến đi xa tị nạn chính trị đầy gian nan.

Các nhà thông thái trở về mà không gặp lại vua Hê-rốt làm nhà vua vô cùng tức giận. Một chiếu chỉ được ban ra từ triều đình: “Tiêu diệt tất cả các bé trai từ hai tuổi trở xuống trong toàn khu vực Bết-lê-hem và chung quanh.” Đây là một cuộc thảm sát kinh hoàng trong lịch sử tuyển dân chỉ với một mục đích: trừ khử Chúa Jesus khi Ngài còn là một hài nhi.

Con người luôn thất bại trong mọi thời đại khi tìm cách tiêu diệt Đức Chúa Trời và chương trình của Ngài. Chúa Jesus vẫn sống và sống đời đời trên ngôi cao cả, Ngài là Vua của muôn vua, là Chúa của muôn Chúa. Không có bất kỳ một thế lực nào có thể tiêu diệt Ngài.  Vương quốc của Ngài được thiết lập bằng tình yêu muôn đời bền vững trong khi tất cả các đế quốc khác sẽ phải tan tác như lá rụng mùa Thu.

Ngôi sao huyền nhiệm không còn nữa trên đường trở về, nhưng thần của Chúa trở thành hoa tiêu hướng dẫn hành trình cho các nhà thông thái qua những giấc chiêm bao. Sự hướng dẫn thần thượng này mang tính chất phổ thông vào thời đó. Đấng Toàn Năng đã bảo vệ và ban phước cho đoàn du hành trong suốt chuyến đi.

Các nhà thông thái và đoàn tùy tùng của họ trở về quê hương trong niềm vui mừng hoan lạc. Họ đã tận mắt chiêm ngưỡng, thờ phượng vị Vua lớn của lịch sử. Sau chuyến đi họ làm một cuốn lịch mới để đánh dấu cho sự kiện vô tiền khoáng hậu này. Họ bắt đầu gọi năm nay – năm đánh dấu Chúa vào đời là năm thứ nhất sau Công Nguyên. Một kỷ nguyên mới, một rạng đông mới đã đem đến hòa bình, hy vọng cho toàn thể nhân loại.

Ngày hôm nay quí vị có ngôi sao nào dẫn đường cho cuộc hành trình của mình?

TƯỜNG VI

 

Nguồn: http://songdaoonline.com/e2719-ngoi-sao-huyen-nhiem-tuong-vi-bai-chon-dang-so-76-.html

Post Navigation