Vinh hiển thuộc về Chúa

Chúa nhật tuần thứ hai của tháng Năm được nhiều nước trên thế giới chọn làm Ngày Của Mẹ, để vinh danh tình yêu và những ảnh hưởng của người mẹ. Qua gương của chính Chúa Giê-xu đã ghi nhận và quan tâm đến mẹ phần xác của Ngài, bài học hôm nay khích lệ mỗi người làm con hãy yêu thương và hiếu kính mẹ.
“Đức Chúa Jêsus thấy mẹ Ngài và môn đồ Ngài yêu thương đang đứng gần thì nói với mẹ rằng: “Thưa bà, đó là con của bà!” Rồi Ngài nói với môn đồ ấy: “Nầy là mẹ của con!” Từ giờ đó, môn đồ nầy đem bà về nhà mình.” (Giăng 19:26-27)
Nhắc đến mẹ, trong tôi gợi lên muôn vàn ký ức từ thuở ấu thơ. Bàn tay mẹ dịu dàng, nâng niu cẳng chân bị bó bột của tôi, xoá tan mọi cơn đau liên hồi. Nụ cười hớn hở và những tràng pháo tay nhiệt thành của mẹ từ phía khán đài khi ngồi xem vai diễn của tôi trong một chương trình sinh hoạt của Ban Thiếu niên tiếp thêm tinh thần và sức lực để tôi có thể biểu diễn hết mình. Những câu chuyện mẹ đọc cho tôi nghe và những lời cầu nguyện mẹ hướng dẫn trước lúc đi ngủ là nơi tôi học biết về Chúa, biết rằng Ngài là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì.
Mỗi lần nhìn vào cuốn Kinh Thánh của mẹ, tôi đều không quên những ngày cuối cùng ấy, dù phải chạy thận trong bệnh viện, mẹ vẫn mang Kinh Thánh theo và ở nơi phòng bệnh, mẹ vẫn chia sẻ đức tin và lời chứng cho những bệnh nhân khác. Giờ đây mẹ đã về với Chúa, nhưng cuộc đời và tình yêu của mẹ vẫn luôn ở mãi trong lòng tôi.
Tôi giờ đây được Chúa ban phước để trở thành một người mẹ. Tôi xem con như là cả thế giới của mình. Tôi yêu thương, dạy dỗ, sửa trị, chia sẻ, cầu nguyện, chơi đùa và tập trung lo cho con được mạnh khoẻ, vui vẻ và hạnh phúc. Mỗi năm vào ngày tựu trường, tôi lại không cầm được nước mắt khi vẫy tay chào con.
Thế giới này có rất nhiều người mẹ tuyệt vời. Dù chúng ta có dành một vài ngày trong năm để vinh danh những người làm mẹ thì chắc chắn điều này cũng không thể nào bù đắp hết được công lao sinh thành, dưỡng dục.
Cha Thiên thượng đã chọn một người nữ đặc biệt để làm mẹ phần xác của Con Ngài. Dù khi cô còn trẻ, chưa dày dạn kinh nghiệm thì cô vẫn được chọn làm mẹ của Chúa Giê-xu. Cuộc sống của cô phải trải qua rất nhiều hoàn cảnh khó khăn, phải đương đầu với nhiều mối nguy hiểm chết chóc nhắm đến con trai mình, dù vậy cô vẫn dành trọn tâm trí cho Con, Đấng trở nên Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa.
Có người thắc mắc thuộc tính nào của Chúa Giê-xu là chịu ảnh hưởng từ bà Ma-ri, có phải lòng nhân từ, thương xót, tình yêu, sự chịu đựng và sự tin quyết hay không? Chúng ta thường cho rằng Chúa Giê-xu nhận lấy mọi thuộc tính ấy từ Đức Chúa Cha. Nhưng vì Chúa Giê-xu cũng là một con người hoàn toàn, chúng ta đừng quên rằng mẹ phần xác của Ngài cũng có vai trò rất lớn trong việc dưỡng dục và vun đắp những thuộc tính đó của Chúa Giê-xu.
Chính mẹ Ngài là người đã thúc đẩy Chúa Giê-xu bước vào chức vụ khi Ngài thực hiện phép lạ công khai đầu tiên. Đoạn Kinh Thánh Giăng 2:1-11 mô tả rằng lúc đầu Chúa chưa sẵn sàng biến nước thành rượu bởi vì thời giờ thích hợp vẫn chưa đến.
Giăng 2:11 chép: “Đây là dấu lạ thứ nhất Đức Chúa Jêsus đã làm tại thành Ca-na, trong miền Ga-li-lê, và bày tỏ vinh quang Ngài nên các môn đồ tin Ngài.”
Rõ ràng lời đề nghị của Ma-ry không chỉ giúp cho tiệc cưới mà thôi nhưng còn giúp bày tỏ vinh quang của Chúa Giê-xu ra cho nhiều người khác nữa. Tôi tin rằng bà Ma-ry đã thực sự lo nghĩ cho con trai mình.
Đáp lại, Chúa Giê-xu luôn nhận biết vai trò của bà và quan tâm, lo lắng cho bà ngay cả giờ phút Ngài sắp trút hơi thở cuối cùng trên thập tự giá.
“Đức Chúa Jêsus thấy mẹ Ngài và môn đồ Ngài yêu thương đang đứng gần thì nói với mẹ rằng: “Thưa bà, đó là con của bà!” Rồi Ngài nói với môn đồ ấy: “Nầy là mẹ của con!” Từ giờ đó, môn đồ nầy đem bà về nhà mình.” (Giăng 19:26-27)
Cả Chúa và mẹ Ngài đều yêu thương, lo lắng cho nhau và tình yêu ấy không hề chấm dứt tại chân thập tự. Ở tại phòng cao, mẹ Ngài cùng với những người khác cầu nguyện trong ngày lễ Ngũ tuần và Chúa đã đổ đầy họ bởi Đức Thánh Linh, để tiếp tục mối liên hệ và sự hiện diện của Ngài ở trong mẹ và tất cả những ai tin Ngài. Ma-ry có thể là gương mẫu của một người mẹ tuyệt vời.
Cầu nguyện: Cảm ơn Chúa vì Ngài ban cho con có mẹ là người yêu thương, lo lắng cho con mỗi ngày. Xin Chúa thêm sức cho mẹ và giúp con luôn bày tỏ tình yêu của mình với mẹ mỗi ngày. Con cầu nguyện, trong danh Chúa Giê-xu Christ. A-men.
Những ai trong chúng ta còn có mẹ, hãy yêu thương, trân trọng và hiếu kính mẹ mình. Nếu bạn đang ở chung với mẹ, hôm nay bạn có thể bày tỏ tình yêu của mình bằng cách tự tay nấu một bữa ăn mời mẹ và cả gia đình. Nếu bạn ở xa, một phần quà nhỏ, hoặc ít nhất là một cuộc gọi điện cảm ơn mẹ cũng là điều nên làm.
nguồn: Oneway.vn

(Kính tặng người Mẹ của Mẹ các con tôi và tất cả những người Mẹ!)
Kinh thánh: Thánh Thi 127: 3; Ê-phê-sô 6: 1-3; II Ti-mô-thê 4: 7. (*)
Kính Chào quý vị độc giả thân mến,
Vậy là ngày lễ Mẹ năm nay lại đến trong sự mong đợi của nhiều người, nhất là những người làm con.
Bao giờ cũng vậy, ở đâu thì không biết, chứ ở Mỹ, ngày Lễ Mẹ luôn luôn là rộn ràng, ấm áp trong niềm vui của mọi người; dù năm nay, do ảnh hưởng của đại dịch cúm Vũ Hán, số người đi ra ngoài vui chơi, mua sắm có phần giới hạn hơn. Nhưng tại gia đình thì tinh thần, tấm lòng của người dân Mỹ dành cho ngày Lễ Mẹ vẫn rất ấm áp và đầy ắp tình cảm thân thương, quý mến, kính trọng dành cho những người làm Mẹ.
Ở các cửa hàng, siêu thị, chợ búa có rất nhiều những bong bóng bay đủ sắc màu treo lơ lửng trên trần nhà với dòng chữ “Happy Mother’s Day” trông thật đẹp mắt, thật hấp dẫn. Còn bên dưới trong các quầy hàng thì rất phong phú các loại quà tặng để người ta mua về làm quà tặng Mẹ dấu yêu trong ngày Lễ Mẹ. Còn hoa tươi thì chắc chắn là không thể thiếu trong ngày Lễ Mẹ rồi, nhất là hoa cẩm chướng và hoa hồng. Các nhà thờ thuộc nhiều sắc dân ở Mỹ nầy, người ta cũng tổ chức ngày Lễ Mẹ rất là trang trọng với tất cả tình cảm quý báu dành để khích lệ những người Mẹ trong Hội thánh của Đức Chúa Trời. Có thể nói, những người Mẹ ở tại Mỹ rất vui và rất được khích lệ khi họ thấy được tình cảm của mọi người dành cho mình một cách thật đặc biệt trong ngày Lễ đầy tình cảm và đẹp đẽ nầy.
Một trong những tình cảm quý báu, thiêng liêng nhất mà Tạo Hóa đã ban cho con người, đó là tình cảm dành cho người Mẹ kính yêu.
Mẹ sinh ra tôi đã ra đi về “Miền Vinh Hiển” ở với Chúa từ gần nửa thế kỷ trôi qua rồi. Dầu vậy, tôi vẫn nhớ như in hình bóng Người trong tâm khảm của mình. Và thầm nhắc đến Mẹ yêu, nghĩ đến Mẹ yêu với những tình cảm sâu lắng nhất trong tâm hồn mình. Một niềm thương, nỗi nhớ dạt dào về Mẹ luôn luôn có sẵn trong trái tim.
Tôi buồn khi không còn có Mẹ bên đời, nhưng tôi vui vì biết chắc Mẹ đang vui thỏa trong “Miền Vinh Hiển” phước hạnh trước sự hiện diện của Chúa. Và chắc chắn sẽ được gặp lại Mẹ trong tương lai khi được trùng phùng trong Thiên quốc đẹp xinh. Đó là một niềm hy vọng vững chãi mà chỉ có những người tin Chúa Giê-su mới có được mà thôi!
Cảm tạ Chúa đã ban cho con cái Ngài niềm hy vọng sống động và đầy khích lệ đó!
Mẹ sinh ra tôi đã đi trước tôi về “Miền Vinh Hiển” từ lâu, nhưng tôi vẫn còn một người Mẹ nữa vẫn còn sống trên đời nầy, dù bây giờ, Người đã cao tuổi lắm rồi, chỉ còn vài ba năm nữa là bước vào tuổi 90 đó thôi.
Nhà thơ Đỗ Trung Quân tài hoa đã viết những vần thơ về Mẹ thật hay như sau:
Con sẽ không đợi một ngày kia
khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt
Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua
mỗi ngày qua con lại thấy bơ vơ
ai níu nổi thời gian?
ai níu nổi?
Con mỗi ngày một lớn lên
Mẹ mỗi ngày thêm già cỗi
Cuộc hành trình thầm lặng phía hoàng hôn.
Vâng, Con sẽ không đợi một ngày kia
khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc
Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Cho nên, hôm nay, tôi viết những dòng đơn sơ nầy để gởi tặng Mẹ dấu yêu!
Người Mẹ trong bài viết nầy là người Mẹ của nhà tôi, tức là người Mẹ đã sinh ra Mẹ của các con tôi.
Cha của nhà tôi được Chúa gọi về trong Thiên đàng phước hạnh cách đây đã 18 năm rồi, sau khi ông “đã chiến đấu anh dũng trong trận mạc, đã hoàn tất cuộc chạy đua và giữ vững đức tin.” (II Ti-mô-thê 4: 7) nơi Chúa kính yêu; nhưng Mẹ thì vẫn còn sống đến hôm nay, đó là một niềm vui lớn cho gia đình của chúng tôi.
Đã hơn 5 năm chúng tôi xa Mẹ, không được gặp Mẹ, cho nên nhớ Mẹ thật nhiều, thương Mẹ biết bao nhiêu; cho dù thỉnh thoảng vẫn được chuyện trò với Mẹ qua các phương tiện truyền thông hiện đại ngày hôm nay như Messenger, Viber, Facetime, Facebook… Vì qua các phương tiện đó, dù có thấy được hình bóng Mẹ, có nghe được giọng nói, tiếng cười của Mẹ đó, nhưng đâu có ôm Mẹ được, đâu có cầm tay Mẹ được, đâu có rờ được mái tóc bạc đáng yêu của Mẹ, đâu có chạm vào được vào làn da nhăn nheo đáng quý của Mẹ, đâu có vân vê được tà áo của Mẹ…
Dù ở xa Mẹ đến nửa vòng trái đất, nhưng chúng con vẫn hằng nhìn về quê Mẹ, nơi Mẹ đang sống để nhớ để thương về Mẹ đó, Mẹ biết không?
Tự nhiên, nhớ đến câu ca dao của ông cha ta:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê Mẹ ruột đau chín chiều.
Câu ca dao đó nói lên tâm trạng của người con gái đi lấy chồng, xa Mẹ, và nhớ về Mẹ của mình với một nỗi nhớ sâu lắng làm sao, cồn cào ruột gan làm sao!
Chúng con nhớ Mẹ nhiều lắm, nhất là con gái yêu của Mẹ, lúc nào cũng nhắc đến Mẹ, có nhiều khi nàng còn khóc và nói với con rằng khi mô (nào) mới được về thăm Mẹ đây hả anh?
Mẹ biết không? Mỗi khi nhớ đến Mẹ là chúng con nhớ đến những tình cảm quý báu mà Mẹ đã dành cho chúng con.
Những năm tháng chúng con được ở gần Mẹ, các cháu ngoại của Mẹ được Mẹ thương yêu nhiều lắm, cũng như các cháu nội của Mẹ vậy. Mẹ có thể không nhiều tiền, nhưng Mẹ có cái mà không phải người Mẹ nào cũng có được. Mẹ biết đó là gì không? Đó là Mẹ có nhiều con, nhiều cháu lắm: Chúa ban cho Cha Mẹ có được 10 người con (6 trai, 4 gái), dâu rể là 11 người, cháu nội, cháu ngoại đến nay là 29 người (18 cháu nội, 11 cháu ngoại); cháu dâu, cháu rể là 8, và chắt nội, chắt ngoại là 14. Tổng cộng là 72 người đó Mẹ. Trong số đó, Chúa cho có 3 người hiện đang làm Mục sư đang hầu việc Chúa. Đó chính là dòng dõi và hậu tự của Cha Mẹ cho đến ngày hôm nay.
Đó chính là cơ nghiệp quý báu mà Chúa đã thương yêu ban cho Cha Mẹ vậy, đúng như lời Kinh thánh đã chép: “Kìa con cái là cơ nghiệp từ CHÚA ban; Bông trái từ lòng dạ là phần thưởng.” (Thánh Thi 127: 3)
Thật không dễ gì để có được một cơ nghiệp quý báu như thế đâu phải không Mẹ? Tin chắc là Mẹ rất vui khi nhìn thấy được cơ nghiệp quý báu hơn cả vàng mà Chúa đã ban cho như thế!
Cảm tạ Chúa đã thương yêu và ban cho Cha Mẹ một cơ nghiệp thật tuyệt vời!
Còn nhớ, khi xưa, Mẹ thường hay cho cháu ngoại nào bánh, nào đồ ăn, có khi còn cho chúng nó cả tiền để đi học mà tiêu vặt nữa chứ. Nhiều khi chúng con bận đi lo công việc Hội thánh thì chính Mẹ đã coi sóc, chăm lo các cháu ngoại từng chút một, không thiếu thốn gì, từ ăn uống, giặt giũ, thay đồ, tắm rửa, ru ngủ… tất tần tật mọi chuyện Mẹ đều làm hết chỉ một tay Mẹ gọn trơn mà thôi. Những lúc ấy, chúng con thầm nói trong lòng sao mà Mẹ tài thế không biết nữa. Nể Mẹ, phục Mẹ sát đất thôi!
Khi con đi học thêm lời Chúa ở Mỹ, Mẹ cũng thường hay gởi đồ ăn, nhiều lúc cả tiền bạc nữa để cho con gái và các cháu ngoại của Mẹ được yên tâm, không lo lắng, khi chồng và cha không có ở nhà. Và nhắc nhở các con trung tín trong đức tin theo Chúa.
Khi con gái và cháu ngoại của Mẹ qua Mỹ thì Mẹ cũng lo xa, không biết rồi mấy con ở xứ người sống như thế nào? Lạ đất là người, đất khách quê xa, không người thân thích, không anh em, bà con thì rồi cuộc sống sẽ ra sao? Mỗi lần điện thoại nói chuyện với Mẹ là Mẹ hằng hỏi han, lo lắng cho chúng con ở nơi xa nầy. Nhớ có lần Mẹ đã nói mấy con đi xa quá Mẹ nhớ lắm đó? Khi mô mới về thăm Mẹ? Hay là về đây Mẹ nuôi cho, đừng đi xa quá Mẹ nhớ mà không biết làm sao để gặp được? Thấy Mẹ lo mà càng thương Mẹ nhiều biết bao!
Nhìn mắt Mẹ khi nói chuyện, nghe lời Mẹ nói chúng con đọc được trong đó một nỗi buồn xa xăm về tình Mẹ dành cho chúng con tha thiết biết chừng nào.
Đứa cháu ngoại của Mẹ ở đây cứ hỏi chúng con khi nào thì được về Việt Nam để thăm bà ngoại hả ba mẹ? Con nhớ bà ngoại lắm. Và cháu cứ cầu nguyện cho ngoại…khoan về với Chúa đã để mai mốt cháu được về thăm ngoại trước khi Chúa đưa ngoại về trong nước của Ngài trong tương lai. Đó là lòng của cháu ngoại yêu của Mẹ. Và nếu đây là điều đẹp ý Chúa thì xin Chúa ban cho Mẹ được sống thêm một thời gian nữa với con cháu để mai mốt chúng con về thăm Mẹ, thăm ngoại cho thỏa nhớ mong đã Mẹ nhé.
Thương Mẹ thật nhiều. Nhớ Mẹ lắm lắm Mẹ biết không?
Chúng con luôn luôn nhớ đến Mẹ trong lời cầu nguyện.
Xin Chúa thương yêu, ban phước cho Mẹ cách bội phần.
Xin Chúa gia tăng thêm cho Mẹ những ngày tháng ở với con cháu trên trần gian nầy, nếu đẹp ý Ngài.
Còn có được Cha Mẹ trong đời, ở bên cạnh con cái, còn có được nội ngoại bên mình, thì đó là một điều phước hạnh lớn biết bao cho những người con, người cháu.
Nguyện xin Chúa cho chúng con biết yêu thương, kính trọng Mẹ như lời Chúa dạy: “Hỡi các con cái, hãy vâng lời cha mẹ trong Chúa, vì như thế là phải đạo. 2 “Hãy hiếu kính cha mẹ” đó là điều răn thứ nhất có kèm lời hứa: 3″Ngõ hầu con được phước và sống lâu trên đất.” (Ê-phê-sô 6: 1-3)
Nhân ngày Lễ Mẹ, chúng con kính chúc Mẹ luôn được khỏe, và vui thỏa trong cuộc sống với con cái cũng như với Hội thánh và với mọi người.
Chúng con nhớ nhà thơ Tường Lưu có câu thơ rất hay:
Con vẫn muôn đời con của Mẹ
Mẹ vẫn muôn đời Mẹ của con.
Vâng, Mẹ vẫn muôn đời Mẹ của chúng con Mẹ nhé.
Kính tặng Mẹ mấy vần thơ đơn sơ nầy để Mẹ đọc cho vui đây:
Cảm tạ Chúa là “kỹ sư” tinh xảo
Ban cho ta một người Mẹ tuyệt vời
Ban cho ta một người Mẹ trên đời
Để ta sống trong tình Người diễm tuyệt…
Gởi đến Mẹ nơi đây tất cả tình cảm thương nhớ của chúng con tại nơi xa xôi nầy, thành phố Stockton, Hoa Kỳ!
Kính chào Mẹ của chúng con và hẹn gặp Mẹ trong một tương lai thật gần trong sự ban cho của Chúa! Nhớ chờ chúng con về thăm Mẹ đã, rồi mới …tung cánh thiên thần bay về Trời (ý thơ Tường Lưu) ở với Chúa nghe Mẹ!
Kính chúc Mẹ của Mẹ các con tôi cũng như kính chúc tất cả những người Mẹ một ngày Lễ Mẹ thật nhiều niềm vui bên gia đình, con cháu và người thân.
Ngày Lễ Mẹ 2020
Mục sư Nguyễn Đình Liễu.
Nguồn Vietchristian.com

(Kính tặng Mẹ, người đã sinh ra Mẹ của các con tôi!)
Xin cảm ơn Mẹ thật là nhiều
Rứt ruột đẻ ra con gái yêu
Chăm sóc, ẵm bồng cho khôn lớn
Vất vả một đời biết bao nhiêu…
Xin cảm ơn Mẹ dấu yêu ơi
Tần tảo sớm hôm suốt cả đời
Lưng còng, gối mỏi vì con hết
Chỉ muốn con mình được thảnh thơi…
Xin cảm ơn Mẹ biết bao lần
Tặng con cô gái Mẹ quý trân
Không tiếc con xinh mình đã giữ (1)
Cho con không một chút phân vân…
Xin cảm ơn Mẹ thật rộng rời
Lòng Mẹ bao la như biển khơi
Trao con con gái xinh gái đẹp
Cùng con thành chồng vợ cặp đôi…
Xin cảm ơn Mẹ lời dịu êm
Nhìn vợ mà thương nhớ Mẹ thêm
“Đời anh sẽ nghèo đi biết mấy
Nếu Mẹ hiền ngày trước chẳng sinh em”… (2)
Cảm tạ Chúa ban cho Mẹ tuyệt vời
Lòng Mẹ bao la chẳng hề vơi
Hiếu kính Mẹ Cha lời Chúa dạy (3)
Phước hạnh cuộc đời mãi không thôi…
Ngày Lễ Mẹ 2020
Bình Tú Ngọc
(1): Theo ý trong Kinh thánh, sách Rô-ma 8: 32
(2): Thơ của Lưu Quang Thuận
(3): Lời Kinh thánh dạy trong sách Xuất Ê-díp-tô ký 20: 12
Nguồn: Vietchristian.com

Giáo sư Aggrey, nhà giáo dục người Phi Châu, kể chuyện chim ưng như sau: Người nông dân nọ bắt được một con chim ưng con và đem về nuôi chung với bầy gà nhà. Hằng ngày nó cùng đàn gà đi tìm thức ăn. Càng lớn, nó càng tự hào mình là một con gà đẹp và hùng dũng nhất trong đám gà. Khi lớn lên, đôi cánh nó giang rộng, mỏ quặm xuống, móng vuốt sắc bén, nhưng nó vẫn sống như một con gà.
Nó yêu gia đình, yêu ngôi nhà đang sống, nhưng tận nơi sâu thẳm của tâm hồn, có một niềm khao khát cao xa hơn, hùng vĩ hơn. Một hôm nhìn lên bầu trời xanh thẳm, nhìn thấy những con đại bàng đang sải cánh bay cao. Nó bỗng thốt lên:
“Ồ, ước gì tôi có thể bay lượn như những con chim quý phái đó.” Cả bầy gà cười ầm vào mặt nó, “Mầy chỉ là một con gà, sao có thể bay cao như loài chim được?” Nó cứ tiếp tục nhìn theo đồng loại, trong lòng rất đỗi ước ao được tung cánh lên chín tầng mây. Nhưng mỗi lần thổ lộ điều khao khát, cả bầy gà đều chế diễu, bảo đó chỉ là không tưởng mà thôi.
Cuối cùng, đại bàng cũng tin sự thật rằng mình chỉ là một con gà tầm thường!
Một hôm, có người khách đến thăm lấy làm lạ và tiếc rẻ. Ông khuyên chủ nhân nên thả chim ưng về với cuộc sống hoang dã, vì nó sinh ra để sống với bầu trời cao rộng và những vách đá chót vót.
Sáng hôm sau, trước khi mặt trời mọc, hai người mang chim ưng đi lên một ngọn đồi. Người khách tung chim ưng lên, nó bay một đoạn rồi sà xuống. Người làm như thế nhiều lần. Biết rằng nó không hiểu, song miệng ông vẫn lẩm bẩm, “Chim ưng ơi, mày không phải là gà. Mày là loài chim cao quí nhất.” Khi mặt trời bắt đầu ló dạng, người khách ôm lấy chim ưng, quay mặt nó về hướng đông cho những tia sáng chói lọi của mặt trời rực chiếu vào hai mắt nó. Chim ưng bắt đầu rùng mình, kêu những tiếng lạnh lùng, vang dậy! Người khách buông đôi tay mình ra, đột nhiên chim ưng giang rộng cánh, bay thẳng về hướng mặt trời, để không bao giờ trở về cái sân gà cũ nữa. Nó là sinh vật của thượng từng không gian, của những chân trời không giới hạn.
Nhiều người đã theo Chúa nhưng chấp nhận một cuộc sống buồn tẻ, đơn điệu. Lẽ ra họ có thể sống sung mãn và cao thượng hơn, nhưng họ cứ mãi chăm chú vào những điều thấp kém của trần thế. Từ khi có Chúa, Ngài đã chắp cho chúng ta đôi cánh để bay cao, vượt lên khỏi những nhỏ nhen hiềm tỵ của đời, để hít thở không khí trong lành của tinh thần hy sinh và sự xả kỷ. Hãy hướng đôi mắt tâm linh về mặt trời chân lý là Giê-su Chúa Cứu Thế, để có thể bay cao hơn, bay xa hơn.
Câu gốc suy gẫm:
“Đáng lẽ anh em đã làm thầy từ lâu rồi, nay còn cần người ta lấy những điều sơ học của lời Đức Chúa Trời mà dạy anh em, anh em cần ăn sữa thay vì đồ ăn đặc.” (Hê-bơ-rơ 5:12). A-men!
Con vi-rút ban đầu có tên là Vũ Hán phát sinh từ
một thành phố xa xôi lạ lẫm ở bên Trung Hoa,
không ngờ nay lây lan ra khắp cùng thế giới làm
xáo trộn cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, nguy
hiểm đến sức khoẻ của người dân, ảnh hưởng đến
nhiều lãnh vực trong xã hội. Nên trước lúc nửa
đêm Thứ Tư 25 tháng 3, Thượng Viện Hoa Kỳ đã
thông qua một ngân sách cứu trợ lớn chưa từng
có trong lịch sử, với 2 ngàn tỉ đô-la để kích thích
nền kinh tế và giúp người dân trong cơn đại dịch,
được 96 thượng nghị sĩ bỏ phiếu thuận, không
một phiếu chống và 4 người vắng mặt. Ngân sách
được đưa qua Hạ Viện và sau cuộc tranh luận nảy
lửa vào sáng Thứ Sáu 27 tháng 3, đã được thông
qua với con số là 2 ngàn 200 tỉ đô-la, vì có thêm
vào số tiền để giúp cho những tổ chức quốc tế.
Khi chuyển đến Tổng thống Trump, ông không
khỏi kinh ngạc nên bảo: “Tôi chưa bao giờ ký với
con số ngàn tỉ.” Trước khi đặt bút ký, vào buổi
chiều Thứ Sáu cùng ngày tại Toà Bạch Ốc. Số
tiền này để giúp gồm 1,200 đô-la cho người lớn
có thu nhập dưới 75,000 đô-la một năm, và 2,400
đô-la cho cặp vợ chồng có thu nhập dưới 150,000
đô-la một năm, cùng 500 đô-la cho mỗi người con
dưới 17 tuổi; 600 đô-la trợ cấp thất nghiệp mỗi
tuần cho đến cuối tháng 7, cho những người
không có việc làm; 100 tỉ đô-la cho những bệnh
viện, 350 tỉ đô-la cho những thương nghiệp nhỏ,
500 tỉ đô-la cho những tập đoàn lớn như hãng
máy bay và khách sạn, 150 tỉ đô-la cho quỹ kích
thích kinh tế ở các tiểu bang. Cũng như giúp cho
nhiều việc khác nữa, với số ngân sách lớn này.
Đại dịch giờ lây lan đến 209 quốc gia và lãnh thổ,
làm cho 1,513,304 người nhiễm bệnh và 88,405
người chết trên toàn cầu. Hoa Kỳ có 430,271 ca
nhiễm bệnh và 14,738 người chết. Vì sợ lây lan,
nên sau khi cấm các chuyến bay từ các nước
ngoài vào Mỹ, luôn cả chuyến bay của 28 nước
Âu Châu. Thứ Sáu 13 tháng 3, Tổng thống Trump
ban hành tình trạng khẩn cấp toàn nước và sau đó
tuyên bố Chúa Nhật 15 tháng 3 là Ngày Quốc Gia
Cầu Nguyện. Nhắc nhở toàn dân là xuyên suốt
lịch sử, nước Mỹ thường trông nhờ sức mạnh và
sự bảo vệ của Chúa trong những lúc như thế này.
Tiên tri Giê-rê-mi lúc gặp hoạn nạn cũng được
Chúa nhắc: “Hãy kêu cầu ta, ta sẽ trả lời cho; ta
sẽ tỏ cho ngươi những việc lớn và khó, là những
việc ngươi chưa từng biết” (Giê-rê-mi 33:3).
Trong cuộc họp báo gần đây, Tổng thống Trump
hé lộ là đang xem xét cái check thứ hai có thể sẽ
gởi ra trong vòng 6 tuần sau check thứ nhất, nếu
nền kinh tế chưa ổn định vì cơn dịch. Bộ trưởng
Ngân Khố cũng tuyên bố là Cơ Quan Thuế Vụ đã
in tiền từ Thứ Hai ngày 6 và tuần tới người dân sẽ
bắt đầu nhận check. Sau nhiều năm sống tại Mỹ
tôi nhận thấy điều này, ấy là sau mỗi cuộc khủng
khoảng lớn như vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm
2001 và đại dịch này, người Mỹ luôn chứng tỏ
cho thế giới thấy sự giàu có và hùng mạnh của đất
nước mình. Nên chúng ta hãy vui mừng là đang
sống trong đất nước mà được Chúa ban phước,
như lời Thi Thiên 33:12 bảo: “Nước nào có Giê-
hô-va làm Đức Chúa Trời mình, dân tộc nào được
Ngài chọn làm cơ nghiệp mình có phước thay!”
Trong gần một năm nay tôi được cơ hội gọi điện
thoại vào Toà Bạch Ốc cầu nguyện với các vị lãnh
đạo tinh thần một tháng một lần, nhưng gần đây
vì đại dịch bùng phát nên Toà Bạch Ốc mời gọi
vào cầu nguyện thường xuyên hơn, chứ không chỉ
là một tháng một lần. Sau khi nhân viên chính phủ
báo cáo về hiện tình đất nước, thì khoảng trên
dưới 500 vị lãnh đạo tinh thần hiệp chung cầu
nguyện. Những tuần qua tôi cũng họp nhiều lần
qua Zoom với Ban Điều Hành Giáo Hội Báp-tít
Nam Phương Hoa Kỳ, các vị lãnh đạo Liên Hữu
Báp-tít của các dân tộc Á Châu, cùng các vị lãnh
đạo của các Giáo Hội khác. Một mục sư của một
trong các cuộc họp bảo: Đại dịch này Chúa chẳng
những đem chúng ta lại gần nhau hơn, mà chúng
ta còn cùng cầu nguyện với nhau và cho nhau nữa.
Theo lịch sử của Hội Thánh xưa nay, là khi xã hội
bên ngoài thật tối đen thì có dấu hiệu của sự phục
hưng, vì tại những thời điểm vô vọng ấy có những
tôi con của Chúa cầu nguyện. Họ không chỉ cầu
nguyện, mà là dốc lòng đổ nước mắt của mình ra
kêu cầu cùng Chúa. Vì trong 2 Sử Ký 7:14 Đức
Chúa Trời có phán rằng: “Và nhược bằng dân sự
ta, là dân gọi bằng danh ta, hạ mình xuống, cầu
nguyện, tìm kiếm mặt ta, và trở lại, bỏ con đường
tà, thì ta ở trên trời sẽ nghe, tha thứ tội chúng nó,
và cứu xứ họ khỏi tai vạ.” Cảm ơn Chúa là Ngài
cho nước Mỹ hiện đang được điều hành bởi một
chính quyền rất quan tâm đến dân, nên người dân
sẽ nhận được sự trợ giúp về phần vật chất. Nhưng
về phần thuộc linh thì sao? Đây phải là mối quan
tâm hàng đầu của mỗi chúng ta trong lúc này!
Hãy cầu nguyện để cho sự phục hưng mau đến, vì
chỉ có sự phục hưng Chúa mới vực dậy đời sống
tâm linh của người dân trong đất nước này! Tại
Mỹ hôm nay ngoài vật chất dư thừa ra thì tri thức
cũng không thiếu, nhưng nhiều tín đồ lại không
kinh nghiệm được Chúa. Mục sư Martin Luther
có một giai đoạn trong cuộc đời đã rất hài lòng về
sự sùng đạo trong thế giới của mình, đến khi dạy
tại Đại Học Wittenberg, thì ở đây bắt đầu đánh
dấu một khúc quanh quan trọng trong cuộc đời.
Ông tự dưng khao khát có cuộc đời tin yêu và
kính sợ Chúa, sự việc này khiến ông dùng nhiều
thì giờ trong sự cầu nguyện. Mong sao chúng ta
có sự khát khao như Martin Luther, để làm điều
như ông đã làm, là cầu nguyện nhiều, hầu Chúa
dùng chúng ta phấn hưng Hội Thánh của Ngài.
Có người hỏi tại sao Chúa cho đại dịch này xảy
ra? Tôi không trả lời được, vì như lời Chúa trong
Ê-sai 55:8a bảo: “Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng
các ngươi.” Mục sư Billy Graham cũng vậy, ông
bảo ông không biết, khi có người hỏi tại sao Chúa
cho vụ khủng bố xảy ra ở thành phố Oklahoma
năm 1995 làm cho nhiều người chết. Chỉ có điều
ông chắc, là Chúa yêu thương họ. Có một cô gái
từ Thuỵ Sĩ qua Pháp thăm bạn, dù khi đó bạn kêu
mệt nhưng vẫn đi chơi chung. Cho tới khi về nhà
mới hay tin cô bạn bệnh, nên đi khám và phát hiện
mình bị lây. Lúc ở nhà tự cách ly, nhiều khi cô
muốn bỏ cuộc. Nhưng nghĩ mà thương Chúa quá,
vì Ngài đã cho thật nhiều mà cô thì lại có ít thời
giờ với Chúa quá, nên cầu xin Chúa cho mình hết
bệnh để sau này có thể sống cho Ngài nhiều hơn.
Cuộc đời của Martin Luther cũng có lúc ông
muốn bỏ cuộc, mặc cho con thuyền Giáo Hội có
ra sao! Một hôm vợ ông mặc bộ đồ tang đi vào
phòng, ông hỏi: “Ai chết mà em mặc đồ tang
vậy?” Bà bảo: “Em để tang cho Đức Chúa Trời!”
Ông nói: “Đức Chúa Trời làm sao chết được, em
điên sao?” Bà đáp: “Nếu Đức Chúa Trời không
chết tại sao anh buồn, anh muốn bỏ cuộc.” Nhờ
vậy mà ông tỉnh thức, tiếp tục đưa cuộc cải chánh
Giáo Hội đến cuối cùng. Chúng ta cũng vậy, có
khi hoàn cảnh chung quanh làm cho mình ngã
lòng. Đại dịch corona đã làm cho không biết bao
nhiêu người lo âu, sợ sệt. Dù không biết tại sao
Chúa cho phép nó xảy ra, nhưng tôi cầu nguyện
và vững lòng tin nơi Chúa là mọi sự rồi sẽ tốt đẹp,
vì Đức Chúa Trời vẫn còn yêu thương chúng ta!
Mục sư Ức Chiến Thắng
VÀI ĐIỀU QUAN TRỌNG ĐỂ SUY NGẪM,THẾ GIỚI KỶ NIỆM CHÚA PHỤC SINH GIỮA ĐẠI DỊCH COVID-19VÀ LỢI ÍCH CỦA VIỆC “CÁCH LY XÃ HỘI”
Thế giới đang chìm trong cơn đại dịch Covid 19. Đến hôm nay, 13/04/2020 số người nhiễm hơn 1.850.000 người, số người chết hơn 114.000 người và những con số này vẫn còn đang tăng lên. Có thể nói thế giới đang bị bao trùm trong sự lo lắng, sợ hãi và chết chóc.
Trong khi đó, Hội Thánh Chúa trên toàn thế giới vẫn vui mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh. Ở đây cho thấy có hai bức tranh tương phản nhau.
Và điều này nói lên điều gì?
Thứ nhất: Thế giới loài người đang ở giữa sự bất an, lo sợ và chết chóc, nhưng lễ Kỷ niệm Chúa Phục sinh của Cơ Đốc giáo đang loan báo một cách mạnh mẽ cho thế giới biết: CHÚA GIÊ-SU ĐÃ SỐNG LẠI VÀ NGÀI LÀ ĐẤNG SỐNG ĐỜI ĐỜI. Chính Chúa Jesus phán rằng: “Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi” (Giăng 11: 25). Ngoài Cơ Đốc giáo ra, chẳng có tôn giáo nào khác trên thế giới có lễ Phục Sinh như vậy.
Chúa Giê-su chịu chết chuộc tội cho toàn thể nhân loại, nhưng đến ngày thứ ba, Ngài đã sống lại cách khải hoàn. Vì Ngài là Đấng Sống lại để ban sự sống đời đời phước hạnh cho những ai đặt lòng tin nơi Ngài (Giăng 3: 16). Thế giới con người đang sống trong sự chết chóc, tuyệt vọng hãy mau quay về đặt lòng tin nơi Chúa Sống để nhận được sự sống đời đời do Ngài ban cho. Đây là sứ điệp mùa Phục sinh năm nay cho hoàn cảnh hiện tại của thế giới.
Là con cái Chúa, dù thế giới có như thế nào, chúng ta vẫn biết có Chúa Hằng Sống ở với chúng ta. Đây là lúc chúng ta càng tin cậy Chúa, càng gần gũi Chúa, sống mạnh mẽ hơn trong tâm linh và sống trong sự bình an. Vì lời Chúa hứa ban sự bình an cho chúng ta (Giăng 14: 27) và chúng ta đã nhận được sự bình an đó.
Năm nay, lịch sử của Hội Thánh Chúa sẽ ghi lại lễ kỷ niệm Chúa Phục sinh theo cách đặc biệt: Tiếng ngợi khen Chúa vang vọng mọi nơi, không những trong nhà thờ mà tại nơi từng gia đình của những tín hữu tôn thờ Chúa Sống; không những thế, tiếng hát ngợi khen Chúa Phục sinh vang dội trên mạng Internet qua các công cụ: Youtube, facebook, Instagram, Twitter v.v. và có nghĩa là nó còn được lưu lại trên các công vụ này rất lâu, để nhiều người tin và chưa tin sẽ còn có cơ hội tiếp tục xem để tìm biết đến Chúa Jesus và tin nhận Ngài.
Thứ hai: Khi dịch bệnh xẩy ra cho nhiều đất nước, các nước đã áp dụng phòng ngừa dịch bệnh lây lan bằng biện pháp cách ly xã hội. Điều này là sự bất tiện cho cuộc sống, cho sự thờ phượng Chúa tại nhà thờ của những người tin Chúa ở khắp nơi. Mặt khác là sự thuận lợi. Đây là cơ hội cho vô số Hội Thánh Chúa trên khắp thế giới rao giảng Lời Đức Chúa Trời và được đăng tải trên các trang mạng xã hội. Cho nên hiện nay, số lượng bài giảng về Chúa được đăng và lưu trên các trang mạng xã hội cách “bùng nổ”. Nếu không có dịch bệnh xẩy ra và không có việc cách ly xã hội, con người vẫn cứ bị cuốn cuồn vào trong dòng đời. Hầu như không ai có nhiều thời gian ngồi lại để ngẫm suy về cuộc đời, về đời sống tâm linh và về Đức Chúa Trời-Đấng Tạo Hóa. Bên cạnh đó, chúng ta cũng khó mời những thân hữu đến nhà thờ để nghe về Tin lành cứu rỗi của Chúa. Bây giờ, dù muốn dù không hầu hết mọi người đều phải chấp nhận sống chậm lại, ở nhà và được nghỉ ngơi. Họ có nhiều thời gian hơn để suy gẫm về cuộc đời và có thời gian lên mạng xã hội để tìm kiếm nhiều điều. Chắc chắn họ cũng sẽ có cơ hội được nghe rao giảng về Kinh thánh, về tình yêu thương và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời cách dễ dàng.
Cho nên, mọi điều đang xẩy ra cho thế giới là cách Đức Chúa Trời cho phép để mọi sự hiệp lại làm ích cho những người yêu mến Ngài (Rô ma 8: 28) và có ích cho công việc rao giảng Tin lành của Đức Chúa Trời cách mạnh mẽ và phổ biến trong thời đại kỹ thuật số.
Đây có thể nói là thời kỳ Đức Chúa Trời đang làm ứng nghiệm lời Ngài: “Tin lành về Nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến” (Mathiơ 24: 14).
Nguyện xin Chúa cho hết thảy chúng con nhìn thấy công việc của Đức Chúa Trời đang hành động trong thế giới loài người hiện tại để nhận biết rõ “sự cuối cùng đang đến rất gần”. Sự tái lâm của Chúa Jesus đang ở trước cửa. A-men!
Mục sư Phan Bửu Sơn

I/ Những từ ( words) liên quan :
1/ Lễ Phục sinh : Easter.
2/ Sống lại : rise up.
3/ Phục sinh ( sống lại từ kẻ chết) : Resurrection.
II/ Những tín lý cơ bản về Phục sinh.
1/ Đấng Christ phải chịu khổ hình vì nhân loại: “ Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy: Đức Giê-hô-va đã làm cho tội-lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người.” ( Ê-sai 53:6 VB1925). We all, like sheep, have gone astray,each of us has turned to our own way; and the Lord has laid on him the iniquity of us all. (NIV)
2/ Đấng Christ phải hy sinh trên thập tự giá để chúng ta được bình an và chữa lành. “Nhưng người đã vì tội-lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian-ác chúng ta mà bị thương, bởi sự sửa-phạt người chịu chúng ta được bình-an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh.” Ê-sai 53:5 VB1925 But he was pierced for our transgressions, he was crushed for our iniquities; the punishment that brought us peace was on him, and by his wounds we are healed.
3/ Đấng Christ phục sinh là trái đầu mùa của những kẻ ngủ
“Nhưng bây giờ, Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, Ngài là trái đầu mùa của những kẻ ngủ.” I Cô-rinh-tô 15:20 VB1925 But Christ has indeed been raised from the dead, the firstfruits of those who have fallen asleep. Chính Chúa Jesus phán rằng: “ Ta là sự sống lại và sự sống , ai tin ta thì sẽ sống mặc dù đã chết rồi.” Khi Chúa lại đại quyền đại vinh ngự trên đám mây mà xuống, tức là Chúa tái lâm thì những kẻ thuộc về Chúa đã chết trong mồ mả sống lại trước nhất.
4/ Chúa phục sinh để những người thuộc về Chúa : kẻ được đóng ấn bằng thánh linh là công dân nước trời mà còn sống trên thế giảng này được cất lên không trung mà gặp Ngài,và không phải qua sự chết thứ nhất đã định cho loài người. “Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. Còn ai sống và tin ta thì không hề chết. Ngươi tin điều đó chăng?” Giăng 11:25-26 VB1925 Jesus said to her, “I am the resurrection and the life. The one who believes in me will live, even though they die;26and whoever lives by believing in me will never die. Do you believe this?” (NIV)
5/ Đấng Christ sống lại để Ngài có thể sống trong chúng ta khi chúng ta bằng lòng đóng đinh bản ngả, xác thịt của chúng ta trên thập tự giá với Ngài. Tôi đã bị đóng đinh vào thập-tự-giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác-thịt, ấy là tôi sống trong đức-tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi. (Ga-là-ti 2:20) I have been crucified with Christ and I no longer live, but Christ lives in me. The life I now live in the body, I live by faith in the Son of God, who loved me and gave himself for me. (NIV)
6/ Ngài phục sinh để trở về ngôi vinh quan của Ngài hầu cho cầu thay cho chúng ta. “Ai sẽ lên án họ ư? Đức Chúa Jêsus-Christ là Đấng đã chết, và cũng đã sống lại nữa, Ngài đang ngự bên hữu Đức Chúa Trời, cầu-nguyện thế cho chúng ta.” Rô-ma 8:34 VB1925 Who then is the one who condemns? No one. Christ Jesus who died—more than that, who was raised to life—is at the right hand of God and is also interceding for us. (NIV)
III Kết Luận:
Bắt đầu bằng nhục hình: thân thể rướm máu vì lằn roi, đầu chảy máu vì Mão gái, bị sĩ nhục bằng nhạo báng và nước miếng vào mặt; bại đóng đinh trên cây thập tự và cuối cùng bị giáo đâm ngăn hông huyết và nước chảy ra. Ngài trút linh hồn và được chôn trong mồ mã. Nhưng cuối cùng Ngài đã đắc thắng tử thần và phục sinh Khải hoàn để ban cho chúng ta một đời đóng mới bình an, hạnh phúc ở trần gian và một đời sống hạnh phúc Vĩnh Cửu đời đời ở trên trời.
Mục Sư Nguyễn Đức Na

* Thương khó Chúa đã qua rồi,
Nhìn lên thập tự ,bồi hồi tiếc thương,
Niềm tin vững chải lạ thường,
Tin vui CHÚA SỐNG tỏ tường từ đây.
*Nay tôi còn sống mỗi ngày,
Biết ơn Thiên Chúa, tỏ bày tình yêu,
Đức tin vững chải mọi điều,
Vì biết CHÚA SỐNG mục tiêu hàng đầu.
*Nếu hỏi: Chúa sống ở đâu?
Rằng Chúa đã sống lòng này khắc ghi.
Dù cho cản trở lối đi,
Cầu Chúa,dịch bệnh biến đi tỏ tường.
* Tình yêu rãi khắp muôn phương,
Cho con dân Chúa tha hương tim về,
Nhà Cha vui thỏa đề huề,
Cùng nhau sum họp, tràn trề niềm vui.
*Dâng lời cảm tạ Chúa Trời,
Nhà Cha rộng mở, người người ăn năn.
Nhìn lên Thiên Chúa toàn năng,
Con dâng Chúa chọn, vẫn hằng khẩn xin:
*Cầu cho thế giới an ninh,
Chiến tranh chấm dứt, bình minh rạng ngời.
Nhìn lên Thiên Chúa là nơi:
Niềm tin vững chải ,sáng ngời danh Cha.
*Tin vui rãi khắp sơn hà,
Muôn dân, muôn nước vang xa tin mừng
Người người thong thả ung dung,
Tương lai nhân loại trùng phùng nước Thiên.
*Nhà Cha vinh hiển vẹn tuyền,
Cùng nhau chung hưởng phước thiên vĩnh hằng* ./.
LÊ- NGUYỄN 4/2020

Có ai chẳng tội lỗi gì,
Nhưng đành chết thế bởi vì yêu thương?
Vốn Danh Con Một Thiên Vương,
Sinh ra xuống thế mở đường cứu dân!
Chịu đau chịu khổ quên thân,
Bị người khinh dể, xa gần chán chê,
Ác gian mưu hại chẳng nề,
Nín lòng cam chịu mọi bề đau thương!
Bởi Cha Chúa Thánh Thiên Ðường,
Biết đời sai lạc theo thường ý riêng,
Nên ban Con Một xuống liền,
Hy sinh cứu thế mọi miền nhân gian!
Theo lời Cha của bình an,
Chúa Con gánh chịu, chẳng than phiền gì,
Trên cây thập tự uy nghi,
Lằn roi vọt đánh, chẳng chi nao sờn.
Hy sinh thân báu cứu nhơn,
Cho bao tội lỗi giang sơn ngập tràn…
Nhờ ơn thương xót Thiên Ðàng,
Con người được sống bình an lâu dài!
Ðấng quang minh đó là ai,
Ðóng đinh thập giá, chính Ngài chết thay?
Sao ta quên được điều này,
Chúa Hy Sinh để tỏ bày yêu thương!
“…Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người…” (Ê-sai 53:3-8)
Tiểu Minh Ngọc

Thập Tự Xưa – The Old Rugged Cross là một trong những thánh ca được rất nhiều người yêu thích. Dầu đã hơn 100 năm nhưng bài thánh ca được xức dầu này vẫn sống mãi với thời gian. Và mỗi lần lắng nghe bài thánh ca này được trổi lên lòng tôi không khỏi bồi hồi khi đứng trước tình yêu quá vĩ đại của Cứu Chúa Giê-xu đã dành cho tôi. Trong mùa kỷ niệm Cứu Chúa Phục Sinh xin giới thiệu đến mọi người vài nét về tác giả và lịch sử của bài thánh ca này.
Tác Giả

Tác giả của bài thánh ca Thập Tự Xưa – The Old Rugged Cross là Mục sư George Bennard (1873-1958). Ông là người sáng tác cả nhạc lẫn lời của bài thánh ca này.
Mục sư George Bennard sinh ngày 4/2/1873 tại Youngstown, một thị trấn nhỏ có nhiều mỏ than và sắt tại Ohio. Cha mẹ của Mục sư George Bennard là ông bà George và Margaret Russell Bennard, là dòng dõi của những di dân từ Scotland. Lúc George Bennard còn nhỏ, cha mẹ ông chuyển đến sống tại Albia, Iowa; và sau đó cả gia đình định cư tại Lucas, Iowa.
George Bennard là con trai duy nhất trong một gia đình có năm người con. Cha của George Bennard là một công nhân hầm mỏ. Năm 1889, thân sinh của George Bennard bị tai nạn, qua đời; lúc đó George Bennard được 16 tuổi.
Không bao lâu sau khi cha qua đời, George Bennard tiếp nhận Chúa trong một buổi truyền giảng do Salvation Army tổ chức. George Bennard là người yêu mến Chúa; chàng thanh niên mong ước được làm mục sư, trở thành một nhà truyền giảng; tuy nhiên vì là người đàn ông duy nhất trong gia đình, George Bennard phải gác lại ý định đó, đi làm công nhân hầm mỏ một thời gian để giúp đỡ mẹ và lo cho 4 em gái.
Tám năm trôi qua, năm 1897, George Bennard kinh nghiệm được Chúa biến cải. Khi đó các chị em trong gia đình đã lớn và cuộc sống gia đình tương đối ổn định; ước muốn được hầu việc Chúa trọn thời gian đã thúc đẩy George Bennard tham gia Salvation Army, một tổ chức truyền giáo Tin Lành hoạt động qua công tác thiện nguyện. George Bennard bắt đầu hầu việc Chúa với Salvation Army tại Rock Island, Illinois. Năm 1898, ông được giao trách nhiệm phối trí tổ chức những buổi nhóm bồi linh tại vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Trong thời gian cộng tác với Salvation Army, George Bennard đã gặp và yêu Willaminta. Sau đó, cả hai thành hôn và tiếp tục hầu việc Chúa với Salvation Army. Một thời gian sau, hai vợ chồng được thuyên chuyển về New York.
Năm 1910, George Bennard quyết định trở thành nhà truyền giảng thực thụ. Ông bà từ chức tại Salvation Army và tham gia hầu việc Chúa với Hội Thánh Tin Lành Giám Lý. Là người yêu mến Chúa và quan tâm đến nếp sống thánh khiết, George Bennard đã được Hội Thánh Giám Lý cử làm mục sư đặc trách cho công tác truyền giảng bồi linh tại vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Ông thường phục vụ cùng với D. Willia Caffray.
Tác Phẩm
Với trách nhiệm của một nhà truyền giảng lưu động, Mục sư George Bennard thường đến giảng tại nhiều hội thánh. Vào đầu thế kỷ 20, những người theo khuynh hướng tự do tìm cách đả phá niềm tin Cơ đốc. Trước làn sóng tấn công từ bên ngoài, một số tín hữu thiếu hiểu biết Kinh Thánh dao động, Mục sư George Bennard tìm cách giúp các tín hữu hiểu rõ điều mình tin và giữ vững đức tin.
Vào thế kỷ thứ nhất, khi đối diện với những quan điểm sai lầm trong niềm tin Cơ Đốc, Sứ đồ Phao-lô đã viết: “Còn với tôi, tôi chẳng khoe về điều gì ngoài thập tự giá của Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ. Nhờ thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy” Ga-la-ti 6:14. Noi gương Sứ đồ Phao-lô, Mục sư George Bennard đã dành thì giờ suy nghiệm chân lý cứu rỗi qua sự hy sinh của Đức Chúa Giê-xu trên thập tự cho chính mình. Từ kinh nghiệm cá nhân, Mục sư George Bennard chia sẻ niềm tin đó cho những người chưa biết Chúa và khích lệ những người đã tin Chúa.
Trong các bài giảng, Mục sư George Bennard thường trích dẫn câu Kinh Thánh Giăng 3:16 – “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời”. Mục sư George Bennard cho biết mỗi lần suy gẫm câu Kinh Thánh Giăng 3:16, ông lại học được nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn – đặc biệt trong những lúc ông phải đối diện với khó khăn. Mục sư George Bennard nói thêm mỗi lần đọc lại câu Kinh Thánh này, tâm trí ông thường hình dung một cây thập tự, không phải cây thập tự bằng vàng hay bạc, nhưng là một cây thập tự cũ kỹ thấm máu của Chiên Con Đức Chúa Trời.
Mùa thu năm 1912, tại Albion, Michigan, trong thời gian suy niệm về thập tự, Mục sư George Bennard được thúc giục sáng tác một thánh ca. Mục sư George Bennard cho biết chỉ trong vài phút, giai điệu của bài hát được hoàn tất. Tuy nhiên, về lời ca ông chỉ viết được vài dòng; trong đó câu “I’ll cherish the old rugged cross” cứ lập đi lập lại nhiều lần. Trong vài tuần kế tiếp, Mục sư George Bennard cố gắng viết và sửa lại phiên khúc đầu tiên của bài thánh ca.
Cuối năm 1912, Mục sư George Bennard được mời đến giảng cho Hội Đồng Bồi Linh tại Sawyer Friends Church ở Sturgeon Bay, Wisconsin, nơi Mục sư Frank McCann quản nhiệm. Hội đồng được tổ chức từ ngày 29/12/1912 đến ngày 12/1/1913. Tại hội đồng này, Mục sư George Bennard hoàn tất bản thảo đầu tiên của bài thánh ca The Old Rugged Cross. Đêm bế mạc hội đồng, Mục sư George Bennard cùng với Ed E. Mieras hát bài thánh ca này. Đây là lần đầu tiên thánh ca The Old Rugged Cross được giới thiệu cho công chúng. Mục sư George Bennard và Ed E. Mieras vừa hát vừa đệm đàn ghi-ta; người phụ họa đàn phong cầm là Pearl Torstensen Berg. Theo tin tức của báo Door Co. Dem. phát hành ngày 17/1/1913 tại Sturgeon Bay, hội đồng kết thúc gần 12 giờ khuya. Đêm hôm đó có 148 người tin nhận Chúa.
Trong những tháng kế tiếp, Mục sư George Bennard tiếp tục sửa lại lời thánh ca. Cuối tháng 5/1913, Mục sư George Bennard được Mục sư Leroy O. Bostwick mời tham dự chương trình truyền giảng kéo dài hai tuần tại Pokagon, một thị trấn nhỏ thuộc miền tây nam của tiểu bang Michigan.
Trong những ngày tham dự hội đồng, Mục sư George Bennard đã tạm trú tại nhà ông bà Mục sư Leroy O. Bostwick. Như các diễn giả cho hội đồng, Mục sư George Bennard thường dành thì giờ cầu nguyện. Sau một lần tĩnh nguyện, ý tưởng về bài thánh ca lại tuôn tràn. Mục sư George Bennard vội vàng ghi lại cả bốn phiên khúc và điệp khúc của bài thánh ca. Bản hiệu đính của thánh ca The Old Rugged Cross được hoàn tất tại nhà của Mục sư Leroy O. Bostwick.
Ngày 7/6/1913, lời thánh ca hiệu đính của The Old Rugged Cross được trình bày tại First Methodist Episcopal Church ở Pokagon, là hội thánh do Mục sư Leroy O. Bostwick quản nhiệm. Năm người hát thánh ca tại hội đồng là Frank Virgil, Oliver Mars, Clara Virgil, William Thaldorf và Florence Jonen. Trong lần công diễn này, Mục sư George Bennard mời hội chúng ghi lại lời thánh ca và sau đó cùng hát với những người hướng dẫn. Bài thánh ca The Old Rugged Cross được những người tham dự hội đồng hoan nghênh. Vợ của Mục sư Leroy O. Bostwick đã xin phép cho bà được vinh dự góp phần trả tiền làm bản kẽm để in thánh ca.

PokagonUMC_1913 – Nhà thờ của Hội Thánh Tin Lành Giám Lý Pokagon, Michigan
(Photo credit: http://www.the-oldruggedcross.org)
Mặc dầu được nhiều người hoan nghênh, Mục sư George Bennard vẫn không thỏa lòng với lời thánh ca mà ông đã viết. Sau hội đồng tại Pokagon, Mục sư George Bennard tiếp tục đến truyền giảng tại một số hội thánh thuộc tiểu bang New York. Tạ ơn Chúa! Các chương trình truyền giảng này có nhiều người tiếp nhận Chúa. Mục sư George Bennard chứng kiến nhiều tấm lòng tan vỡ khi cảm nhận được tình yêu thể hiện qua sự hy sinh của Đức Chúa Giê-xu trên thập tự.
Trở về lại Albion, Michigan, vẫn còn xúc động với những kinh nghiệm phước hạnh từ những hội đồng tại New York, một lần nữa Mục sư George Bennard viết lại phiên khúc của bài thánh ca. Những lời hát mà ông đã trăn trở mấy tháng nay sửa vẫn chưa xong, giờ đây tuôn chảy thật dễ dàng. Mục sư George Bennard cho biết ông viết lại lời thánh ca thật nhanh và chỉ sửa có một chữ. Mục sư George Bennard đã hoàn tất lời thánh ca The Old Rugged Cross như chúng ta có ngày hôm nay.
Sau khi viết xong cả nhạc và lời, Mục sư George Bennard gởi bài thánh ca đến cho Charles H. Gabriel, một nhà biên soạn thánh ca nổi tiếng tại Chicago, để nhờ Charles H. Gabriel soạn hòa âm. Charles H. Gabriel viết hòa âm cho The Old Rugged Cross rồi gởi bản nhạc lại cho Mục sư George Bennard với dòng chữ “You will hear from this song” (Tạm dịch: Ngài sẽ nghe bài hát này”.
Từ trong bóng đêm nghèo nàn, thống khổ, George Bennard đã hát về năng quyền của thập tự, và càng ngày bài hát của ông càng được nhiều người biết đến.
Mặc dầu The Old Rugged Cross được nhiều người yêu thích, trong vài năm đầu thánh ca chỉ phổ biến giới hạn tại một số hội thánh thuộc vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Bài thánh ca được phổ biến rộng rãi sau kỳ hội đồng tại Chicago Evangelistic Institute. Đại biểu từ nhiều tiểu bang đến tham dự hội đồng tại Chicago Evangelistic Institute sau khi nghe bài thánh ca đã giới thiệu The Old Rugged Cross đến các hội thánh ở xa. Một thời gian sau, Homer Rodeheaver, người đặc trách âm nhạc cho nhà truyền giảng Billy Sunday, đã mua lại quyền phát hành bài thánh ca The Old Rugged Cross với giá $500. Qua hệ thống phát thanh của nhà truyền giảng Billy Sunday, thánh ca The Old Rugged Cross được lan ra.
Sau khi sáng tác The Old Rugged Cross, Mục sư George Bennard tiếp tục hầu việc Chúa thêm 45 năm nữa với Hội Thánh Tin Lành Giám Lý. Trong thời gian này, ông đã sáng tác hơn 350 bài thánh ca nhưng không thánh ca nào để lại ảnh hưởng sâu đậm như The Old Rugged Cross, là thánh ca mà Mục sư George Bennard nói ông chỉ ghi lại những gì Chúa muốn ông viết.
Mục sư George Bennard về với Chúa vào ngày 10/10/1958 tại Reed City, Michigan. Thi hài ông được an táng tại nghĩa trang Inglewood Park Cemetery, Inglewood, California. Sau khi Mục sư George Bennard về với Chúa, những địa phương nơi ông đã sinh sống hay hầu việc Chúa như Albion, Pokagon, và Reed City, đã thành lập những bảo tàng để lưu giữ những tài liệu liên hệ đến Mục sư George Bennard và nguồn gốc của bài thánh ca The Old Rugged Cross.
Một cây thập tự bằng gỗ cao 3,6m đã được dựng lên bên vệ đường gần thành phố Reed Michigan, để vinh danh nhà biên soạn. Trên cây thập tự ấy có ghi dòng chữ “Thập Tự Xưa”. Đó là một dấu hiệu nhắc nhở khách qua lại rằng: “Nơi đây là nhà của mục sư Geprge Bennard, tác giả bài thánh ca Thập Tự Xưa”.
Năm 1959, khi biết tin quê hương của Mục sư George Bennard dự định thành lập bảo tàng tưởng niệm, Tổng Thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower đã viết: “Dự án thành lập nơi tưởng niệm Mục sư George Bennard, tác giả của thánh ca The Old Rugged Cross, và là công dân của quý thị trấn là điều rất tốt. Bài thánh ca này mang số 296 trong Thánh Ca của Lục Quân và Hải Quân. Tôi biết bài thánh ca đã được hát, rất được yêu thích và đã làm mạnh mẽ đức tin của nhiều người”. Mục sư Normal Vincent Peale, một nhà văn và là nhà tư tưởng có nhiều ảnh hưởng, cho biết: “Thánh ca The Old Rugged Cross của Mục sư George Bennard là một trong những thánh ca tuyệt vời nhất đã để lại những ảnh hưởng sâu đậm trên đời sống tâm linh của tôi”. Mục sư Tiến sĩ Billy Graham nhận định về Mục sư George Bennard như sau: “Chỉ có cõi đời đời mới tiết lộ đầy đủ cống hiến vĩ đại mà Mục sư George Bennard đã làm cho vương quốc của Đức Chúa Trời qua việc cống hiến những tài năng của ông, và đặc biệt qua bài thánh ca The Old Rugged Cross”.
Những bài hát do Phao-lô và Si-la hát giữa đêm khuya đã gây nên cơn chấn động trong nhà giam tại thành Phi-líp. Bài hát mà George Bennard hát từ tâm linh giữa đêm tối của ông đã gây nên một cơn chấn động thuộc linh trong vô số tấm lòng và đem nhiều người đến nơi chân thập tự giá Cứu Chúa đã chịu treo trên đó mà ông đã hát về cách hùng hồn.
nguồn Hoithanh.com
Scroll