Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “Uncategorized”

HÃY CHO EM MỘT CHÚT TRÍ KHÔN

241efd1386431510votayjpg4

Bé Thư ra đời tại bệnh viện Từ Dũ vào một buổi tối tháng 6 khi thành phố bước vào mùa mưa. Hàng cây trên đường Nguyễn thị Minh Khai bên ngoài lao xao theo từng cơn gió lạnh. Cô nữ hộ sinh đem bé lên bàn cân, cây kim dừng lại ở con số một ký rưỡi. Đây là một ca sinh khó khăn cho các bác sĩ, vì em bé được đưa ra khỏi bụng mẹ nhờ sự trợ giúp của y khoa. Bé được chăm sóc theo chế độ đặc biệt của Khoa Sản. Sau hai tháng kể từ ngày sinh bé được xuất viện trở về cùng với mẹ. Read more…

Con mắt thuộc linh

Người đời thường nói ” con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Lới Kinh thánh ở Luca 11:27 chép rằng : ” Con mắt là ngọn đèn của thân thể ….”
Đôi mắt là một trong 5 giác quan trong phần xác con người   để tiếp giáp với   thế giới vật chất; cũng như phần tâm linh ( spirit ) trong phần linh hồn ( soul  ) để tiếp giáp với thế giới thần linh.
Nếu mắt thuộc thể không hoạt động được bình thường thì có thể không thể nhìn thấy những vật ở xa, y hoc gọi là bệnh viển   thị ( near sightedness ); hoặc là có thể không nhìn thấy những vật ở gần, ta gọi là bệnh cận thị ( near sightedness ) cũng có thể mắt thấy một đồ vật không còn chính xác như hình thể của nó, trường hợp này ta gọi là bệnh loạn thị ( astigmatism ) ; còn  nếu mắt không thể phân biệt được màu sắc thì đó là bệnh loạn săc courlorblindness).
Trường họp đặt biệt mắt bị hư hỏng và mất thị lực hoàn toàn   thì đó là bệnh mù ( blindness);
về phương diện thuộc linh thì cũng có những bệnh măt tương tự mà Kinh thánh có đề cập đến:
1/ Bệnh mù: ( blindness )
II Phiero 1: 5-9
Nếu một người tin Chúa mà không có nhơn đức, trí thức,tiết chế, nhẫn nại,kỉnh kiền. tử tế với anh em và lòng yêu thương, thì đời sống tâm linh của người đó đui mù.
Một người mù thường thường dùng cơ quan xúc giác sờ mó  để nhận biết sự vật đó. Sự nhận biết này thưc sự phiến diện . Một người mù sờ được cái đuôi con voi và nói rằng con voi giống cây chổi quét nhà.Một người mù khác sờ được tai voi và cải lại rằng con voi giống cái quạt.Cho một người mù khác sờ con voi trúng cái chân, người mù này nói rằng các người nói trật hết, con voi giống cái cột nhà.
Chúng ta hãy xem những người   mù  sau đây:

a/ Báp tem thuộc linh trong Đấng Christ theo Rô ma 6:6 mà khước từ báp tem bằng nước theo Mac 16:16.
b/ Giăng 1:1 ” Ngôi lời là Đức Chúa Trời ” Họ chủ trương và cổ xuý rằng “Ngôi lời trở thành xác thịt đầy ơn và lẻ thật ở giửa chúng ta” không có thân vị nên Đúc Chúa Trời chỉ có một ngôi.
Lại có người cho rẳng ” Ngôi lời” là một thần của Đức Giê Hô Va ( Chứng nhân GHV) .
Ngày nay trong Hội thánh có hiện  tượng đui mù trong viêc giải nghĩa kinh thánh làm cho con dân Chúa bối rối, sai lạc trong lẽ thật, phân rẽ thân thể Đấng Christ.

 

2/Cận thị : ( near- sightedness )

Nếu ai có một phần nhỏ những đặc tính mà Kinh thánh liệt kê ở II Phiero 1: 5-9 thi không bị mù mà bị cân thi.
Cận thị là người chỉ thấy những vật ở gần mình mà không thấy những vật ở xa.
Những trường hợp cận thị có ghi chép trong KT:
a/ Sáng thế ký 13:10-11: ” Lót chỉ nhìn thấy đồng cỏ xanh tươi trước mắt chứ không thấy được tương lai Sô đôm và Gô mô rơ phải bị huỷ diệt vì sự gian ác của nó.

b/ Ê sau là người chỉ thấy tô canh đậu phụng đáp ứng cho cơn đói sau khi đi săn về chứ không thấy sự tổn hại của quyền trưởng nam bị mất trong tương lai. 
sách Ê sai  cho chúng ta thấy thế giới này phần lớn cũng cận thi thuôc linh vì ” trong số các ngươi có sự vui mừng hớn hở. Người ta mổ bò giết chiên,  ăn thịt, uống rượu: Hãy ăn uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết” ( Ê- sai 22: 13 )
Nếu mắt thuộc linh của quý vị và các bạn hoàn hảo thì các bạn sẽ phát hiện được nhiều bệnh đau mắt thuôc linh trong kinh thánh.
Loài hải cẩu ( seal) là loài động vật cận thi nên người săn hải cẩu dễ dàng tiến đến gần và bắn nó.

3/ Viển thị ( Farsightedness )
Người viển thị thì chỉ thấy rõ   những vật ở xa còn những vật ở gần thì không.
Người viển thị thuôc linh dễ trở thành viển tưởng, hoan tưởng.

Dân Israel trông mong Đấng Mê-si đến cầm quyền cai trị họ để nước họ sẽ bá chủ thế giơi.
Bệnh viển thị của họ đã trở thành hoang tưởng và họ đã giết Đấng Mê si đã đến bên họ. Họ viển thị nặng đến nổi họ còn đang trông chờ Đấng Mê-si mà họ đã giết cách đây hơn 2000 năm.
Họ không thấy Jesus , Đấng Cứu thế,  đã sinh ra ở Na xa ret hiu quạnh. Thuỷ tinh thể thuộc linh không điều tiết được để thấy Đấng Mê-si ở gần.! tiết thay cho một dân tộc viển thị thuôc linh. Lời Chúa ở Mathio 21:44 có phán rằng: ” Kẻ nào rơi trên đá này phải bị dập nát, còn hể đá ấy rơi nhằm ai, thì sẽ làm cho nấy tan ra như bụi.”

Những người viển thị thuôc linh thì yêu Đức Chúa trời tha thiết nhưng không thể yêu thương anh em ở bên cạnh mình. I Giăng 4:20 ” … vì kẻ nào chẳng thương yêu anh em mình là người mình đã thấy, thì thế nào thương yêu Đức Chúa Trời là Đấng mình chẳng thấy được ư? “.
Người mắc bênh viển thị hay sống trong  ảo mộng, chi mong  điều thuộc linh, thiêng liêng chờ lên thiên đàng mà không thấy điều hiện thực trước mắt mình và quên đi trách nhiệm rao giảng Tin lành.
Những người này có thể tương giao với Đức Chúa Trời trong thời gian lâu nhưng mở mắt ra  nhìn tín hữu,  anh em,  bạn bè , bà con ở địa phương mình một cách vô cãm, lạnh lùng. Họ  chỉ thấy Chúa vinh hiển ở xa chứ không thể thấy người ở gần.
Chúa Jesus là người có mắt thuộc linh hoàn hảo. Ngài lo việc Cha thiên thượng nhưng Ngài cũng thuận phục cha mẹ phần thuộc thể của mình ở dưới đất.
Luca 2:49,51 ” Ngài thưa rằng, cha mẹ kiếm tôi làm chi? Há chẳng biết tôi phải lo việc cha tôi sao?… Đoạn, Ngài theo về thành Na xa rét và chịu luỵ cha mẹ. Mẹ Ngài ghi các lời ấy vào lòng.”.

4/ Loạn thị:( astigmatism )
Người loạn thi là người thấy gà hoá quốc. lẫn lộn lẻ thật này với lẻ thật khác vì nó na ná giống nhau.
Chúa Jesus cũng đã chửa bệnh mù và loạn thị khi Ngài thi hành chức vụ ở trần gian nầy.

” Jesus và môn đồ đến Bết-sai-đa. Người đem cho Ngài một người mù, nài xin Ngài rờ đến người. Ngài bằng nắm tay người mù, dắt ra ngoài làng, thấm nước miếng lên mắt người, rồi hỏi rằng ” có thấy chi không?”. Người mù ngó lên mà thưa rằng:” Tôi thấy người ta, và nhìn họ đi giống như cây.”. Ngài lại đặt tay trên mắt người; người nhìn chăm chăm thì được toại nguyên, thấy rõ ràng cả thảy.” ( Mac 8 :22-24 )

Nhiều tín đồ lẫn lộn giữa luật pháp và ân điển.Họ vừa nhận ân điển vừa đòi phải giữ luật pháp.

 Thậm chí  người giảng dạy lời Chúa cũng bị loạn thị chứ không phải riêng gì tín đồ. Hêb 10:28-29 “Ai đã phạm luật pháp Môi se, nếu có hai ba người làm  chứng, thì chết đi không thương xót, huống chi kẻ dày đạp con Đức Chúa Trời, coi huyết của giao ước, tức là huyết mà mình nhờ nên thánh, là ô uế, lại khinh lờn Đức Thánh-linh ban ơn, thì anh em há chẳng tưởng rằng người ấy đáng bị hình rất nghiêm đoán phạt hay sao?”

Rõ ràng là loạn thị nên họ  chỉ lấy câu 28 để đe doạ và buộc tín đồ nhận ân điển nhưng cũng phải giữ luật pháp nữa. Họ quán gà ( loạn thị) nên không thấy ý nghĩa của từ nối giử 2 câu ” huống chi”….chưa nói đến sai phạm theo nguyên tắc giải kinh.

 

Nhiều trường hợp người loạn thị thuộc linh nghĩ rằng “ngỏ hẹp” là thiên đàng chớ không hề thấy đó là vương quốc ngàn năm; ” ;cũng vậy “ngỏ rộng và đường khoản khoát” là địa ngục chứ không thấy đó là nơi khóc lóc, nghiến răng dành cho những đầy tớ vô ích và biếng nhác.( Matt 7:13-14; Matt 25:30)

Người loạn thị cũng không phân biệt được thiên đàng và thành thánh Jerusalem.

Thiên đàng là quê hương đời đời trên trời của tín đồ ( Heb 11:16 ), còn thành thánh là hội thánh trong cỏi đời đời, là hội chúng đã được cứu ( khải 21:10-11) : ” Rồi tôi được Thánh linh cãm động, thiên sứ đó đưa tôi đến trên một hòn núi lớn và cao và chỉ cho tôi thấy thành thánh, là Jerusalem, từ trên trời, ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống, rực rở vinh hiển của Đức Chúa trời. Sự chói sáng của thành ấy giống như của một viên bửu thạch, như bích ngọc, trong như thuỷ tinh.”

5/ Loạn sắc:( colourblindness )

Người loạn sắc thuôc linh không nhìn thấy lẻ thật của những từ cùng âm dị nghĩa ( homnonym) được dùng trong kinh thánh.

Khi tôi còn nhỏ đi học bậc trung học đệ nhất cấp ( TH cơ sở bây giờ), sau buổi hoc về, người bạn tôi giỏi trèo cây nên leo lên cây chay cao to ở đình làng để hái những quả chay chín màu vàng chói để cùng nhau ăn. Lạ thay anh ta hái toàn những trái to còn xanh. Té ra anh ta bị loạn sắc, màu vàng cũng trở thành màu xanh.

+ Từ ” ngủ ” được dùng trong kinh thánh có những ý nghĩa khác nhau: 

*/  ” ngủ ” với nghĩa nghỉ ngơi.

” Bổng có cơn bảo lớn nổi lên giữa biển, đến nỗi sóng dậy phủ thuyền; nhưng Ngài đang ngủ.”( Matt 8:24 ).

*/ ” ngủ ”  với nghĩa yếu đuối .” Hỡi kẻ đang ngũ, hãy thức, hãy vùng dậy giữa đám người chết, ta sẽ chiếu sáng ngươi.” ( Êph 5:14 )

*/ ” ngủ” với nghĩa là chết.

” Bạn La -xa-rơ chúng ta đã ngủ rồi, nhưng ta đi đánh thứ người”. Môn đồ bèn nói rằng:” Thưa Chúa nếu người ngủ, chắc sẽ được lành” Vả Jesus nói điều đó  chỉ về sự chết của La-xa-rơ, song môn đồ tưởng Ngài nói về sự ngủ thông thường. Jesus bèn nói tỏ tường rằng: ” La-xa-rơ chết rồi”.( giăng 11: 11-14 )

+ Toà án:

Người loạn sắc cũng luôn lẫn lộn

a/ Toà án xét xử tín đồ ( 2 Cor 5::10 )

b/ Toà án xét xử dân vô tín còn sống, chiên với dê ( Matt 25: 31-46 ; Sứ đồ 10:42 )

c/ Toà án xét xử dân vô tín đã chết sống lại ( khải 20:11-15; II Tim 4:1 ).

+ Sao mai

– ” Ta sẽ cho người ngôi sao mai ” ( Khải 2:28 ) 

– ” Hỡi sao mai ( sa tan ), con trai của sáng sớm kia, sao ngươi từ trời sa xuống”

Người loạn săc  thì càng không phân biệt được từ ” sao mai ” này.

Khải 22:16  bày tỏ Chúa Jesus là sao mai mọc lên trước cơn đại nạn. Malachi 4:2 nói Chúa Jesus là mặt trời mọc lên sau đại nạn, người thức dậy trể chỉ thấy mặt trời, như Chúa hiện ra sau đại nạn. Còn Sao mai chỉ Satan thì không liên hệ gì đến Sao mai ở khải huyền cả.

 

Trong kinh thánh cũng có chép về môn đồ của Chúa cũng bị loạn sắc trong trường họp Chúa dùng từ ” men” để chỉ về ” đạo của người Pha-ri-si” thì họ nghĩ về men để làm bánh ( Matt 16: 5-12)

 

Kết luận:

Qua các phần trình bày ở trên cho ta thấy mắt thuộc linh cũng có những bệnh lý về mắt như đui mù, cận thị , viễn thị, loạn thị và loạn sắc cùng hậu quả kèm theo cũng như những yếu tố làm cho mắt thuộc linh mất đi thị lực hay hạn chế đến khả năng thị giác ( visual ability ).

 Tầm quan trọng của người lảnh đạo hội thánh hay giao hội cũng như người giảng dạy lời Chúa vi Kinh thánh dạy rằng ” Kẻ mù có thể  dắt kẻ mù được không? Cả hai há chẳng cùng té  xuống hố sao ?” ( Luca 6:39 ).

 Khải thị 3:17- 18: ” Vả ngươi nói: Ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa; song ngươi không biết rằng mình khổ sở, khốn khó, nghèo ngặt, đui mù, và loả lồ. Ta khuyên ngươi hãy mua vàng đã thử qua lửa của ta, hầu cho ngươi trở nên giàu có ; mua những áo trắng, hầu cho ngươi được mặc vào và điều xấu hổ về sự trần truồng ngươi khỏi lộ ra; lại mua thuốc xức mắt đặng thoa mắt ngươi, hầu cho ngươi thấy được”

Thêm một lần nữa cho ta thấy tính tự cao, tự mãn làm cho mắt thuôc linh đui mù không thấy được sự nghèo ngặt, loả lồ, trần truồng đáng xấu hổ của mình.

Thuốc xức mắt là Thánh Linh của Chúa chúng ta không cần phải mua mà chỉ cần cầu xin Ngài đầy dẫy trong ta để có đủ sức từ bỏ những yếu tố tác hại đến khả năng thị giác mà kinh thánh đã bày tỏ cho chúng ta.

Chúng ta cũng xin Linh khôn ngoan và mặc khải ( the spirit of wisdom and revelation ) giúp chúng ta  qua lời Ngài  hiểu biết về Chúa  tốt hơn, lại soi sáng con mắt lòng của chúng ta nữa.( Êph 1:17-18 ).

 

Amen.

Muc sư JosephNa.

 

Giuđa hôn Thầy

Giuđa hôn Thầy

 ilya-glazunov-the-kiss-of-judas-1985-e1268375831261
Trong Kinh Thánh, “cái hôn” là một dấu chỉ tình yêu thương âu yếm cũng như của lòng kính trọng. Danh từ “cái hôn” là Philema. Từ ngữ nầy xuất hiện ở  ICô-rinh-tô 16:20—“cái hôn thánh”. Dừng lại với các sách Tin Mừng, chúng ta thấy có động từ  Hy Lạp phileô vừa có nghĩa là “hôn” (Ma-thi-ơ 26:48), vừa có nghĩa là “yêu thương” (phileo- Khải 3:19); như vậy, cái hôn là một hành vi bên ngoài biểu lộ tâm tình yêu thương trong lòng. Còn một động từ Hy Lạp khác là kataphileô có nghĩa là “hôn thắm thiết, nồng nàn”; trong động từ này vẫn có động từ phileô; còn tiếp-đầu-ngữ kata ở đây có nghĩa là “cách trọn vẹn- là ấn xuống”, nên có thể mô tả kataphileô theo nghĩa gốc là “yêu thương trọn vẹn; yêu mến cách đậm đà).



Thế nhưng “cái hôn”, dấu chỉ của tình yêu này đã được con người ứng dụng nhiều cách.
 
1) Cái hôn của Giuđa
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều nói đến cái hôn của Giuđa (Ma 26:48-49; Mac 14:44-45; Luca 22:47-48). Nét tinh tế của các tác giả Tin Mừng là ở chỗ này: Các ông kể rằng Giuđa đã cho đám người đi bắt Đức Giêsu một dấu hiệu: “Tôi hôn ai thì chính là người đó” (Ma 26:48; Mac 14:44; Luca  22:47); chữ “hôn” ở đây là phileô. “Ngay lúc đó, Giuđa tiến lại gần Đức Giêsu và nói: ‘Rabbi, xin chào Thầy!’, rồi hôn Người” (Ma 26:49; Mac 14:45); chữ “hôn” ở đây lại là kataphileô, “hôn thắm thiết, nồng nàn”. Giuđa đã dùng một cử chỉ để diễn tả “tình yêu thương tha thiết, trọn vẹn”, “cái hôn thắm thiết”, để phản bội Chúa Giêsu là Tình Yêu Đức Chúa Trời nhục hóa! Một trái tim phản bội che giấu hành vi bất lương dưới một cái hôn nồng nàn, giả dối.
 
2) Cái hôn của người phụ nữ vô danh
Tuy nhiên, có một người phụ nữ đã biết dùng hành vi yêu thương này thật tế nhị. Không phải là cô Mari ở Bêthania (Ma 26:6-13 và Mac 14:3-9 không nêu tên nhân vật, nhưng so sánh với Giang 12:1-8 thì có thể xác định là Mari), cũng không phải là Mari Ma đơ-len mà truyền thống nghĩ là được nói đến trong câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” (Giang 8:2-11), vì các bản văn không nói là các bà này hôn Đức Giêsu. Đây là một “người phụ nữ tội lỗi trong thành”, nghĩa là “tội lỗi công khai” (xin đọc bản văn Lucc 7:36-50). Bà đã “đứng đàng sau, sát chân Chúa Giêsu mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên” (Luca 7:38). Chữ “hôn” ở đây là kataphileô, “hôn thắm thiết”. Một tâm hồn tội lỗi đến gặp Đức Giêsu để thú nhận tình trạng bất chính của mình cùng với lòng kính trọng và tâm tình biết ơn sâu xa bằng những nụ hôn thắm thiết đặt lên chân Người…
 
3) Cái hôn của người cha
“Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Luca 15:20). “Hôn lấy hôn để” là công thức mà Bản dịch Công giáo đã dịch  từ ngữ kataphileô. Người cha đã ôm cổ đứa con hoang đàng mà hôn với hết lòng yêu thương của ông, trong khi anh ta quay về với lòng dạ giả dối, với một “bài diễn từ” dọn sẵn, chỉ cốt để khỏi chết đói ( Luca 15:17-18). Câu chuyện này chỉ là một dụ ngôn, nhưng “có thật”, vì Chúa Giêsu dùng để bày tỏ lòng yêu thương của Đức Chúa Trời Cha đối với chúng ta. Đức Chúa Trời vẫn “hôn” chúng ta nồng nàn trong ơn tha tội, để đón chúng ta trở về, dù mấy khi lòng chúng ta quay trở về với Người với trọn con tim?…
 
4) Tin Mừng còn nói đến cái hôn nào?
Các Tin Mừng không còn nói đến cái hôn nào nữa, trừ phi là, một cách lố bịch, người ta cả gan chú giải và dịch méo mó lời Chúa Giêsu và ông Phêrô trao đổi với nhau: “Này anh Simôn, con ông Giang, anh có mến (phileis) Thầy không? – Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến (philô) Thầy” (Giang 21:17). Bản văn Hy Lạp dùng động từ phileô, nhưng dĩ nhiên phải hiểu là “yêu mến”, chứ không phải là “hôn”.
 
5) Động từ Kataphileo ( hôn nồng nàn, hôn thắm thiết)  chỉ xuất hiện 6 lần trong kinh Tân Ước:
 
    a/  Mathio 26:49, “Tức thi Giu-đa đến gần Jêsus mà nói rằng: “Mừng Ra-bi!” Rồi hôn riết Ngài”.
 
    b/ Mác 14:45, “Vậy, khi Giu-đa tới rồi, tức thì đến gần Ngài mà nói rằng: “Ra-bi!” Rồi hôn riết Ngài”.
 
     c/ Lu ca 7:38, 45, “Kìa, có một nữ tội nhân ở thành đó, biết Ngài đang ngồi bàn tại nhà người Pha-ri-si, bèn đem đến một bầu bằng ngọc đựng dầu thơm, đứng đằng sau nơi chân Ngài mà khóc, nước mắt nhỏ ướt chân Ngài, rồi lấy tóc mình mà lau, và hôn riết chân Ngài, lại xức dầu thơm cho.- Ngươi không hôn ta, nhưng nàng từ khi ta vào nhà thì hôn riết chân ta không ngớt”. (Chép hai lần)
 
   d/  Luca 15:20, “Nó bèn đứng dậy mà về cùng cha. Khi còn ở đàng xa, cha thấy nó thì động lòng thương xót, chạy ra ôm lấy cổ mà hôn riết”.
 
    e/ Công Vụ 20:37, “Ai nấy đều khóc dầm dề, ôm lấy cổ Phao-lô mà hôn riết, lấy làm buồn bực nhứt là vì lời người nói rằng họ sẽ chẳng còn thấy mặt người nữa. Đoạn, họ đưa người xuống thuyền”.
 
Tóm lại cái hôn kataphileo ( hôn nồng nàn, thắm thiết)  là cái hôn của Đức Chúa Trời Cha được diễn tã qua người cha già hôn tha thứ tiếp nhận đứa con đi hoang, là cái hôn chân tình của thánh đồ đối với sứ đồ Phao-lô, là cái hồn năn năn tội lỗi của nữ tội nhân hôn bàn chân của Chúa Jesus. Đang tiếc là tên phản đồ Giu đa đã dùng loại hôn thắm thiết nầy để phản Thầy mình. Xin Chúa cứu chúng ta.

 
CÁI HÔN QUỈ QUYỆT
    ( Luca 22:47-48)
Hôn mưu, hôn kế giết người ta,
Hôn của Satan quỉ quyệt mà!
Đánh giá cái hôn ba chục bạc,
Ngàn thu khôn chuộc tiếng “Giu đa”.
Ms Phan Đình Liệu—10-1934

ROMANS 5

9780310925880_p0_v1_s260x420

Romans 5

New International Version (NIV)

Peace and Hope

Therefore, since we have been justified through faith, we have peace with God through our Lord Jesus Christ, through whom we have gained access by faith into this grace in which we now stand. And we boast in the hope of the glory of God. Not only so, but we also glory in our sufferings, because we know that suffering produces perseverance; perseverance, character; and character, hope. And hope does not put us to shame, because God’s love has been poured out into our hearts through the Holy Spirit, who has been given to us.

You see, at just the right time, when we were still powerless, Christ died for the ungodly. Very rarely will anyone die for a righteous person, though for a good person someone might possibly dare to die. But God demonstrates his own love for us in this: While we were still sinners, Christ died for us.

Since we have now been justified by his blood

m, how much more shall we be saved from God’s wrath through him! 10 For if, while we were God’s enemies, we were reconciled to him through the death of his Son, how much more, having been reconciled, shall we be saved through his life! 11 Not only is this so, but we also boast in God through our Lord Jesus Christ, through whom we have now received reconciliation.

Death Through Adam, Life Through Christ

12 Therefore, just as sin entered the world through one man,and death through sin, and in this way death came to all people, because all sinned—

13 To be sure, sin was in the world before the law was given, but sin is not charged against anyone’s account where there is no law. 14 Nevertheless, death reigned from the time of Adam to the time of Moses, even over those who did not sin by breaking a command, as did Adam, who is a pattern of the one to come.

15 But the gift is not like the trespass. For if the many died by the trespass of the one man, how much more did God’s grace and the gift that came by the grace of the one man, Jesus Christ, overflow to the many! 16 Nor can the gift of God be compared with the result of one man’s sin: The judgment followed one sin and brought condemnation, but the gift followed many trespasses and brought justification. 17 For if, by the trespass of the one man, death reigned through that one man, how much more will those who receive God’s abundant provision of grace and of the gift of righteousness reign in life through the one man, Jesus Christ!

18 Consequently, just as one trespass resulted in condemnation for all people, so also one righteous act resulted in justification and life for all people. 19 For just as through the disobedience of the one man the many were made sinners, so also through the obedience of the one man the many will be made righteous.

20 The law was brought in so that the trespass might increase. But where sin increased, grace increased all the more, 21 so that, just as sin reigned in death, so also grace might reign through righteousness to bring.

 

Những điểm ngữ pháp cần nghiên cứu để hiểu rõ Lời Chúa:

1.  THEREFORE : ( Adverb) for that reason.

Ex: Therefore, since we have. been justified through faith, we have peace with God through our Lord Jesus Christ,”  (v 1)  câu này ý tưởng liên tục với câu 25 của Romans 4:  He was delivered over to death for our sins and was raised to life for our justification.”( Romans 4:25).

 Therefore, just as sin entered the world through one man,and death through sin, and in this way death came to all people, because all sinned.” (v 12).

 THEREFORE thường được đặt ở giữa câu (ngoài ra cũng có thể đặt  ở đầu hoặc cuối câu)

Ex:
– We feel, THEREFORE, that a decision must be made.

2. SINCE là  liên từ (cọnjunction) chỉ lý do.

SINCE + clause  tạo thành mệnh đề phụ chỉ lý do ( subordinate clause of reason). Nếu nó đứng trước mệnh đề chính thì phải có dấu phảy ( comma )

Ex:
SINCE we arrived late, all the best seats had been taken.

Since we have now been justified by his blood, how much more shall we be saved from God’s wrath through him!” (v 9)

3. However và Nevertheless là adverb 

Howevernevertheless – diễn đạt sự tương phản. Nevertheless trang trọng và nhấn mạnh hơn However. Cả 2 từ thường đứng đầu câu nhưng cũng có thể đứng giữa hoặc cuối câu.

Ex: I can understand everything you say about wanting to share a flat with Martha. However, I am totally against it.

“To be sure, sin was in the world before the law was given, but sin is not charged against anyone’s account where there is no law.  Nevertheless, death reigned from the time of Adam to the time of Moses, even over those who did not sin by breaking a command, as did Adam, who is a pattern of the one to come.” (v 13-14).

4. HOW MUCH MORE

“For if, by the trespass of the one man, death reigned through that one man, how much more will those who receive God’s abundant provision of grace and of the gift of righteousness reign in life through the one man, Jesus Christ!” (v 17). Vả, nếu bởi tội một người mà sự chết đã cai trị bởi một người ấy, thì huống chi những kẻ nhận ân điển và sự ban cho của sự công bình cách dư dật, họ sẽ nhờ một mình Đức Chúa Jêsus Christ mà cai trị trong sự sống là dường nào!

“Since we have now been justified by his blood, how much more shall we be saved from God’s wrath through him” (v 9). Huống chi nay chúng ta đã nhờ huyết Ngài được xưng công bình, thì sẽ nhờ Ngài được cứu khỏi cơn thạnh nộ là dường nào

5. THROUGH: preposition ( giới từ ) có nhiều cách dùng và tuỳ mỗi trường hợp nó có nghĩa khác nhau.

a/ Trong Roman 5 các câu 1,2,9,10,11,12,17,19 va 21.

THROUGH được dùng để chỉ tác nhân hay phương tiện ( indecating the agent or means) : nhờ, bởi, vì

” Therefore, since we have been justified THROUGH faith, we have peace with God THROUGH our Lord Jesus Christ .” Roman 5:1

Roman 7:25 cũng được dùng với nghĩa này:

“I thank God THROUGH Jesus Christ our Lord.”

b/ THROUGH : qua ( through sb/ sth)

Hebrews 10:20

” by a new and living way opened for us THROUGH the curtain, that is, his body”

Matt 19:24

” Again I tell you it is easier for a camel to go THROUGH the eye of a needle for a rich man to enter the kingdom of God.”

Deuteronomy 2:27

” Let us pass THROUGH your country.We will stay on the main road; we will not turn aside to the right or to the left.”

Ngoài ra THROUGH cũng được dùng như một trạng từ ( adverb ) và được dùng trong kinh thánh nhiều lần.

Chúng ta sẽ khảo sát và nghiên cứu khi gặp từ nầy trong thời gian tiếp theo.

Lưu ý một điều là khi THROUGH được dùng như một giới từ thi nó phải có một túc từ ( object ) theo sau.

Nguyền xin Chúa ban ơn cho chúng ta trong khi nghiên cứu lời Ngài theo Ephrsians 1:17 “I keep asking that the God of our Lord Jesus Christ, the glorious Father, may give you the Spirit of wisdom and revelation, so that you may know him better.”

Emmanuel

Ban Biên tập.

Slow Erosion – Sự Xói Mòn Chậm Chạp

Slow Erosion

Decline is everywhere in the church, but many don’t see it. 

It is rare for a long-term church member to see erosion in his or her church. Growth may come rapidly, but decline is usually slow, imperceptibly slow. This slow erosion is the worst type of decline for churches, because the members have no sense of urgency to change. They see the church on a regular basis; they don’t see the gradual decline that is taking place before their eyes.

Often the decline is in the physical facilities, but it is much more than that. The decline is in the vibrant ministries that once existed. The decline is in the prayer lives of the members who remain. The decline is in the outward focus of the church. The decline is in the connection with the community. The decline is in the hopes and dreams of those who remain.

 

Tạm dịch:

Sự Xói Mòn Chậm Chạp

Sự sút giảm đang diễn ra khắp nơi trong Hội thánh, nhưng nhiều người không thấy.

Hiếm khi một tín hữu lâu năm nhìn thấy sự xói mòn trong Hội thánh. Sự tăng trưởng đến nhanh, nhưng sự sút giảm thường thì chậm, chậm đến mức không nhận ra. Sự xói mòn chậm chạp như thế là hình thức sút giảm tệ hại nhất của các Hội Thánh, bởi vì các thành viên không cảm nhận được sự cấp thiết phải thay đổi. Họ cứ nhìn xem Hội Thánh như bình thường; họ không thấy được sự sút giảm dần dần đang diễn ra trước mắt.

Thông thường thì sự sút giảm sẽ thấy trong cơ sở vật chất hữu hình, nhưng còn nhiều hơn thế. Sự sút giảm nằm trong các hoạt động mục vụ sinh động mà trước đây đã từng có. Sự sút giảm nằm trong đời sống cầu nguyện của các thành viên ngày nay còn sót lại. Sự sút giảm nằm trong các hoạt động hướng ngoại của Hội Thánh. Sự sút giảm nằm trong sự gắn kết giữa Hội Thánh với cộng đồng. Sự sút giảm nằm trong hy vọng và ước mơ của những người còn sót lại.

 

LMĐ.

TÌNH YÊU CỦA MÁ

 

2014_05_15_byht8say7sj

Trong những năm người Pháp còn cai trị Việt Nam, ông nội của tôi đã tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa trong một chiến dịch truyền giảng Tin Lành tại Bình Định.

Ngày đó ông tôi là một thầy thuốc Đông y nổi tiếng tại Đập Đá, An Nhơn. Quê hương của ông được nói đến trong câu ca dao này:

Ai về Đập Đá Gò Găng

Để em kéo sợi đêm trăng một mình?

Ba tôi là đứa con thứ mười một (áp út) của ông bà tôi. Ba lớn lên trong một gia đình tương đối khá giả thời đó, nên được học hành đàng hoàng hơn hẳn những thanh niên cùng thời. Ba tôi còn là một người đàn ông với những sở thích rất nghệ sĩ như: chơi đàn Violin, Accordion, thổi kèn Harmonica… và  lái xe ô tô.

Khi ba tôi mười chín tuổi, ông nội dẫn ba ra Quảng Ngãi để coi mắt vợ tương lai. Má tôi lúc ấy là một thiếu nữ phơi phới đang lên với những ước mơ lấp lánh như hạt thủy tinh ngời sáng trong đôi mắt. Vào thời đó, dân gian thường nói về chuyện hôn nhân: Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Ba tôi háo hức lên tàu lửa đi cùng ông nội ra Tư Nghĩa, Quảng Ngãi để “diện kiến” người vợ tương lai. Khi đến nơi, mệt mỏi vì đường xa với đoàn tàu lửa  chạy cà rịch cà tang trên suốt lộ trình, ba tôi nằm ngay trên bộ ván của bà ngoại (ông ngoại tôi đã ra đi khi má tôi lên tám tuổi) giữa phòng khách đánh một giấc ngon lành bất kể trời trăng mây gió. Mọi người trong nhà và hàng xóm hiếu kỳ đứng ngoài hè nhìn vô xem thử chàng trai này mặt mũi ra sao. Bà hàng xóm nhận xét: “Trông nó hiền hậu và sáng sủa đấy chứ. Nếu con bé Út Mai chịu ưng thằng này thì tuyệt lắm đây.”

Má tôi lúc ấy đâu dám nói gì, nhưng nhất cử nhất động của ba tôi không thể nào qua khỏi con mắt “tinh tường” của bà.

Bà ngoại đem bình trà ra mời khách, ông nội bắt đầu câu chuyện với bà ngoại và cậu Ba:

-Chị biết đấy, chuyện tình duyên của con cái chúng ta phải theo nguyên tắc của Kinh Thánh. Áp-ra-ham đã cầu nguyện và tìm kiếm một cô dâu xứng đáng cho con trai của ông là Y-sác. Và rồi gia đình này đã tìm được một nàng Rê-be-ca có đầy đủ công, dung, ngôn, hạnh, xứng đáng là một người nữ tài đức theo Châm Ngôn chương 31. Tôi cũng theo nguyên tắc đó. Cậu con trai nhà tôi hôm nay đã đến đây không phải ngẫu nhiên, nhưng nó đến từ sự cầu nguyện của tôi và chị, nói rộng ra là lời cầu nguyện của cả hai gia đình chúng ta. Tôi và chị là những môn đồ của Chúa, thì việc dựng vợ gả chồng cho con dĩ nhiên phải đi theo hướng dẫn của Lời Chúa. Người Việt mình có câu ca dao này: Trai khôn tìm vợ chợ đông. Gái ngoan tìm chồng giữa chốn ba quân. Cái “chợ đông” hay “ba quân” của văn hóa Việt Nam phải được điều chỉnh lại trong ánh sáng của Kinh Thánh là trong vòng “cộng đồng cơ đốc”. Vì vậy tôi chỉ có thể tìm kiếm một cô dâu giữa vòng hội thánh mà thôi.  Nếu Út Mai nhà chị không chê thằng con trai của tôi, thì chúng ta sẽ tiến hành lễ cưới cho chúng nó trong năm nay. Ông bà mình thường nói: Cưới vợ thì cưới liền tay. Chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha. Ý của chị như thế nào?

Bà ngoại thong thả trả lời:

-Anh nói cũng phải. Chúng ta là cơ đốc nhân, việc cưới xin phải được Thiên Chúa phù trợ, hướng dẫn, ban phước. Người tính không bằng Trời tính mà. Kinh Thánh cũng dạy: Nếu Đức Giê-hô-va không cất nhà, thì những thợ xây cất làm uổng công (Thi thiên 127:1). Chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời trả lời sự sự cầu nguyện của hai gia đình chúng ta. Con bé Út Mai của tôi rất ngoan và khéo léo trong mọi công việc, tôi nói gì nó nghe nấy. Nó giống như Rê-be-ca của Y-sác ngày xưa vậy. Tôi cũng tin anh mặc dù tôi không biết con trai của anh như thế nào, nhưng chắc là nó cũng giống anh thôi. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Hơn nữa nó được anh dạy dỗ, rồi lớn lên trong nhà thờ chắc chắn là có phẩm hạnh tốt rồi. Tôi còn nghe nói thằng này còn có tài sử dụng các loại nhạc khí, nếu đúng như vậy thì đây là ân tứ Chúa ban. Chiều nay anh phải bảo nó biểu diễn cho chúng tôi xem để “mục kích sở thị” mới được.

Cậu Ba cũng góp thêm vài lời vào phần đối thoại giữa ông nội và bà ngoại:

-Những lời của bác và má tôi nói quả không sai. Tôi là anh của Út Mai rất thích thú với câu chuyện của hai bậc cha mẹ. Dù sao thì chúng tôi cũng muốn nghe con trai bác biểu diễn âm nhạc để mở rộng tầm mắt.

Ông nội lắng nghe chăm chú rồi đánh thức ba tôi đang chìm trong giấc mơ hoa:

-Chiều nay con chuẩn bị để biểu diễn âm nhạc cho mọi người nghe nhé.

Ba tôi lồm cồm ngồi dậy, lấy hai tay dụi vào mắt:

-Biểu diễn cái gì, con không mang theo nhạc cụ nào cả.

-Ồ, không có nhạc cụ thì con phải chế ra nhạc cụ mà biểu diễn. Có khó gì đâu trong khi mọi người đều biết con là một nhạc công tài năng mà.

Thế là sau buổi cơm chiều đáng nhớ với thịt gà luộc, cá lóc  nấu canh chua, mọi người trong gia đình bà ngoại và hàng xóm tập trung ở phòng khách nghe ba tôi biểu diễn âm nhạc. Rất đơn giản, ông ra vườn bứt một lá mận rồi đưa lên miệng thổi giống như người ta thổi kèn Harmonica. Hai bàn tay ông chụm lại với chiếc lá bẻ cong, và rồi những nốt nhạc với đầy đủ cung bậc vang lên bài Thánh Ca quen thuộc “Chúa thuộc về tôi, tôi nguyền tin sắt son…”. Những âm điệu thánh thót, trầm bổng du dương trong phòng khách làm mọi người há hốc mồm kinh ngạc. Khi ông thổi tới phần điệp khúc: Này là truyện ký tôi, bản ca của tôi. Ba tôi thêm phần hòa âm mà ông tự sáng tác với những âm thanh cao vút lên tới tận mây xanh… làm cho mọi người nín thở lắng nghe. “Đúng là một thiên tài!” Có tiếng khen ngợi của bác Tám hàng xóm. Má tôi không nói gì, bà chỉ cười tủm tỉm rồi quay mặt đi với vẻ mặt thẹn thùng…Tất cả những cử chỉ và phản ứng của má  không làm sao qua khỏi đôi mắt của bà ngoại. Bà nhìn cô con gái đang tuổi dậy thì vừa mừng vừa lo, không biết nó có chấp nhận anh chồng tương lai nghệ sĩ này không!

Vào lúc đó má hiền lành như một ma-sơ, cha mẹ đặt đâu chỉ biết ngồi đó chứ nào biết tình yêu đôi lứa là gì. Trong tự điển của má tôi không có từ “hẹn hò” mà chỉ có từ “trao duyên gởi phận”. Thôi thì cha mẹ hai bên gia đình đã cầu nguyện và sắp đặt như thế, thì bà cũng đành “nhắm mắt đưa chân” về nhà người ta chứ đâu có dám ý kiến gì. Đồng thời việc này vốn đã được cầu nguyện trình dâng lên Chúa từ rất lâu của cả hai bên gia đình. Và còn một điều nữa, ba tôi xuất hiện với một phong cách lịch lãm, hào hoa đã chinh phục má tôi từ lần đầu gặp gỡ,  làm cho bà rơi vào tâm trạng “tình trong như đã mặt ngoài còn e”!

Chỉ năm tháng sau đó má tôi lên xe hoa về nhà chồng. Đó là một ngày cuối Đông của năm 1957. Hôn lễ của ba má tôi được mục sư Lê Đình Tố làm chủ lễ tại nhà thờ Tin lành Qui Nhơn. Thầy cô truyền đạo Dương Thạnh song ca hát tặng cho đôi tân hôn trong ngày cưới. Chuyện tình yêu của bà chỉ đến sau hôn nhân. Bây giờ bà học tập thích nghi với hoàn cảnh mới trong gia đình nhà chồng và tình yêu đến tự nhiên với chồng con, mà không cần phải cố gắng gì. Má tôi đảm trách mọi việc trong nhà như một “nội tướng” kỳ cựu. Ngoài ra đời sống cầu nguyện bền bỉ của bà mỗi ngày đã ảnh hưởng rất nhiều trên cuộc đời của chúng tôi.

Thế hệ của má và chúng tôi rất khác nhau trong chuyện yêu đương. Còn thế hệ các con của chúng tôi bây giờ dĩ nhiên lại khác nhiều hơn nữa. Mỗi một thời đại đều có những nét đặc trưng riêng của nó. Nhưng tình yêu và hôn nhân trong Chúa không bao giờ thay đổi bất luận với không gian và thời gian nào.

Đất nước đang có chiến tranh, ba tôi vào quân ngũ rồi sau đó xin về vào học ở Thần học viện Nha Trang, má tôi tháp tùng cùng học với chồng. Nhiệm sở đầu tiên ông bà về công tác là hội thánh Bồng Sơn thuộc Bình Định. Tại nơi này tôi mở mắt chào đời vào năm 1961. Khi tôi lọt ra khỏi lòng mẹ, má đùm bọc tôi trên một cái giường mà phía dưới là nước lũ, còn bên ngoài mưa gió bão bùng. Tôi sinh ra trong mùa mưa lũ ở miền Trung (có lẽ vì lý do này mà cả đời tôi luôn sợ nước!), ba tôi lúc ấy bận rộn với các mục vụ, và ông phải nhờ một người bạn đồng công là thầy truyền đạo Nguyễn Ngọc Dư đi tới chính quyền sở tại làm giấy khai sinh cho tôi.

Cuộc sống hôn nhân, gia đình của ba má tôi cũng giống như hầu hết các gia đình của những người hầu việc Chúa vào thời ấy. Ba má tôi bên nhau trên những bước đường công tác và nuôi dạy chúng tôi. Khi tôi bắt đầu vào học Tiểu học, ba má tôi chuyển về Qui Nhơn. Tuổi niên thiếu của chúng tôi đã lớn lên từ thành phố biển này với những kỷ niệm thật êm đềm.

Chỉ trong vòng mười sáu năm sau ngày cưới má tôi sinh ra chín đứa con. Thật là một kỷ lục! (Thực ra thời đó việc này là bình thường). Tôi trở thành chị Ba cho các em của tôi gồm ba trai ba gái. Không cần phải nói nhiều, mọi người đều biết làm chị Ba phải vất vả như thế nào để cùng với má canh chừng đám em ngỗ nghịch. Nhưng má tôi vất vả vạn lần hơn. Qua bao nhiêu năm tình mẹ thương con vẫn như biển rộng sông dài. Khi các con trong gia đình gặp sự cố về hôn nhân, má tôi không tài nào ngủ được và nước mắt bà cứ như một dòng suối chảy mãi…

Sau năm 1975 đời sống vật chất của gia đình tôi như một chiếc xe cứ tuột dốc không phanh. Lúc này ba má tôi chèo chống chiếc thuyền gia đình với bao nhiêu nhiêu vất vả. Thời gian này cũng là lúc má chứng tỏ khả năng của bà trong những năm tháng sóng gió. Má tôi làm nhiều việc khác nhau để có thể bảo đảm cho các anh chị em chúng tôi tiếp tục đến Trường. Nhờ ân điển Chúa, mọi thứ khó khăn rồi cũng đi qua.

Vào năm 2002 ba tôi về nước Chúa sau một cơn bạo bệnh. Má thẫn thờ suốt cả tháng sau đó. Nhưng rồi thời gian cũng làm vơi đi nỗi buồn của bà. Từ đây cuộc hành trình còn lại trên đất bà đã mất đi “một nửa yêu thương”, nhưng bên cạnh bà đã có con cháu vây quanh và một người bạn lớn là Chúa Jesus mãi mãi là nguồn sống của bà.

Cách đây 5 năm, má được vợ chồng cô con gái út bảo lãnh sang định cư ở Oregon. Bây giờ má đã có quốc tịch Mỹ. Thỉnh thoảng bà về thăm Việt Nam.

Tháng rồi, má từ Hoa Kỳ về thăm quê hương, tôi mở máy tính bảng cho bà đọc câu chuyện tình yêu của một tác giả trên songdao.online. Đọc xong, má ngẫm nghĩ rồi nói:

-Đây là chuyện tình của những lứa tuổi thời hiện đại, còn chuyện của má thì khác. Với má thì tình yêu chỉ đến sau hôn nhân, chứ không giống như người ta. Vào cái thời xa xưa ấy, có ai biết hẹn hò, yêu đương, nhớ nhung là gì. Việc hôn nhân là của người lớn. Cha mẹ bảo sao, má chỉ biết nghe vậy. Nhưng bây giờ nhìn lại má biết rằng việc hôn nhân là của Chúa. Ngài đã làm chủ trong hôn nhân của má và ban phước cho má và gia đình trong suốt nhiều năm qua. Dù ở thời đại nào, phước hạnh thực sự chỉ đến khi người ta có Chúa làm Chủ trong cuộc sống lứa đôi của mình. Hôn nhân cũng là một huyền nhiệm theo Kinh Thánh, khi mà hai vợ chồng trở nên một thân trong Chúa. Và mối liên kết đó, không gì phá vỡ được.

Má còn nói thêm nhiều điều khác dặn dò chúng tôi phải trân trọng và giữ gìn đời sống hôn nhân của mỗi gia đình. Má đã già rồi, không còn can thiệp hay kiểm soát gì được chuyện của con cái, nhưng bà luôn cầu nguyện cho gia đình của từng đứa con với mong ước các con luôn có một đời sống hôn nhân hạnh phúc theo Kinh Thánh.

                                                           DAVID LINH ÂN

320 lượt xem
 tại: http://songdaoonline.com/e2883-tinh-yeu-cua-ma-david-linh-an-bai-chon-dang-122-.html

NÓ TRỞ VỀ

 2014_05_02_tubsz0ze5cj

-A lô, Minh Hưng online nhé?

-OK, Có ngay, tớ sẵn sàng.

Minh Hưng mở computer, webcam và online với nhóm bạn trên Internet. California sau 10 giờ tối.

Nhóm bạn của Minh Hưng trên khắp các tiểu bang ở Mỹ và châu Âu bắt đầu uống bia, ca hát online cho đến tận 3 giờ sáng. Chỉ một mình nó uống hết mười sáu lon Heineken.

Mệt, xỉn và ngã ra bộ xô-pha ngủ luôn cho đến 1 giờ chiều ngày hôm sau.

Cuộc sống quay vòng, ngày nào cũng như ngày ấy. Minh Hưng giống như một cái cối xay quay liên tục!

Có lúc hết tiền, nó ăn mì gói sống tạm qua ngày. Không có khả năng thanh toán hóa đơn tiền điện. Cúp điện, nhà tối om, âm u. Cuộc sống tưởng như tận cùng rồi. Ở Mỹ mà như thế này không chết cũng lạ.

Nhưng đó là cuộc sống thật của Minh Hưng. Nó là một thợ tiện ở Việt nam qua đây từ năm 2006. Năm ấy nó vừa 28 tuổi. Dễ nhận ra nó với một thân hình vạm vỡ không khác gì vận động viên điền kinh, trên ngực nó lủng lẳng sợi dây chuyền với một pho tượng Phật lấp lánh. Không khó lắm để nó tìm được việc làm  trong một công ty cơ khí, khi có tiền lương, nó bắt đầu ăn chơi.

Con đường hút chích ma túy trở nên gần gũi với nó. Nó quyết định chơi luôn, phải trải qua mọi cảm giác để biết thế nào là sung sướng cuộc đời.

Minh Hưng tham gia vào một đường dây vận chuyển ma túy liên tiểu bang. Bị bắt ở phi trường Los Angeles, Minh Hưng ra tòa và phải bóc hai cuốn  lịch trong nhà giam. Ai có thể cứu nó ra khỏi con đường tội lỗi?

Ra khỏi tù, ngựa quen đường cũ, Minh Hưng “vũ như cẩn”. Nó lại hút chích, uống bia, lái xe tông vào trụ điện. Trụ điện ngã, nó lái xe chạy tiếp. Bị cảnh sát bắt giam, rồi ra khỏi nhà giam nó vẫn là “yên hùng xa lộ”. Bó tay!

Gia đình, người thân, bạn gái lắc đầu ngao ngán. Không ai biết được tương lai của nó sẽ ra sao trên đất nước xinh đẹp này!

May mắn thay, nó còn có Út Trang giới thiệu về Chúa Jesus và mời nó đến một điểm nhóm tại miền Nam California. Chỉ có một nhóm nhỏ gồm sáu người gặp nhau hát Thánh Ca với một cây đàn Ghi-ta và học Kinh Thánh hằng tuần. Nó ngồi đó lơ mơ như một tân binh, nhưng rồi chẳng bao lâu nó cũng nhịp nhịp bàn chân, hát theo được với các anh chị em trong nhóm. Minh Hưng nghĩ thầm: “Cái này được đây, có ca hát là vui rồi”.

Sau khi ca hát, Minh Hưng nghe một phụ nữ chia sẻ Kinh Thánh. Mọi người giới thiệu bà ấy là vợ của mục sư Daniel Nguyen.

Bà Daniel Nguyen chia sẻ: Chúa Jesus phán, “Ta để sự bình an lại cho các ngươi; ta ban sự bình an ta cho các ngươi; ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi” (Giăng 14:27). Sự bình an mà Chúa Jesus ban cho chúng ta rất khác biệt với sự bình an giả tạo đến từ những thú vui, tiện nghi vật chất, hay tiền bạc kiếm được. Những gì của thế giới có thể làm cho con người vui thỏa trong chốc lát rồi cũng nhanh chóng qua đi. Bạn có một ô tô mới, vừa mua được căn nhà mới, hay là bạn tìm kiếm cảm giác mạnh trong hê-rô-in, cần sa, rượu, tình dục… Bạn như được lên cao trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng bạn không có sự bình an thật. Sự bình an bên trong mà Chúa Jesus ban cho con người thì không giống như vậy. ..

Minh Hưng nghĩ thầm: Đó chính là cuộc sống của mình. Làm sao để mình có được sự bình an thật đó?

Bà Daniel Nguyen chia sẻ chừng hai mươi phút. Tự dưng những góc khuất trong tâm hồn Minh Hưng được bày tỏ. Nó cảm nhận bà này đi guốc trong bụng của nó. Lạ thật, những gì Minh Hưng trải qua bà này đều biết. Minh Hưng thầm nghĩ: “Chắc bà này là một chuyên gia về tâm lý hay là bà ta có giác quan thứ sáu, biết được những bí mật bên trong của mình?”. Sau khi nghe bà Daniel Nguyen chia sẻ, nó muốn cầu nguyện tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa. Minh Hưng nói với Út Trang:

-Dì Trang ơi, cháu muốn cầu nguyện tin Chúa.

-Tạ ơn Chúa, chúng tôi sẽ hướng dẫn cho cháu.

Minh Hưng được bà Daniel Nguyen hướng dẫn cầu nguyện tiếp nhận Chúa Jesus Christ  làm Cứu Chúa. Sau khi cầu nguyện, một cảm giác bình an, nhẹ nhàng lần đầu tiên đến trong tâm hồn Minh Hưng. Chưa bao giờ nó cảm thấy thanh thản đến như vậy. Đó là một buổi chiều Chủ nhật đặc biệt trong cuộc đời của nó. Cảm giác và “khẩu vị” của nó  bắt đầu chuyển hướng từ đây.

Con đường thập tự đồng đi với Chúa không dễ dàng chút nào cho bất cứ ai. Hai tuần sau khi tin Chúa, Minh Hưng có giấy triệu tập từ tòa án. Trước đó nhiều năm, nó tham gia vào một đường dây vận chuyển ma túy trên khắp Hoa Kỳ. Nếu bị kết tội, nó có thể bị trục xuất về Việt Nam theo một điều luật của chính phủ Mỹ.

Không có tiền để thuê luật sư biện hộ. Tòa án  chỉ định cho nó một luật sư ngẫu nhiên. Nó ra Tòa với hai người làm chứng: Út Trang và cô bạn gái Linda Diem. Hai người này có trách nhiệm phải nói tốt về nó để hy vọng Tòa giảm án.

Gần đến ngày ra Tòa, Minh Hưng thưa với Chúa: “Xin Chúa cứu con, cho con ở lại Mỹ. Nếu bị trả về Việt Nam xem như con hết đường sống.”

Rồi cái ngày hồi hộp ấy đã đến, Minh Hưng đứng trước vành móng ngựa trả lời các câu hỏi của Tòa.

Vị công tố hỏi bằng Tiếng Anh những câu hỏi liên quan đến nhân thân, việc làm và động cơ của nó khi tham gia vào việc buôn bán ma túy. Minh Hưng không phải là người giỏi Tiếng Anh (nó chỉ là một công nhân bình thường, đâu có học hành gì nhiều), nhưng lúc đó không hiểu sao nó hiểu được tất cả các câu hỏi của quan tòa và trả lời trôi chảy. Thật kỳ lạ. Sau này Út Trang nhận xét dường như lúc đó nó trở nên thông minh đột xuất. Mọi người có mặt trong phiên tòa cũng ngạc nhiên trước khả năng tiếng Anh của nó.

Sau khi thảo luận chung trong giờ giải lao, các quan tòa quyết định tha bỗng nó. Minh Hưng được ở lại Mỹ. Điều này giống như một phép lạ!

Trắng án, Minh Hưng vui như mở cờ trong bụng. Nó còn một ít tiền, liền gởi về Việt Nam một trăm đô la, nhờ gia đình đem tới dâng hiến cho hội thánh Tin Lành gần nhà. Nó nghĩ cần phải có một của lễ cảm tạ dâng lên cho Chúa.

Út Trang và bà Daniel Nguyên tiếp tục giúp đỡ Minh Hưng trên con đường theo Chúa. Minh Hưng được học các bài học Kinh Thánh căn bản. Nó cũng làm quen với các bài Thánh Ca và cầu nguyện với Chúa Jesus Christ mỗi ngày.

Minh Hưng kinh nghiệm sự đổi mới trong ơn Chúa. Những gì nó đam mê trước đây không còn nữa. Giã từ ma túy, thuốc lá, bia, rượu, các mối quan hệ bất chính… nó như được lột xác từ một con sâu rọm xấu xí trở nên một con bướm xinh đẹp trong nắng mới ban mai.

Trưởng thành sau hai năm học Kinh Thánh ở California, nó trở lại Việt Nam trong một kỳ nghỉ ngắn và làm chứng về ơn phước Chúa tại Hội Thánh Phúc Âm Toàn Vẹn Sài Gòn:

-Tôi nguyên là một Phật tử, cứ tới ngày rằm hay mùng một là đi lễ chùa để cầu may. Tôi cầu xin trước các pho tượng cho tôi được sức khỏe, có việc làm  và kiếm được nhiều tiền trên đất Mỹ. Sau khi có được những thứ đó tôi bắt đầu ăn chơi, hút chích. Để có thêm tiền tôi tham gia buôn bán ma túy và các hóa chất chế biến ma túy. Tôi biết điều đó là phạm pháp, nhưng tôi bị cám dỗ bởi sức mạnh của đồng tiền và sự quyến rũ của “nàng tiên trắng”. Mỗi lần tiêm chích ma túy, cả con người tôi như được thăng hoa, cảm giác đó rất tuyệt vời. Còn những lúc thiếu chất hê-rô-in tôi phờ phạc như người mất hồn. Cuộc sống của tôi là hưởng thụ và đi tìm những khoái cảm trong những thú vui trần tục. Nhưng sau khi đã thử qua rất nhiều điều trong thế giới của ăn chơi, hút chích, hưởng thụ… tôi vẫn cảm thấy một nỗi trống vắng hụt hẫng sâu xa trong tâm hồn. Cho đến một ngày kia, dì Út Trang giới thiệu Chúa Jesus cho tôi. Lúc đầu tôi nghĩ: “Mình đã có Phật rồi, đâu cần đến Chúa nữa?”  Nhưng vì muốn thử qua mọi cách để có thể thay đổi định mệnh của mình, tôi đã theo hướng dẫn của dì Út Trang. Tôi đến với một buổi nhóm, nghe giảng sứ điệp Kinh Thánh  và cầu nguyện tiếp nhận Chúa. Sau khi cầu nguyện một cảm giác bình an đến với tôi. Tôi không thể diễn tả chính xác sự bình an đó là cái gì. Nhưng rõ ràng có một sự sống mới đang tuôn chảy bên trong tôi. Được các anh chị em khác trong hội thánh giúp đỡ qua các buổi nhóm học Kinh Thánh, cầu nguyện, tôi như trải qua một cuộc cách mạng nội tâm. Những  gì tôi yêu mến trước đây không còn nữa. Tôi đã khởi sự  cho một đời sống mới. Được sống với Chúa Jesus và Lời của Ngài là một điều tuyệt vời cho tôi.

Sau buổi nhóm một thanh niên hỏi Minh Hưng:

-Anh có dự định gì trong thời gian sắp tới?

-Tuần sau tôi sẽ bay về Mỹ, tôi sẽ ghi danh vào học Thần học tại một Trường Kinh Thánh, tôi quyết định đầu tư quãng đời còn lại của tôi cho Chúa Jesus Christ. Ngài đã cứu tôi ra khỏi Sô-đôm  và Gô-mô-rơ của thế giới hiện đại. Giờ đây nếu tôi có lấy cả sinh mạng mình để đền đáp công ơn cứu chuộc của Ngài cũng không thể nào trả hết món nợ yêu thương của Chúa. Tôi muốn sống để rao giảng về Ngài và  làm chứng nhân cho Ngài. Tôi biết Chúa đã cứu tôi cho mục đích của Ngài.

Chúa Jesus đã thay đổi cuộc đời Minh Hưng từ tối tăm qua sáng láng. Nó đang hội nhập vào cộng đồng hội thánh và tại đó có hàng trăm đời sống giống như nó. Trong mọi thời đại luôn luôn có những cuộc đời được thay đổi nhờ gặp Chúa Jesus cách cá nhân. Không phải tôn giáo, nhưng là Chúa Jesus Christ có quyền năng để thay đổi bất cứ ai nhận thức ra mình đang lầm lạc trong thế giới và muốn trở về nhà Cha.

                                                                DAVID LINH ÂN

207 lượt xem tại: http://www.songdaoonline.com/e2855-no-tro-ve-david-linh-an-bai-chon-dang-113-.html

NGƯỜI KHÔN NGOAN

 2014_04_30_o76dxtbwf85

Giu-đa nguyên là một chiến sĩ trong binh đoàn thiện chiến của vua Sa-lô-môn. Hai năm trước đây vì vi phạm kỷ luật, anh ta buộc phải trở về quê và hành nghề thợ săn trong một khu rừng hoang dã cách nhà không xa.

Phi-líp, một nông dân phúc hậu là người hàng xóm của Giu-đa.

Giu-đa nuôi một đàn chó săn rất hung dữ, chúng thường nhảy qua hàng rào rượt đuổi, cắn xé đàn cừu của Phi-líp. Phi-líp rất buồn, anh ta nói chuyện nhẹ nhàng với Giu-đa và đề nghị Giu-đa phải có một cách nào đó ngăn cản đàn chó dữ.

Giu-đa ậm ừ cho qua chuyện, nhưng rồi mọi việc cũng không có gì thay đổi. Thỉnh thoảng đàn chó vẫn tấn công đàn cừu. Phi-líp ngậm ngùi nhìn những con cừu của mình  trở thành đồ chơi cho lũ chó săn.

Nhiều lần nói chuyện với Giu-đa không thành công, Phi-líp tìm đường vào hoàng cung và gặp vua Sa-lô-môn tấu trình về việc này.  Nhà vua chăm chú lắng nghe câu chuyện và nói với Phi-líp:

-Ta có thể  phạt người thợ săn Giu-đa về tội đã để cho lũ chó cắn xé những con cừu của ngươi, và ra lệnh anh ta nhốt đàn chó vào chuồng. Nhưng làm như vậy anh ta sẽ trở thành kẻ thù của ngươi. Ngươi muốn có một người hàng xóm tốt hay là một kẻ thù làm láng giềng của ngươi?

-Tâu bệ hạ. Dĩ nhiên tôi muốn sống bên cạnh một người hàng xóm tốt.

-Được rồi ta rất vui khi nghe câu trả lời của nhà ngươi. Bây giờ ngươi hãy về nhà và làm theo những gì ta gợi ý cho ngươi. Hy vọng ngươi sẽ có một người hàng xóm tốt.

Vua Sa-lô-môn tư vấn và hướng dẫn Phi-líp cách đối đãi với người thợ săn Giu-đa.

Phi-líp trở về nhà, ông bắt hai con cừu tốt nhất đem tặng cho hai đứa con trai của người hàng xóm. Những đứa trẻ này rất thích các con cừu dễ thương xinh đẹp và chúng nó yêu cầu người cha Giu-đa xích đàn chó lại  để an toàn cho các con cừu.

Giu-đa thương các con mình, ông lập tức xích đàn chó vào những cọc cây trong sân nhà.

Cảm kích trước tính cách hào phóng của Phi-líp, Giu-đa đem đến gia đình Phi-líp những “món quà trả lễ” là những miếng thịt săn mà ông ta có được sau mỗi lần đi săn.

Phi-líp cũng thường tặng cho Giu-đa những nông sản trong vườn nhà của mình. Hai người trở thành bạn tốt của nhau.

 

Cuộc sống êm đềm trôi, tình bạn của họ dường như rất tốt đẹp.

Nhưng sự đời không đơn giản chút nào. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.

Bốn năm sau đó.

Người thợ săn Giu-đa đứng trên phòng cao của mình vào một buổi chiều tà và nhìn sang nhà Phi-líp. Tình cờ ông trông thấy Ra-chên, vợ Phi-líp đang tắm trong một phòng tắm không có mái ở bên trên. Lại thêm một chuyện rắc rối khác đây!

Trong lúc ấy Phi-líp từ trong sân vườn nhìn lên phòng cao của nhà hàng xóm cũng ngẫu nhiên bắt gặp ánh mắt say đắm của Giu-đa khi nhìn Ra-chên tắm. Phi-líp giựt mình và bối rối…

Đêm đó Giu-đa không ngủ được vì hình ảnh của nàng Ra-chên. Ông nằm mơ và nhìn thấy những đường cong tuyệt hảo trên thân thể người phụ nữ xinh đẹp này.  Đã hai năm nay, ông sống cảnh phòng không gối chiếc từ ngày vợ ông vĩnh viễn ra đi vì một căn bệnh hiểm nghèo.

Giu-đa tìm cách chiếm đoạt Ra-chên. Những năm trước đây ông đã từng bị sa thải khỏi đội kị binh của nhà vua cũng vì tội cưỡng dâm người khác. Giờ đây ông vẫn chứng nào tật nấy. Đúng là giang sơn dễ đổi, bản chất khó dời.

Người nông dân hiền lành Phi-líp cũng rất nhạy cảm với những gì diễn ra chung quanh mình. Một lần nữa ông tìm đến vua Sa-lô-môn trình bày sự việc để xin một lời khuyên bảo khôn ngoan:

Tâu đức vua, câu chuyện trước đây của tôi đã được giải quyết êm thắm. Nhưng bây giờ phát sinh ra một vấn đề khác với ông bạn hàng xóm như thế này …..

Phi-líp kể lại toàn bộ câu chuyện cho vua Sa-lô-môn nghe.

Sa-lô-môn lúc bấy giờ đã già, và sự khôn ngoan của nhà vua dĩ nhiên là có giới hạn.

Nhà vua hỏi Phi-líp:

– Tại sao ngươi không làm cái phòng tắm cho vợ ngươi thật kín kẽ?

– Thưa đức vua, trước đó phòng tắm của vợ tôi vốn kín đáo, nhưng mái che bên trên chỉ bị hư trong tháng vừa qua, và tôi chưa kịp sửa chữa thì xảy ra sự cố đáng tiếc này.

Vua Sa-lô-môn đăm chiêu suy nghĩ, ông nhớ lại chuyện ngày xưa của cha ông. …

Tám mươi năm về trước, phụ vương của Sa-lô-môn là Đa-vít cũng đã từng nhìn từ trên nóc đền hoàng cung một người phụ nữ tắm bên dưới và rồi phạm tội. Sa-lô-môn chính là tác phẩm từ cái nhìn của vua cha Đa-vít lúc đó. Bây giờ đến lượt người thợ săn Giu-đa!

 

Lịch sử luôn luôn tái diễn!

(Trong một giới hạn nào đó thì những câu chuyện trong lịch sử thường lập đi lập lại với những hoàn cảnh khác nhau, nhưng nguyên nhân của nó chỉ có một!)

Vua Sa-lô-môn tự nói với chính mình: “Thật trớ trêu, cha của ta cũng đã từng nhìn một người phụ nữ tắm, và ông ấy đã không thắng được cám dỗ chết người này. Bây giờ ta phải khuyên Phi-líp thế nào đây?”

Sa-lô-môn của tuổi  bảy mươi lăm là một Sa-lô-môn khác với những năm về trước. Bên cạnh ông bây giờ có quá nhiều vợ và ông còn xây các miếu thờ hình tượng cho những người vợ ngoại quốc của ông. Sự thành công, khôn ngoan và vinh quang của Sa-lô-môn trong quá khứ không thể bào chữa cho những sai trật của ông lúc cuối đời.

Vua Sa-lô-môn miễn cưỡng nói với Phi-líp:

-Có lẽ chỉ còn một cách là ngươi âm thầm bán nhà và di chuyển đến một nơi khác.

-Thưa đức vua, cách này rất khó cho tôi. Vì gia đình tôi đã sống ở đây từ những ngày rất xa xưa. Tôi đã quen với vườn cây, gia súc của mình. Làm sao tôi có thể dễ dàng dời đến một nơi khác được?

-Nếu ngươi nói thế thì ta cũng đành bó tay. Thôi thì ngươi hãy đóng cửa giữ gìn vợ mình, và nhớ là không được rời xa nàng nửa bước.

Phi-líp buồn bã ra về, trong lòng ông không ngớt băn khoăn: “Làm sao để ta có thể không rời Ra-chên nửa bước? Gã thợ săn này thật là một nỗi phiền phức cho ta”.

Sau khi Phi-líp rời hoàng cung, vua Sa-lô-môn suy nghĩ mông lung. Trong đầu ông hiện lên sáu chữ: Lịch sử luôn luôn tái diễn. Ông biết Giu-đa sẽ dùng mọi thủ đoạn để lấy được Ra-chên. Nhưng giờ đây nhà vua bất lực, ông không có kế sách nào hay để giúp đỡ Phi-líp. Sự khôn ngoan tuyệt vời của ông trong những năm về trước không dùng được vào lúc này.

Điều gì đến rồi cũng phải đến. Giu-đa vốn có cái đầu lạnh và trái tim rạo rực lửa tình, người thợ săn này vắt óc suy nghĩ để chiếm hữu thân thể Ra-chên. Sau nhiều ngày suy nghĩ, một kế hoạch thâm hiểm được hình thành trong đầu người cựu chiến binh dày dạn….

Ra-chên lúc ấy là mẹ của hai đứa con còn nhỏ, đứa lớn nhất chỉ mới sáu tuổi. Nàng đẹp rực rỡ như một bông hoa huệ trong đồng nội mà bất kỳ họa sĩ nào cũng nghiêng mình ngưỡng mộ!

 

Vào một ngày đẹp trời, khi vụ mùa thu hoạch nông sản vừa xong, Giu-đa sang chơi bên nhà Phi-líp với một ý đồ được che giấu. Sau khi uống xong ly rượu nho của Phi-líp mời, Giu-đa đề nghị:

-Vụ mùa thu hoạch lúa mì đã qua, ngày mai anh có thể cùng tôi lên rừng săn bắn. Tôi sẽ chỉ cho anh cách sử dụng cung tên để hạ những con mồi.

Phi-líp điềm đạm:

-Tôi chỉ là một nông dân, không thích hợp với việc săn bắn. Xin anh cho tôi từ chối lời đề nghị này.

-Ồ, anh cứ xem như đây là một chuyến đi chơi ngoài trời vậy. Nếu anh không thích chuyện săn bắn, anh cũng có thể  lên núi tham quan một lần để biết thế nào là cảnh hùng vĩ của núi rừng.

Giu-đa còn dùng những lời lẽ khéo léo khác để thuyết phục Phi-líp cùng đi với anh ta. Và cuối cùng Phi-líp miễn cưỡng nhận lời.

Sáng hôm sau cả hai lên đường. Phi-líp không biết rằng đó là một ngày định mệnh của mình.

Giu-đa liên tục bắn hạ những thú rừng, Phi-líp giúp đỡ người bạn hàng xóm mang vác các “chiến lợi phẩm” trên suốt chặng đường. Đến một sườn đồi kia, bất ngờ Giu-đa xô ngã Phi-líp xuống một vực thẳm lởm chởm đá bên dưới. Phi-líp rơi tự do và trút hơi thở cuối cùng dưới vực thẳm.

Điều này có vẻ giống như một tai nạn nghề nghiệp, nhưng nó là một kịch bản đã được tính toán chi ly của Giu-đa.

Vì muốn có Ra-chên, Giu-đa đã lên kế hoạch giết chết Phi-líp. Một lần nữa lịch sử được tái diễn! (Vua Đa-vít cũng đã từng dùng thủ đoạn trừ khử U-ri để được Bát-sê-ba trong quá khứ).

Không có ai đứng ra điều tra xét hỏi về cái chết của Phi-líp. Mọi người trong làng cũng có ý xầm xì thế này thế kia. Nhưng rồi với thời gian mọi việc nhanh chóng đi qua.

Hai năm sau, kể từ ngày Phi-líp qua đời. Giu-đa không khó khăn lắm để có được Ra-chên.

Trên đây là luận văn của Gia-cơ,  một học sinh năm cuối bậc Trung học tại thành phố Giê-ru-sa-lem. Đề của bài luận như thế này: Hãy nói về một giai thoại trong Cựu Ước chứng minh cho mệnh đề: “Lịch Sử Luôn Luôn Tái Diễn”.

Học sinh Gia-cơ nhận được điểm bảy trên mười cho bài luận của mình kèm lời phê của giáo viên: Mặc dù có những điểm chưa hoàn hảo, nhưng cấu trúc câu chuyện mạch lạc, đã chứng minh được yêu cầu của đề.

Dĩ nhiên là vậy, nhưng điều quan trọng hơn chính là bài học ẩn mình trong câu chuyện cho mọi người, nhất là những Cơ đốc nhân.

                                                                       TƯỜNG VI 

97 lượt xem tại: http://songdaoonline.com/e2853-nguoi-khon-ngoan-tuong-vi-bai-chon-dang-112-.html

SỰ CHẾT CỦA NHỮNG NGƯỜI THÁNH

BÀI DƯỠNG LINH

Đọc: 1 Cô-rinh-tô 15:50-58
Hỡi sự chết, sự đắc thắng của mầy ở đâu? – 1 Cô-rinh-tô 15:55

Cách đây vài hôm, tôi nhìn thấy Bob, một người bạn cũ, đang ra sức đạp xe đạp trong một phòng tập ở khu chúng tôi ở và nhìn vào chiếc máy đo huyết áp đeo trên tay.

Tôi hỏi: “Anh đang làm gì vậy?”

Anh nhỏ nhẹ đáp: “Nhìn xem tôi còn sống không.”

Tôi hỏi vặn lại:“Anh sẽ làm gì nếu thấy mình đã chết?”

Anh cười rạng rỡ trả lời: “Tôi sẽ nói lớn: Ha-lê-lu-gia!”

Trải qua nhiều năm tháng, tôi đã thấy năng lực mạnh mẽ bên trong của Bob: kiên nhẫn đối diện với sự xuống dốc và mệt mỏi về thể chất với đức tin và hy vọng khi anh tiến gần hơn đến đoạn kết của cuộc đời. Quả thực, anh ấy không chỉ tìm được hy vọng, mà sự chết cũng mất quyền cai trị trên anh.

Ai có thể tìm được sự bình an và hy vọng, thậm chí là vui mừng khi cận kề cái chết? Chỉ  những người bởi đức tin được kết nối với Đức Chúa Trời đời đời và những ai biết rằng họ có sự sống đời đời mà thôi (1 Côr. 15:52,54). Với những người có sự bảo đảm ấy, giống như Bob bạn tôi, thì sự chết không còn khiến họ sợ hãi. Họ có thể nói về niềm vui lớn lao khi gặp Đấng Christ mặt đối mặt!

Sao phải sợ chết? Sao không vui mừng? Như lời nhà thơ John Donne (1572-1631) đã nói, “Sau một giấc ngủ ngắn, chúng ta sẽ thức mãi mãi.” – David Roper

 

Yêu bằng lời nói việc lành

Với người hư mất, chân thành ủi an

Con mong nặng gánh cưu mang

Với lòng thương xót tuôn tràn từ tâm. —Fitzhugh

Đối với người tin Chúa, sự chết là bóng đêm cuối cùng của trần gian trước bình minh của thiên đàng

 

TIN LIÊN QUAN:

Bà Nguyễn thị Lê Chi, phu nhân của mục sư nhiệm chức Nguyễn Hữu Mỹ là trưởng nữ của mục sư Nguyễn Đức Na – Hội trưởng Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam, đã về nước Chúa vào ngày 19 tháng 4 năm 2014 tại Vũng Tàu.

Bà Lê Chi lâm trọng bệnh cách đây ba tháng, mặc dù gia đình, người thân từ các hội thánh đã cầu nguyện và hết lòng chữa trị cho bà nhưng bà đã về nước Chúa trong sự tể trị của Đức Chúa Trời toàn năng. 

Bà Lê Chi đã cùng với chồng sốt sắng hầu việc Chúa qua nhiều chức vụ khác nhau. Bà được nhìn nhận là một người con hiếu thảo, người chị gương mẫu,  nuôi dạy con cái trưởng thành và là người giúp đỡ đặc biệt cho chồng mình trong mọi muc vụ. Đặc biệt là mục vụ chăn bầy. 

Chúa biết điều gì là tốt nhất trên cuộc đời và chức vụ của bà Lê Chi. Bà ra đi đã để lại bao nỗi nhớ thương cho gia đình, các đồng lao và bạn hữu trong các hội thánh. 

Lễ tang của bà được tổ chức trang nghiêm, trọng thể tại Hội thánh Chúa ở Phước Cơ thuộc thành phố Vũng Tàu.

Đại diện Ban điều hành của Giáo Hội và các Giáo khu của Giáo hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam đã thăm viếng, cầu nguyện an ủi đại gia đình MS Hội trưởng, đặc biệt là MSNC Nguyễn hữu Mỹ và 2 con.

 

Sự chết của các người thánh.
Là quí báu trước mặt Đức Giê-hô-va
. (Thi thiên 116:15) 

Đây cũng là câu gốc mà mục sư Nguyễn Tờn, UVMV của TLH, giảng luận trong buổi lễ di quan. Bài giảng luận thật đầy ơn Chúa, khích lệ con dân Chúa sống tốt với niềm tin. Nhưng rất tiếc là lời chào thăm của ông đối với những người trưởng thượng của tang gia hiên diện trong buổi lễ chưa đầy đủ! 

Bà Lê Chi đã chấm dứt hành trình trên đất, sự ra đi của bà là quí báu trước mặt Chúa. 

Chúng ta tạm thời chia tay với bà Lê Chi, nhưng trong tương lai chúng ta sẽ gặp lại bà mãi mãi trong vương quốc vinh hiển của Đức Chúa Trời.

 

Đi vi người tin Chúa, s chết là bóng đêm cui cùng ca trn gian trước bình minh ca thiên đàng. 

 

———————————————————————

NHỮNG HÌNH ẢNH TRONG NGÀY ĐƯA TIỄN NGƯỜI THÂN VỀ NƯỚC CHÚA:

SỰ CHẾT CỦA NHỮNG NGƯỜI THÁNH là quí báu trước mặt Đức Giê-hô-va (Thi thiên 116:15).

 

 

ImageImage

Mục sư Mỹ và con trai.

IMG_5048

Người cha buồn thương nhìn di ảnh cô con gái yêu quí.

IMG_5053

Buổi nhóm cầu nguyện vào chiều tối ngày 21 tháng 4 năm 2014.

Image

Phái đoàn của Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu Việt Nam phúng điếu,  trao các lẵng hoa và cầu nguyên an ủi gia đình.

Image

Các mục sư nhìn mặt người quá cố lần cuối.

Image

Bào đệ của Bà LÊ CHI, mục sư Nghĩa từ Mỹ trở về nhìn lần cuối khuôn mặt  người chị cả yêu quí

IMG_5089

Mục sư Nghĩa đọc tiểu sử của người chị cả yêu quí

 

securedownload (1)

 

Mục sư Tờn giảng luận sứ điệp Thánh Kinh.

Image

 

Những giây phút ngậm ngùi.

IMG_5093

Di quang ra nghĩa trang.

 

securedownload

Đặt quan tài vào lòng đất tại Nghĩa trang.

IMG_5110Nghĩa Trang Suối Nghệ, Bà Rịa Vũng Tàu.

IMG_5075

 

Những vòng hoa kính viếng.

IMG_5096

IMG_5107

Chuẩn bị Lễ hạ huyệt.

IMG_5099

Rất đông  người đưa tiễn Bà Lê Chi tại nghĩa trang.

(Tường Vi)

TÔI CHỌN NGƯỜI YÊU

forget-your-first-love

 

 

Tốt nghiệp lớp 12 vào năm 1979, tôi thi vào Đại học sư phạm Qui Nhơn.

Rớt. Được chuyển xuống học Trung học sư phạm.

Chấp nhận thương đau, học hệ 12 + 1 của Trường. Một năm sau ra Trường, làm cô giáo tiểu học. Năm ấy tôi vừa đúng mười chín tuổi. Read more…

Post Navigation