Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “DƯỠNG LINH”

CHỮ “PHƯỚC” THEO KHẢI THỊ TÂN ƯỚC

phước.png

Theo các nhà khảo cổ và nhà giải nghĩa Kinh thánh thì nhân loại tại tháp Ba-bên phân tán vào khoảng thế kỉ 23 TCN. Những người khai sáng ra dân tộc Trung Hoa (Hán tộc) cũng sáng chế ra chữ Hán vào khoảng thời điểm đó. Chữ Hán của Trung quốc không phải là khải thị của Kinh thánh, nhưng nhiều học giả tin rằng chữ Hán giải thích phần nào những lẽ thật trong Sáng thế kí từ chương 1 đến 11.

Vào ngày tết Nguyên đán, đa số người Hoa đều treo hình chữ phước trước cửa nhà mình. Cơ Đốc nhân Việt nam cũng bắt chước hành động đó và có lòng cầu mong “PHƯỚC” vào nhà mình.

“Trước hết cần tìm hiểu từ Phúc (Phước)  trong nền văn hóa của chúng ta. Từ “Phúc” viết theo chữ Hán (   ) gồm có bốn chữ, là một bản ghi tượng hình còn được bảo tồn trong chữ viết Trung Quốc chỉ về tình trạng hạnh phúc ban đầu của loài người. Chữ thứ nhất bên trái là bộ kỳ (   ) chỉ về thần (  ) tức Ông Trời, Đức Chúa Trời hay Thiên Chúa. Bên phải có 3 chữ là: Nhất (  ) là một; khẩu ( ) là miệng hay người (nhân khẩu); điền ()  là ruộng, ruộng vườn. Kết hợp bốn chữ trên thành từ Phước (   ) có nghĩa là: Một người có ruộng vườn và có Thiên Chúa ở bên cạnh. Như vậy, người xưa quan niệm người được phước là một người không chỉ có tài sản ruộng vườn, đất đai mà còn có mối quan hệ với Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa của mình, là nguồn phước, bởi con người là sinh vật tâm linh, “linh ư vạn vật”. (Trích https://httlvn.org/phuoc.html).

Tiến sĩ Ngô Minh Quang ở nước Úc cũng có lời giải thích chữ “Phước” như sau:

‘Còn chữ phước trong chữ Hán lại phù hợp với Thánh Kinh, chữ nầy được viết theo lối tượng hình, được cấu tạo thành 4 chữ: Thiên, Nhất, Khẩu, Điền (1) Chữ thứ nhất, Thiên là Ông Trời, là Chúa Trời, Đấng có từ trước, là Đấng Thượng Cổ. Danh hiệu ‘Đấng Thượng Cổ’ được ký thuật 3 lần trong Thánh Kinh (Đa-ni-ên 7:9,13 &22) (2) Chữ thứ nhì, Nhất, chỉ một người, (3) Chữ thứ ba, Khẩu, chỉ môi miệng và (4) Chữ thứ tư, Điền là cánh đồng. Như vậy người có phước là người có được Đức Chúa Trời làm chủ đời sống mình, được Ngài trò chuyện, tâm sự với mình và mình với Ngài, được sống an vui trong cảnh địa đàng. Vì nơi nào có Chúa thì nơi đó chính là thiên đàng. Hai câu Thánh Kinh diễn tả chữ phước, được ký thuật trong Thi Thiên 146:5-6 “Phước cho người có Đức Chúa Trời của Gia-cốp giúp đỡ, tức là người đặt hy vọng nơi Chúa Hằng Hữu, Đức Chúa Trời mình. Chúa sáng tạo đất trời cùng với biển và mọi vật trong đó, Ngài giữ lòng thành tín đến đời đời.” (http://phatthanhhyvong.com/node/1232).

 Thực ra chữ thứ nhất bên trái là “Thị” 礻. Đó là chữ viết tắt của chữ –- Đấng  Bày Tỏ, Đấng Khải Thị. Đức Chúa Trời bày tỏ rằng “phước” gồm có hai điều:

-chữ thứ nhất bên phải nghĩa là một, duy nhất, là số đứng đầu các số đếm và chữ thứ hai là khẩu  (khẩu). Một nhân khẩu ngụ ý một thân vị, một người. Chữ thứ ba là   (điền) đám ruộng. Được vẽ thành đường bao quanh 4 mẫu ruộng. Đấng Tạo Hóa mặc khải rằng phước gồm có hai điều là một thân vị (người) và ruộng đất.

Theo lời giải thích trên của Tiến sĩ Ngô Minh Quang thì người có phước là người có cuộc sống an nhàn, có điền sản. Đó là phúc âm sự thịnh vượng mà tuyển dân Israel đã được Chúa hứa với Áp-ra-ham, tổ phụ của họ.

Giở lại sách Sáng Thế kí chúng ta cũng thấy Chúa hứa ban cho Áp-ra-ham hai điều:

1–Một hậu tự-

“Ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi đời đời” vào lúc Ông bà Áp-ra-ham cao tuổi chưa có hậu tự (Sáng. 13:15; 17:8). Dòng dõi hay hậu tự đó là dân Israel.

2–Một miền đất:

“Ngày đó, Đức Giê-hô-va lập giao ước cùng Áp-ram, mà phán rằng: Ta cho dòng dõi ngươi xứ nầy, từ sông Ai-cập cho đến sông lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát” (Sáng 15:18).

Như vậy sự khải thị của Kinh thánh về phước lành Chúa hứa cho Áp-ra-ham phù hợp ý nghĩa của chữ phước trong Hán tự.

Những hai sự việc trên đây chỉ là phúc âm của sự thịnh vượng, không phải “lẽ thật của tin lành” hay thực tế của phúc âm mà Phao lô mong mỏi chúng ta hiểu thấu và kinh nghiệm. Phao lô nói, “hầu cho lẽ thật của Tin Lành cứ ở với anh em— tôi thấy họ không bước đi ngay thẳng theo lẽ thật của Tin Lành” (Ga-la-ti 2:5, 14). Lẽ thật của tin lành, thực tế của phúc âm (reality of the gospel), không phải là giáo lí, lí thuyết hay phó sản mà là chính phẩm của phúc âm, là cái nhân, cái lõi, là thực tại của phúc âm, là Chúa Jesus Christ. Còn phó sản phúc âm là phúc âm sự thịnh vượng, sự cứu rỗi suông, cuộc đời thịnh vượng an nhàn.

–Trong thơ Ga-la-ti 3:16, sứ đồ Phao-lô giải bày rằng hậu tự của Áp-ra-ham là Đấng Christ- “Vả, lời hứa đã phán cho Áp-ra-ham và cho dòng giống người. Không nói: “Cho các dòng giống,” như chỉ về nhiều người; nhưng nói: “Cho dòng giống người,” như chỉ về một người, tức là Đấng Christ”. 

–Trong thơ Cô-lô-se 2:6-7, Phao lô cũng nói rằng miền đất là Đấng Christ, là nơi chúng ta phải định cư, bước đi và hấp thụ chất mầu mỡ trong đất đó, vì người tín đồ được kinh thánh ví sánh là cây cối (Thi thiên 1)..- “Vậy, anh em đã tiếp nhận Christ Jêsus là Chúa thể nào, thì hãy bước đi (cư xử) trong Ngài thể ấy,  châm rễ và gây dựng trong Ngài, vững vền trong đức tin”.

–Còn Ga-la-tỉ: 14 ông nói: “hạnh phước của Áp-ra-ham nhờ Christ Jêsus mà giáng trên dân Ngoại bang, để chúng ta cậy đức tin mà nhận lãnh Đấng đã hứa là Thánh Linh” . Như vậy “phước” gấp đôi mà Chúa hứa cho Áp-ra-ham là Hậu Tự cùng với Miền đất đượm sữa và mật—tất cả  đều ám chỉ Đức Thánh Linh, là Chúa Jesus Christ phục sinh, vì sau khi sống lại Linh Ngài mới có thể ngự trên và ngự vào lòng tín nhân được. Cả hậu tự và miền đất đều ám chỉ Chúa Jesus, và Linh của Ngài. Nên ba điều đó đồng nghĩa, là Phước mà Chúa hứa ban cho Áp-ra-ham, và con cháu thuộc l;inh của ông đến đời đời.

Giải thích theo ý nghĩa duy vật, hiểu theo phúc âm sự thịnh vượng thì chữ “phước” trong Hán tự là sự cầu mong: “Đa lộc đa tài đa phú quý, Đắc thời đắc lợi đắc nhân tâm” — nghĩa là (Nhiều tiền, nhiều tài, nhiều sang trọng,  Được thời, được lợi, được lòng người.) của đa số thế nhân và Cơ Đốc nhân vào mỗi dịp Tết Nguyên đán cổ truyền của dân tộc.

Thơ Ê-phê-sô 2:12-13 nói rằng thế nhân nghèo vì không có Đức Chúa Trời. Còn bạn, là tín nhân, là Cơ Đốc nhân truyền thống, Tết nầy bạn có dẫy đầy tài lộc thế giới hay dẫy đầy Đấng Christ, được đổ đầy Đức Thánh Linh, được Đức Chúa Trời ngự trị trên đời sống mình và gia đình mình? Bạn được phước vật chất hay phước thuộc linh? Nếu có được phước thuộc linh dư tràn như vậy thì gia đình bạn thật sự là có phước trong tân niên 2019 nầy đúng theo ý nghĩa tượng trưng của chữ “PHƯỚC” trong Hán tự.

Minh Khải, Tết Kỷ Hợi—05-02-2019

“Đức Chúa Trời ơi, dù khi con đã già và tóc bạc rồi -Xin Chúa đừng từ bỏ conCho đến khi con rao truyền sức mạnh của Ngài cho thế hệ mai sau,Và quyền năng Ngài cho dòng dõi kế tiếp”.-Thi thiên 71:18

 

MỘT SỐ Ý TƯỞNG VỀ SỰ CẦU NGUYỆN

Cầu nguyện là gì? Rô-ma 8: 15 và Ga-la-ti 4:6 chép, “Vì anh em chẳng nhận lãnh tâm linh của danh phận tôi mọi để lại sợ hãi, bèn là đã nhận lãnh tâm linh của danh phận con cái, và nhơn đó chúng ta kêu: “Aba, Cha!” –Lại vì anh em đã là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Linh của Con Ngài vào lòng chúng ta kêu rằng: “A-ba, Cha!”

So sánh hai câu nầy chúng ta thấy Ai là người kêu: “Aba, Cha!” với Đức Chúa Trời Cha ? Hai thân vị kêu đồng thời là Thánh Linh và tâm linh tín nhân. Nên nói tóm một lời –cầu nguyện là tiếng kêu, tiếng cầu nguyện của tâm linh tín nhân do Linh của Chúa thúc đẩy đến Đức Chúa Trời là Cha.

  1. Cầu Nguyện Là Nói Chuyện Với Chúa.

Xuất Ai-cập kí 33 :11, “Đức Giê-hô-va đối diện phán cùng Môi-se, như một người nói chuyện cùng bạn hữu mình”.

Ông Áp-ra-ham được Chúa gọi là bạn của Ngài 3 lần trong Kinh thánh. Ông là bạn, đối diện với Chúa không sợ hãi, không lo âu, nhưng chân thật cởi mở nói chuyện mặt đối mặt với Ngài. Chúng ta có để mặt trần, không sợ hãi e dè gì để được đối diện nói chuyện với Ngài không ?

  1.  Cầu Nguyện Là Thái Độ Của Tấm Lòng

Ông John Buyan, tác giả quyển Thiên Lộ Lịch Trình có nói; “Trong lời cầu nguyện, thà có một tấm lòng không lời còn hơn có lời mà không có tấm lòng”.

Hai người bạn vẫn còn yêu mến nhau, vẫn có thái độ cởi mở với nhau, thì đôi khi không có thì giờ nói chuyện với nhau, nhưng cả hai đều hiểu thái độ tấm lòng của nhau. Bà An-ne, mẹ Sa-mu-ên, nói về sự cầu nguyện của mình là: “giãi bày lòng tôi (đổ tâm hồn tôi) ra trước mặt Đức Giê-hô-va”. Trong Thi thiên 62, vua Đa-vít khuyên chúng ta khi cầu nguyện : “Hãy dốc đổ sự lòng mình ra tại trước mặt Ngài”.

Rất nhiều lần sau khi cầu xin điều gì đó, Chúa hỏi tôi : “con có thật mong muốn điều mình vừa xin Ta đó không” ? Bạn có thật tâm mở lòng minh ra cầu nguyện với Chúa không, hay cầu nguyện với thái độ lạnh nhạt, hời hợt của tấm lòng? Thái độ của tấm lòng bạn đối với Chúa ra sao hằng ngày? Qua môi miệng tiên tri Giê-rê-mi, Chúa nói dân Ngài có thái độ: “đã xây lưng lại cùng Ta, mà không xây mặt lại với Ta” (2 :27). Bạn có thái độ như vậy đối với Chúa chăng ? Hãy không ngừng mở lòng mình hướng về Chúa. Nếu được như vậy, bạn mới có thể “cầu nguyện không thôi” như sứ đồ Phao-lô khuyên dạy ( 1Tê. 5 :17).

  1. Ưu Tiên Cầu Nguyện Cho Các Nhu Cầu Quan Trọng-

Trong bài cầu nguyện mẫu, Chúa dạy chúng ta ở Ma-thi-ơ 6, Ngài nhấn mạnh chúng ta phải cầu xin ba điều thuộc linh lớn là : Danh Cha được tôn thánh, Nước Cha được đến, ý Cha được nên, trước khi cầu nguyện những nhu cầu về vật chất của bản thân.

Khi cầu nguyện, rất nhiều con dân Chúa mãi miết cầu nguyện cho nhu cầu của bản thân, của gia đình mình dài dòng cách ích kỉ, rồi may ra mới nhớ đến nhu cầu của anh em tín đồ trong hội thánh, hay các công việc đại sự của Chúa. Họ không biết đặt những nan đề hệ trọng của Chúa trước tiên trong sự cầu nguyện.

Phao lô cầu nguyện xin Chúa cứu khỏi chiếc dầm xóc 3 lần, ngoài ra mọi thời gian cầu nguyện đêm ngày của ông chỉ hướng về các anh em thánh đồ và các hội thánh mà ông xây dựng khắp nơi.

  1. Cầu Nguyện Trong Sự Cầu nguyện

Gia cơ 5 :17 chép về tiên tri Ê-li: “Ê li vốn là người có tánh tình như chúng ta, người cầu xin khẩn thiết đừng cho mưa, thì không mưa xuống đất trong ba năm sáu tháng”. Câu: “người cầu xin khẩn thiết”, dịch sát theo nguyên văn Hi lạp là:  He prayed with prayer—người đã cầu nguyện với sự cầu nguyện.

Trong Ê-xê-chi-ên 1 có nói đến bánh xe trong bánh xe trong chuyển động của Đức Chúa Trời trên trái đất. Bánh xe lớn, cao từ đất đến trời, tượng trương các hoạt động của Chúa. Bánh xe nhỏ tượng trưng Linh của Chúa, như động cơ, vận chuyển bên trong bánh xe lớn.

Những lời cầu nguyện công khai của Ê-li như trên núi Cạt mên cho lửa và mưa giáng xuống như bánh xe lớn, còn cuộc đời cầu nguyện ẩn giấu đêm ngày của ông làm tăng cường, thúc đẩy phía sau như bánh xe nhỏ. Nhiều tín nhân cầu nguyện rất hay ho, rất dài, như đọc bài diễn văn với lời lẽ hoa mĩ trước mặt hội chúng khi nhóm họp, nhưng trong cuộc đời tư riêng người ấy lại cầu nguyện rất ít, hoặc cầu nguyện qua loa. Lời cầu nguyện riêng bao giờ cũng phải dài dòng và nhiều hơn lời cầu nguyện công khai một trăm hay một ngàn lần, để hậu thuẫn cho lời cầu nguyện khi hội thánh nhóm lại. Đó là nếp sống cầu nguyện của tiên tri Ê-li trong suốt 3 năm rưởi ẩn mình. Còn bạn thì ra sao? Nếu không như vậy thì sự cầu nguyện của chúng ta trước công chúng chỉ là sự đóng kịch, giả hình—như Chúa Jesus nói về người Pha-ri-si—“làm bộ đọc lời cầu nguyện dài, mà nuốt gia tài của đàn bà góa. Họ sẽ bị đoán phạt nặng hơn” (Lu 20:47).

  1. Cầu Nguyện Với Chính Mình-

Lu-ca 18 :11 chép, “Người Pha-ri-si đứng cầu nguyện thầm như vầy: ‘Lạy Đức Chúa Trời, tôi cảm tạ Ngài, vì tôi không phải như người khác, bức sách, bất nghĩa giam dâm, cũng không phải như người thâu thuế nầy”. Bản Hiệu Đính điều chỉnh lại câu “cầu nguyện thầm” là: “cầu nguyện về mình”. Bản Thánh Kinh Tiêu Chuẩn sửa lại chính xác là: “cầu-nguyện thế này với mình”. Đây là một câu kinh thánh khó hiểu, dùng Anh văn dịch sát theo nguyên văn Hi-lạp là: He prayed to himself.

Cầu nguyện với chính mình là cầu nguyện cùng bản ngã mình, cùng xác thịt của mình. Bản ngã là sa-tan trộn lẫn với sự sống hồn người, là hiện thân của sa-tan, còn xác thịt là Sa-tan hòa trộn với thân thể chúng ta. Có thể nói cầu nguyện với chính mình là nói chuyện với sa-tan.

Cầu nguyện với chính mình và cầu nguyện về mình, chỉ là sự cầu nguyện khoa trương, khoe khoang sự công bình riêng và mở miệng lên án người khác như người Pha-ri-si dùng lời cầu nguyện của mình để tố cáo tội lỗi của người thâu thuế đó. Trong khi hội thánh nhóm lại nhiều con dân Chúa cầu nguyện với mình, là dùng lời cầu nguyện để lên án anh em mình, hoặc tôn vinh anh em mình, dùng lời cầu nguyện để lạc quyên tài chính cho mình, dùng lời cầu nguyện để xin lỗi với ai đó mà mình đã xúc phạm, vì không đủ sức giáp mặt xin lỗi người ấy. Bạn có cách cầu nguyện với chính mình như vậy không, hãy chấm dứt đi.

  1. Cầu Xin Điều Không Biết.

Ma-thi ơ 20 chép, “Bấy giờ mẹ của các con trai Xê-bê-đê cùng các con mình đến cùng Jêsus, lạy mà xin một điều. Ngài hỏi rằng: “ngươi muốn chi?” Thưa rằng: “Xin truyền cho hai con trai tôi đây được ngồi một đứa bên hữu, một đứa bên tả Ngài ở trong nước Ngài.” Nhưng Jêsus đáp rằng: “Các ngươi không hiểu điều mình xin đó”.

Có rất nhiều tín nhân không hiểu biết điều mình cầu xin. Người ăn cướp tin Chúa trên thập tự giá đã cầu nguyện cách dốt nát với Chúa là: “Jêsus ôi, khi Ngài đến trong nước Ngài, xin nhớ tôi với”. Anh xin Chúa cho anh được vào vương quốc của Chúa. Vương quốc của Chúa là nước thiên hi niên ngàn năm trên mặt đất ngay sau khi Chúa tái lâm. Thật không dễ dàng cho một tín nhân thông thường được vào vương quốc nầy. Chỉ thành phần dân đắc thắng mà thôi

Bạn có hiều hết những gì bạn cầu nguyện không?

  1. Cầu Nguyện Theo Tham Dục-

Gia cơ 4:3 cảnh cáo: “Anh em cầu xin mà không nhận được vì anh em cầu xin với dụng ý xấu, để dùng cho dục vọng riêng của mình”.

Tôi dẫn chứng một số trường hợp Kinh thánh chép về dân Chúa cầu nguyện theo dục vọng. Nhưng không như ông Gia cơ nói rằng cầu nguyện theo dục vọng thì không nhận lãnh được. Mấy trường hợp cầu xin với dụng ý xấu đều được Chúa nhậm lời ngay, đem lại hậu quả tai hại như sau:

–         Áp-ra-ham cầu xin cho sự tồn tại của Ích-ma-ên-

Sáng thế kí 17:18, 20, “Áp-ra-ham thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Chớ chi Ích-ma-ên vẫn được sống trước mặt Ngài! …Ta cũng nhậm lời ngươi xin cho Ích-ma-ên. Nầy, Ta ban phước cho người, sẽ làm cho người sanh sản và thêm nhiều quá bội; người sẽ là tổ phụ của mười hai vị công hầu, và ta làm cho người thành một dân lớn”.

Kết quả trải nhiều thời đại, hậu tự Ích-ma-ên, dân Á-rập, là một thử thách rất lớn cho sự tồn vong của dânY-sơ-ra-ên.

–         Dân Y-sơ-ra-ên cầu xin được ăn thịt.

Thi thiên 106:14-15, “Lòng họ đầy tham dục trong đồng hoang, Và họ đã thử Đức Chúa Trời nơi hoang mạc. Ngài ban cho điều họ cầu xin, Nhưng giáng bệnh tật hủy hoại mạng sống họ”.  

Chúa nhậm lời cầu xin nầy ngay, nên Môi-se nói “Vì thế, Đức Giê-hô-va sẽ ban thịt cho anh em và anh em sẽ được ăn thịt. Không phải anh em sẽ ăn thịt một ngày, hai ngày, năm ngày,mười ngày hay là hai mươi ngày đâu,  mà ăn trọn một tháng, cho đến chừng nào thịt tràn ra lỗ mũi và chán ngấy”. Chúa đem đến một bãi sân chim cút khoảng chừng mấy trăm cây số vuông cho họ ăn đến nỗi tràn ra lỗ mũi. “Đức Giê-hô-va khiến một trận gió đùa chim cút từ biển về hướng trại quân và rải chim cút chung quanh trại quân, mỗi bên rộng khoảng một ngày đường và từ mặt đất trở lên dày khoảng một mét.  Dân chúng đứng dậy nhặt chim cút trong ngày đó, đêm đó và cả ngày hôm sau. Ai nhặt ít nhất cũng được mười hô-me. Họ căng ra phơi chim cút chung quanh trại quân.  Trong khi thịt vẫn còn nơi răng, chưa nhai, thì cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi bừng lên với dân chúng và họ bị Ngài trừng phạt bằng một tai họa nặng nề. Nơi nầy được đặt tên là Kíp-rốt Ha-tha-va vì tại đó người ta chôn một đám dân tham ăn” (Dân số kí 11).

Trong sự chán nản cực độ, tiên tri Ê-li xin chết và được Chúa nhậm lời liền. Trong cơn bạo bệnh mà Chúa sắp đặt cho vua Ê-xê-chia về với Ngài. Vua ham sống xin Chúa cho sống thêm. Chúa nhận lời ngay, và trong 15 năm sống thêm sau đó, ông sinh ra Ma-na-se, một vị vua con cai trị 52 năm cách gian ác ghê tởm.

Ôi xin Chúa ngăn trở chúng ta cầu xin theo dục vọng xác thịt của mình như vậy!

-Kết Luận-

Tôi mượn lời thánh ca với chủ đề : “Ý Nghĩa Sự Cầu Nguyện” của tiến sĩ A.B. Simpson, Hội Phước Âm Liên Hiệp sáng tác hồi thế kỉ 19, mà chúng tôi đã dịch ra Việt văn để làm lời kết luận  cho bài nầy:

  1. Cầu nguyện như thức hương khiết thanh trong lòng đây,

Trình lên Cha thánh mỗi khi khóc than, sầu cay;

Chính lúc ấy Linh hà hơi, đốt nóng thay thảy,

Đức tin dâng trình như đôi cánh bay lên Ngài.

  1. Cầu nguyện như thức hương của cây ân huệ đây,

Dường hoa kiên nhẫn, đức tin, yêu thương nào vơi,

Các chén hương dịu ngọt luôn tích lũy như thế,

Để Cha vui nhận hương thơm ở ngai trên trời.

  1. Cầu nguyện như thể hơi nước bay lên làm cho

Trận mưa ơn phước rơi, chảy tuôn nên dòng sông,

Tưới đất khô khan, đượm nhuần khắp chốn đây đó,

Khiến cho sa mạc cằn khô trổ ra hoa hồng.

  1. Cầu nguyện như thể kết nối thiên dân cùng Cha,

Trời cao liên kết với đất, khắp nơi gần xa,

Đến với tâm Cha và ta sẽ rất sung sướng,

Chuyển giao mang nặng, làm tan biến bao lo buồn.

  1. Cầu nguyện như sóng âm chuyển đi bao điện văn,

Nhịp đập của trái tim đến với Cha toàn năng,

Đến với tâm Cha, về lại trái đất nhanh chóng,

Chúng ta vui nhận tình yêu, đức tin sinh động.

  1. Cầu nguyện như ống dẫn để Linh tuôn dầu ra,

Dầu vàng cho lửa thắp sáng chân đèn Nhà Cha,

Khẩn đảo, trông mong, hòa hợp các thánh thay thảy,

Đức Linh dẫy đầy, đèn kia sáng choang đêm ngày.

  1. Cầu nguyện như chính linh năng Đức Chúa Trời đây,

Là quyền năng trổi hơn ở đất hay trời cao,

Chuyển cánh tay Cha hằng chi phối cả muôn giới,

Bánh xe thần thượng thực thi ý Cha đời đời.

  1. Dạy tôi biết khẩn xin! Cảm thúc tôi từ trong!

Hầu quan tâm của Cha ở trong tôi sục sôi,

Khẩn đảo bên trong lòng cho đến lúc hợp nhất,

Christ trong tôi cầu nguyện cùng với Christ trên trời.

  1. Dạy tôi biết khẩn xin, biết ý Cha tường minh!

Hầu mục tiêu của Cha đốt nung trong lòng tôi,

Khẩn đảo bên trong lòng cho đến lúc cảm biết,

Tiếng Cha trong lòng tôi đáp với Cha trên trời.

-Minh Khải- 14-01-2019

 

 

 

 

 

KINH THÁNH ĐÃ LỖI THỜI HAY ĐI TRƯỚC THỜI ĐẠI?

Kinh Thánh không phải là một văn bản khoa học, tuy nhiên nó chứa đựng những tuyên bố về những sự kiện khoa học đi trước thời đại-

1-    Có phải vũ trụ vật lý có sự bắt đầu?

Các nhà khoa học hàng đầu từng cảm thấy câu trả lời mạnh mẽ là không. Nhưng bây giờ họ thường chấp nhận rằng có một khởi đầu cho vũ trụ. Kinh thánh nói cách rõ ràng về sự bắt đầu đó. Sáng thế ký 1: 1“ Ban đầu Đức Chúa Trời đã sáng tạo các từng trời và trái đất đất”.    

    2. Hình dạng của trái đất là gì?

Vào thời cổ đại, nhiều người nghĩ rằng trái đất phẳng. Vào thế kỷ thứ năm TCN các nhà khoa học Hi Lạp cho rằng đó là một quả cầu. Nhưng rất lâu trước đó, vào thế kỷ thứ tám trước Công nguyên, tác giả Kinh thánh, Ê-sai, đã nhắc đến “vòng của trái đất”, sử dụng một từ ngữ cũng có thể được đưa ra hình cầu.  – Ê-sai 40:22 “Ấy là Đấng ngự trên vòng trái đất nầy”.

3. Các từng trời có thể bị mục nát chăng?

Nhà khoa học Hi Lạp Aristotle, ở thế kỷ thứ 4 TCN, đã dạy rằng sự mục nát chỉ xảy ra trên trái đất, trong khi các bầu trời đầy sao không bao giờ có thể thay đổi hoặc phân hủy. Quan điểm đó đã thắng thế trong nhiều thế kỷ. Nhưng vào thế kỷ 19, các nhà khoa học đã hình thành khái niệm entropy. Nó cho thấy rằng tất cả các vật chất, cho dù trên trời hay dưới đất, có xu hướng phân hủy. Một trong những nhà khoa học đã giúp thúc đẩy khái niệm này, huân tước Kelvin, lưu ý rằng Kinh thánh đã nói trước về trời và đất: “Trời đất sẽ bị hư hoại, song Chúa hằng còn; Trời đất sẽ cũ mòn hết như áo xống; Chúa sẽ đổi trời đất như cái áo, và nó bị biến thay” (Thi thiên 102: 25, 26). Kelvin tin, như kinh thánh dạy rằng, Đức Chúa  Trời có thể cho phép sự hư hoại như vậy phá hủy cõi sáng tạo của Ngài. Truyền đạo 1: 4 “Đời nầy qua, đời khác đến; nhưng đất cứ còn luôn luôn”.

4. Điều gì nắm giữ các hành tinh cũng như trái đất của chúng ta?

Aristotle đã dạy rằng tất cả các thiên thể được bọc trong các quả cầu tinh thể, mỗi cái được lồng chặt vào bên trong, bên trong cùng là trái đất. Vào thế kỷ 18  SCN, các nhà khoa học đã chấp nhận ý tưởng rằng các ngôi sao và hành tinh có thể được treo trong một khoảng trống. Nhưng trong sách Gióp, ở thế kỷ 15 TCN., chúng ta đã đọc rằng Đấng Tạo Hóa “treo trái đất trong khoảng không không”  – (Gióp 26: 7).

5.  Dược Phẩm 

Kinh thánh không phải là một văn bản y khoa, nhưng nó có chứa đựng một số nguyên tắc phản ảnh tri thức tiến bộ về việc chăm sóc sức khỏe từ thế kỉ 15 TCN.

Cô lập người bệnh.

Luật Môi-se quy định giữ những người mắc bệnh phong tách biệt với những người khác từ thế kỉ 15 TCN. Mãi cho đến khi những tai họa của thời Trung cổ xảy ra rồi, các bác sĩ y khoa mới học được cách áp dụng nguyên tắc này, điều này vẫn được coi là có hiệu quả. Xem Lê vi kí 13 và 14-

–Rửa sạch sau khi chạm vào một xác chết.

Cho đến cuối thế kỷ 19, các bác sĩ thường làm việc trên các xác chết và sau đó đặt tay trên các bệnh nhân sống mà không cần rửa tay ở khoảng giữa. Thực tế đó đã gây cho nhiều người chết. Tuy nhiên, luật Môi-se tuyên bố rằng bất cứ ai chạm vào xác chết đều bị ô uế về mặt nghi lễ. Nó thậm chí còn hướng dẫn rằng nước được sử dụng để làm sạch theo nghi lễ trong những trường hợp như vậy. Những thực hành tôn giáo đó chắc chắn cũng có lợi ích cho sức khỏe. Dân số kí 19:11, 19.

–Loại bỏ chất thải.

Mỗi năm, hơn nửa triệu trẻ em chết vì bệnh tiêu chảy, phần lớn là do tiếp xúc với chất thải của con người mà không được xử lý đúng cách. Luật Môi-se nói rằng chất thải của con người nên được chôn cất, xử lý tránh xa nơi cư trú của con người. Phục truyền luật lệ ký 23: 12-13 “Ngươi phải có một chỗ riêng ở ngoài trại quân; ấy là nơi ngươi phải đi ra; phải có một cây nọc với đồ tùy thân, khi nào muốn đi ra ngoài, hãy lấy cây nọc nầy mà đào, rồi khi đi, phải lấp phẩn mình lại”.

–Thời điểm cắt bì cho trẻ sơ sinh.

Luật của  Đức Chúa Trời quy định rằng một đứa trẻ nam nên được cắt bao quy đầu vào ngày thứ tám của cuộc đời. (Lê-vi-kí 12: 3) Ở trẻ sơ sinh, khả năng đông máu được hiểu là đạt mức bình thường sau tuần đầu tiên. Trong thời Kinh Thánh, trước khi các phương pháp điều trị y khoa tiến bộ như hiện nay, chờ đợi hơn một tuần trước khi cắt bao quy đầu là một sự bảo vệ khôn ngoan.

–Mối liên hệ giữa sức khỏe cảm xúc và sức khỏe thể chất.

Các nhà nghiên cứu và nhà khoa học y tế nói rằng những cảm xúc tích cực như niềm vui, hi vọng, lòng biết ơn và sự sẵn sàng tha thứ có một số tác dụng có lợi ích cho sức khỏe. Kinh thánh nói: “Lòng vui mừng vốn một phương thuốc hay; Còn trí nao sờn làm xương cốt khô héo”.- ( Châm ngôn 17:22)

Thiên Trình sưu tầm và tạm dịch –19-01-2019

Đức Chúa Trời ơi, dù khi con đã già và tóc bạc rồi -Xin Chúa đừng từ bỏ con

Cho đến khi con rao truyền sức mạnh của Ngài cho thế hệ mai sau,

Và quyền năng Ngài cho dòng dõi kế tiếp.-Thi thiên 71:18

Tx Gò Công-Tiền Giang

http://the-he-moi.blogspot.com/

 

CƠ ĐỐC NHÂN VÀ 4D

Nguồn: huongdionline.com

nhan 4

4D là viết tắt của 4 dimensional, có nghĩa là bốn chiều, trong thuật ngữ Kpop, 4D được dùng để miêu tả những ngôi sao điện ảnh, thể thao, ca nhạc…. sở hữu tính cách độc, lạ, nói cách khác là rất cá tính, khác biệt, lập dị so với những ngôi sao khác.

Những người 4 D là mẫu người có tính cách khác thường và khó hiểu. 4-D là một mô hình không gian, bao gồm ba chiều không gian và một chiều thời gian. Một số nhà khoa học cho rằng, bốn chiều này đi song song với nhau. 3-D thì ai cũng biết cả, nhưng 4-D thì rất ít người biết, ít ai nhắc đến chiều thời gian lắm. Người có tính cách 4-D là người khác người thường. Họ có những thứ hơn cả người bình thường.

Cơ đốc nhân có những thử thách 4 D sau đây, khi vượt qua được thì họ là những con người 4 D. Tuy nhiên họ vẫn là những con người bình thường sẵn lòng để Chúa thực hiện những việc “không bình thường” trong đời sống của họ. Sau đây là những căn bản về 4 D cho Cơ đốc nhân.

nhan

  1. ĐÒI HỎI CỦA CHÚA (mạng lệnh từ Chúa)

Ma-thi-ơ 28:19-20 ghi chép lại Đại Mạng Lệnh của Chúa Giê-su: “Vậy, hãy đi khiến muôn dân trở nên môn đồ Ta, hãy nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh làm báp-têm cho họ và dạy họ giữ mọi điều Ta đã truyền cho các con. Và nầy, Ta luôn ở với các con cho đến tận thế.” Chúa Giê-su ban mạng lệnh này cho các sứ đồ ngay trước khi Ngài thăng thiên, và hai câu Kinh Thánh khắc họa cơ bản điều Chúa mong đợi các sứ đồ và tất cả những người theo Ngài sẽ làm trong khi đợi Ngài trở lại.

Điều thú vị là trong tiếng Hi Lạp gốc, mạng lệnh cụ thể nhất trong Ma-thi-ơ 28:19-20 là “khiến muôn dân trở nên môn đồ ta.” Đại Mạng Lệnh dạy chúng ta môn đệ hóa muôn dân trong khi chúng ta còn ở trên đất và trong cuộc sống hàng ngày của mình. Vậy chúng ta môn đệ hóa như thế nào? Bằng cách báp-tem và dạy dỗ họ điều Chúa đã truyền. “Khiến muôn dân trở nên môn đệ ta” là sứ mệnh chúng ta cần phải thực hiện theo Đại Mạng Lệnh. “Trong khi các ngươi đi”, “báp-têm” và “dạy dỗ” là phương cách chúng ta dùng để làm trọn mạng lệnh môn đệ hóa.

Có nhiều người cũng cho rằng Công Vụ 1:8 là một phần của Đại Mạng Lệnh, “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các con thì các con sẽ nhận lấy quyền năng và làm chứng nhân cho Ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri cho đến cùng trái đất.” Chúng ta thực hiện Đại Mạng Lệnh bởi năng quyền của Đức Thánh Linh. Chúng ta phải trở thành chứng nhân của Đấng Christ, làm trọn vẹn Đại Mạng Lệnh trong thành phố mình sống (Giê-ru-sa-lem), trong đất nước chúng ta sống (Giu-đe và Samari) và bất cứ nơi nào Chúa sai chúng ta đi (đến tận cùng trái đất).

  1. ĐỢI CHỜ (kiên nhẫn chờ đợi thời điểm, sự trả lời của Chúa)

Hỡi linh hồn ta, hãy nghỉ an nơi Đức Chúa Trời, vì niềm hi vọng ta đặt nơi Ngài. – Thi. 62 :5

Cha Sa-soon, một phụ nữ Hàn Quốc 69 tuổi, cuối cùng đã nhận được bằng lái xe sau 3 năm cố thi đỗ phần thi viết. Bà muốn được chở cháu mình đi sở thú chơi.

Bà bền bỉ trong những gì thường chỉ thuộc về đời này. Khi muốn có điều gì và không thể có được, chúng ta hay than phiền và đòi hỏi. Cũng có lúc, chúng ta lại bỏ cuộc và ngưng lại nếu những gì chúng ta muốn có lại không có được một cách nhanh chóng. Chúng ta ghét phải nghe từ “Đợi”. Tuy nhiên, nhiều lần Kinh Thánh lại nói Chúa muốn chúng ta trông đợi đúng thời điểm của Ngài.

Trông đợi Chúa có nghĩa là kiên nhẫn chờ đợi Chúa đáp lời cho những nhu cầu của chúng ta. Đa-vít hiểu vì sao chúng ta phải chờ đợi Đức Chúa Trời. Thứ nhất, sự cứu rỗi đến từ Ngài (Thi. 62:1). Ông biết không ai có thể cứu mình. Hy vọng duy nhất đặt nơi Chúa (c.5), vì chỉ Chúa nghe lời cầu nguyện của chúng ta (c.8).

Lời cầu nguyện của chúng ta thường quanh quẩn trong việc hối thúc Chúa nhanh chóng ban phước cho những việc chúng ta làm. Nếu câu trả lời của Chúa là: “Hãy kiên nhẫn! Chờ đợi Ta!” thì sao nhỉ? Vậy chúng ta có thể cầu nguyện như Đa-vít: “Đức Giê-hô-va ôi! Buổi sáng Ngài nghe tiếng con; buổi sáng con dâng lời khẩn nguyện và đợi chờ” (Thi. 5:3). Chúng ta có thể tin nơi sự đáp lời của Ngài, ngay cả khi sự trả lời đó không đến đúng thời điểm chúng ta mong đợi.

Khi con cầu khẩn danh Ngài

Và chờ lời đáp chẳng sai của Ngài

 Xin cho con vững tâm hoài

 Giúp con cảm ái tình Ngài cho con. —Sper

  1. ĐAU THƯƠNG (chấp nhận đau thương, chịu khổ vì Phúc âm)

Kinh Thánh nói rất nhiều về sự chịu khổ vì Đấng Christ. Trong kỷ nguyên Tân Ước đã được viết ra, những người theo Chúa Giê-su thường bị gia đình và cộng đồng tẩy chay họ. Một số cuộc bách hại tồi tệ nhất đến từ các nhà lãnh đạo tôn giáo (Công-vụ 4:1-3). Chúa Giê-su đã phán với những người theo Ngài, “Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy” (Ma-thi-ơ 5:10). Ngài nhắc nhở các môn đồ của Ngài rằng: “Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét ta trước các ngươi” (Giăng 15:18).

II Ti-mô-thê 3:12 nói, “Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Giê-sus Christ, thì sẽ bị bắt bớ”. Cũng như trong thời Kinh Thánh, nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay đã nhận thấy rằng việc tuyên xưng đức tin nơi Đấng Christ có thể dẫn đến hình phạt tù, đánh đập, tra tấn hoặc chết chóc (Hê-bơ-rơ 11:32-38, 2 Cô-rinh-tô 12:10, Phi-líp 3:8; Công Vụ 5:40). Thường thì những người trong chúng ta ở các quốc gia tự do phải run bắn lên khi nghĩ đến nó, nhưng chúng ta cảm thấy tương đối được an toàn. Chúng ta hiểu rằng có hàng ngàn người chịu khổ hàng ngày vì Đấng Christ và chúng ta biết ơn vì chúng ta không phải chịu như vậy. Nhưng liệu chỉ có một loại bách hại mà thôi?

Chúa Giê-su đã tuyên bố rõ ràng điều đó có ý nghĩa gì để bước đi theo Ngài: “Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta. Vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mất sự sống, thì sẽ cứu. Nếu ai được cả thiên hạ, mà chính mình phải mất hoặc hư đi, thì có ích gì? “(Lu-ca 9:23-25). Sự hiểu biết hiện nay của chúng ta về cụm từ “vác thập tự giá mình mà theo ta” thường không đầy đủ. Trong thời Chúa Giê-su thập tự giá luôn tượng trưng cho cái chết, khi một người đã vác thập tự giá, anh ta đã bị kết án phải bị chết trên nó, để theo Ngài, người ta phải sẵn lòng chết. Không phải tất cả chúng ta sẽ bị giam, đánh đập, hoặc bị tra tấn vì đức tin của chúng ta. Như vậy loại cái chết nào Chúa Jesus đã có ý nói đến?

Phao lô giải thích trong Ga-la-ti 2:20: “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi”. Bước theo Đấng Christ có nghĩa là chúng ta làm chết đi con người củ với những việc làm. Chúng ta để ý chí của chúng ta, các quyền của chúng ta, niềm đam mê của chúng ta và mục tiêu của chúng ta phải bị đóng đinh trên thập tự giá với Ngài. Quyền tự quyết định cuộc đời của chúng ta đã chết trong chúng ta (Phi-líp 3:7-8). Sự chết liên quan đến sự chịu khổ. Xác thịt không muốn chết. Chết bản ngã gây đau đớn và đi ngược với xu hướng tự nhiên của chúng ta để tìm kiếm niềm vui thỏa riêng cho chính mình. Nhưng chúng ta không thể bước theo cả hai — Đấng Christ và xác thịt (Lu-ca 16:13, Ma-thi-ơ 6:24, Rô-ma 8: 8). Chúa Giê-su đã phán: “Ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với nước Đức Chúa Trời.” (Luca 9:62).

Phao-lô phải chịu khổ nhiều hơn hết vì Chúa Giê-su. Ông nói điều này với các Cơ Đốc Nhân tại thành Phi-líp: “Vì nhờ Chúa Cứu Thế anh chị em đã được ban ân sủng không những để tin Ngài mà thôi nhưng cũng chịu khổ vì Ngài nữa.” (Phi-líp 1:29). Từ “ân sủng” ở đây có nghĩa là “bày tỏ lòng khoan dung, ban cho vô điều kiện như một món quà.” Phao lô không phải là chịu khổ như một sự nguyền rủa, nhưng như là một lợi ích.

Chịu khổ có thể có nhiều hình thức. Bằng việc chọn vâng theo Chúa Giê-su Christ, chúng ta đang đặt mình vào cuộc chiến (sự xung đột) với thế gian. Ga-la-ti 1:10 nói, “Còn bây giờ, có phải tôi mong người ta ưng chịu tôi hay là Đức Chúa Trời? Hay là tôi muốn đẹp lòng loài người chăng? Ví bằng tôi còn làm cho đẹp lòng người, thì tôi chẳng phải là tôi tớ của Đấng Christ.” Bằng cách bám chặt vào những lời dạy của Kinh Thánh, chúng ta tự loại bỏ chính mình, sự nhạo báng, cô đơn, hoặc sự phản bội. Thông thường, sự bách hại tàn độc đến từ những người tự coi mình là thuộc linh, nhưng đã xác định Đức Chúa Trời theo ý tưởng của họ. Nếu chúng ta chọn cách đứng về sự công bình và chân lý theo Kinh thánh, hãy tin chắc rằng chúng ta sẽ chịu sự hiểu lầm, chịu sự nhạo báng, hoặc tồi tệ hơn. Chúng ta cần phải ghi nhớ rằng không có mối đe dọa nào của sự chịu khổ đã ngăn cản các sứ đồ không giảng dạy về Đấng Christ. Thật vậy, Phao-lô nói rằng đánh mất đi mọi thứ thật đáng giá “tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài” (Phi-líp 3:10). Công-Vụ Các Sứ Đồ 5:40-41 miêu tả phản ứng của các sứ đồ sau khi họ bị đánh đập vì rao giảng về Chúa Giê-su: “Các sứ đồ từ tòa công luận ra, đều hớn hở về mình đã được kể là xứng đáng chịu nhục vì danh Đức Chúa Giê-su.”

Chịu khổ dưới một hình thức nào đó luôn luôn là một phần của việc trở thành một người chân thật bước theo Đấng Christ. Chúa Giê-su nói rằng con đường dẫn đến sự sống thì hẹp (Ma-thi-ơ 7:14). Sự chịu đựng gian khổ của chúng ta cũng là một cách xác định với sự chịu khổ của Ngài theo một cách thu nhỏ.

Chúa Giê-su đã phán rằng nếu chúng ta chối Ngài trước mặt người ta, Ngài sẽ chối bỏ chúng ta trước mặt Cha của Ngài ở trên trời (Ma-thi-ơ 10:33, Lu-ca 12:9). Có nhiều cách tinh vi để chối bỏ Đấng Christ. Nếu những hành động, lời nói, cách sống của chúng ta, hoặc những lựa chọn giải trí không phản ánh ý muốn của Ngài, chúng ta đang chối bỏ Đấng Christ. Nếu chúng ta tuyên bố nhận biết Ngài nhưng sống như thể chúng ta đã không làm, thì chúng ta đang chối bỏ Đấng Christ (1 Giăng 3:6-10). Nhiều người chọn những hình thức đó để chối bỏ Đấng Christ vì họ không muốn chịu khổ cho Ngài.

Thường thì sự chịu khổ lớn nhất của chúng ta đến từ bên trong khi chúng ta chiến đấu để giữ vững đối với một tấm lòng mà nó phải chết đi bản ngã của mình và đầu phục vào sự chiếm hữu của Đấng Christ (Rôma 7:15-25). Trong bất kỳ hình thức nào sự chịu khổ đến, chúng ta nên ôm lấy nó như là một huy hiệu danh dự và một đặc ân mà chúng ta, giống như các sứ đồ, “đã được kể là xứng đáng chịu nhục vì Danh của Ngài.”

nhan 3

  1. ĐỒNG TIỀN (sự cám dỗ của Ma-môn)

“Vì lòng tham tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác, một số người vì đeo đuổi nó mà lìa bỏ đức tin, tự chuốc lấy nhiều nỗi đau nhức nhối.” (1 Ti-mô-thê 6:10)

Câu Kinh thánh trên thường được trích dẫn hoặc giải thích sai; chúng ta hoàn toàn không đúng khi nói tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác. Chúa vẫn yêu người giàu có nhưng Chúa không vui lòng khi chúng ta có lòng tham tiền. Sa-tan mới thật sự là căn nguyên của mọi điều ác. Phao-lô đã cảnh báo rằng “có kẻ đeo đuổi nó (tiền bạc) mà lìa bỏ đức tin” và sau đó họ “chuốc lấy nhiều nỗi đau nhức nhối” bởi khi đã giàu có rồi, họ phát hiện ra rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc cho họ.

Chúa không chống cự lại người giàu

Chúa Giê-su phán rằng:

“Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào vương quốc Đức Chúa Trời. Các môn đồ nghe điều nầy, thì vô cùng kinh ngạc và nói rằng: “Vậy thì ai có thể được cứu? Đức Chúa Jêsus nhìn họ và phán: “loài người không thể làm được điều nầy, nhưng Đức Chúa Trời làm được mọi sự.” (Ma-thi-ơ 19:24-26).

Chúa Giê-su không nói rằng người giàu không thể vào nước thiên đàng nhưng sẽ khó khăn hơn nhiều vì khi họ giàu sang, họ có tất cả những gì họ cần và không cảm thấy cần đến Chúa nữa. Nghĩa là tiền bạc trở thành chúa của họ, đáp ứng mọi nhu cầu và ham muốn, cho họ cuộc sống tiện nghi, thoải mái nhưng:

“Kẻ ham tiền bạc chẳng bao giờ thỏa mãn về tiền bạc; kẻ ham của cải chẳng bao giờ thỏa mãn về lợi nhuận.” (Truyền đạo 5:10)

Trong Hội Thánh, có rất nhiều người giàu có dâng hiến và hỗ trợ cho công việc Chúa. Họ sử dụng khôn ngoan những lợi nhuận Chúa ban cho và để Chúa làm chủ trên của cải của mình. Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết rằng Áp-ra-ham là một người giàu có và thịnh vượng nhưng ông đã sử dụng tài chính của mình với một tấm lòng rộng rãi.

 

Thái độ và tấm lòng khi dâng hiến

Rất nhiều người được Chúa cảm động và dâng hiến cho Chúa nhiều hơn so với số tiền họ đang có hoặc sử dụng.

Đức Chúa Jêsus ngồi đối diện với thùng lạc hiến, và quan sát dân chúng khi họ bỏ tiền vào thùng. Nhiều người giàu bỏ vào rất nhiều tiền. Cũng có một bà góa nghèo đến, bỏ vào thùng hai đồng tiền nhỏ, trị giá một phần tư xu. Ngài gọi các môn đồ đến và bảo: “Thật, Ta bảo các con, bà góa nghèo nầy đã bỏ tiền vào thùng lạc hiến nhiều hơn tất cả những người khác. Vì những người khác lấy tiền dư bạc thừa mà dâng; còn bà góa nầy, rất nghèo túng nhưng đã dâng hết những gì mình có, là tất cả những gì để nuôi sống mình.” (Mác 12:41-44).

Ai đã dâng nhiều hơn? Người giàu hay người đàn bà góa? Về số tiền thì người giàu có dâng nhiều hơn; nhưng về tấm lòng thì bà góa dâng nhiều hơn. Bà dâng hết số tài sản mình có và có niềm tin rất lớn về sự cung ứng của Chúa cho những nhu cầu của mình. Vì vậy, Chúa không quan trọng bạn dâng cho Chúa bao nhiêu, mà thái độ và tấm lòng bạn dâng hiến thế nào?

?

Admin tổng hợp từ bài giảng của Mục sư Nguyễn Đức Nhân

Nguồn: huongdionline.com

Các tài liệu được trích dẫn từ:

Odb.org

Gotquestions.org

hoithanhhanoi.com

Phương Pháp Hoc Kinh Thánh và Quy Luật Giải Kinh

Cách đây trên 20 năm .

Sau khi giảng Thi Thiên 84 cho một HT thuộc tỉnh Bà rịa- Vũng tàu , trên đường về trên chiếc xe con đời cũ của tôi, người bạn tôi nói “ Tôi nghe các mục sư giảng đoạn KT này 3-4 lần rồi mà khác với anh giảng hôm nay.” Tôi biết ngay là khác chỗ nào rồi. Vì khi nghiên cứu để giảng, tôi đã phát hiện sự không ăn khớp với “ mạch văn” theo “ phương pháp nghiên cúu KT và quy luật giải kinh”. Dầu vậy tôi vẫn hỏi  khác ở chỗ nào

– các MS đó giảng đúng như trong KT “ Nơi cư trú Ngài đáng thương thay!” . – 
– Còn anh thì giảng nơi cư trú Ngài thì tuyệt diệu thay!

Lúc bấy giờ kinh thánh cũ chưa hiệu đính ( Version).

Khi sọan bài giảng này tôi đã phát hiện dịch không đúng và tôi đã nghiên cứu bên KT tiếng Anh ( New International Version: Bản nhuận chánh quốc tế mới) thì “ How lovely is your dwelling place! “

Đây là câu hô thán và từ” lovely” có nghĩa là dễ thương nếu chi định cho người hay sinh vật; nghĩa khác là tuyệt diệu đồng nghĩa với “ wonderful “ nếu nó chỉ định cho đồ vật.

Nhà của Chúa ngự thật là tuyệt diệu vì nó mang lại phước hạnh bằng những ân huệ  (favours) tuyệt vời cho những ai hết tâm linh và thể xác đến đó để cùng với những người có cùng niềm tin mà thờ phượng , tôn vinh và kêu cầu Ngài.

“ Linh hồn tôi mong ước đến nỗi hao mòn về hành lang của Đức Giê hô va.”

Câu này nếu ta viết lại với ngữ pháp và dùng từ chuẩn hơn thì dễ hiểu hơn nhiều:

 “ Linh hồn tôi mong ước về hành lang của Đức Giê hô va đến nỗi mòn mõi”.

Con chim sẻ đã tìm đươc một  nơi ở, và chim én tìm được một ổ để đẻ trứng và ấp con nó ( chim én là loại chim di trú; Chúng nó di trú và sống mùa hè ở 2 cực của trái đát)  gần nơi bàn thờ (không phải tại bàn thờ)

Câu kt này có nghĩa bóng là những tín đồ tại địa phương hay tín đồ ở xa đến sinh sống quanh quẩn nhà Chúa không bỏ qua sự nhóm lại thì  cũng đều có nơi an cư lạc nghiệp  miễn là có lòng “ hướng về đường dẫn đến Si-ôn.”

Cãm tạ Chúa về ân điển cúu chuộc ( grace) và hết lòng tin cậy và thờ phượng Ngài thì chúng ta sẽ hưỡng được những ân huệ (favour) còn gọi là đặc ân của Chúa ban cho. Nơi ở khô hạng như qua trủng khóc lóc, chính niềm tin và đời sống xứng đáng của họ nên chính họ làm cho nơi đó có những suói nước tuôn chảy ra cả thuộc thể lẫn thuộc linh. Những linh hồn khô cằn, qua nhà Chúa tức là hội thánh Ngài, ân điển cúu chuộc được tuôn chảy vào đời sống  họ

không khác nào những mạch nước tuôn ra.

Họ tấn tới trong đức tin, trong sự tương giao với Ngài thì chắc chắn họ sẽ ra mắt Chúa tại Si-ôn trên trời.

Một trong 5 câu của bài thánh ca “Diệu Vinh Thay Bình An” rất tuyệt vời thể hiện một đời sống tươi mát vẫn đâm bông kết trái giửa giòng  đời như sa mac khô hạn. Chính bài hát này an ủi và khích lệ gia đình tôi rất nhiều trong thời gian sống ở thành phố Pleiku gần 20 năm từ năm 1975, HT bị bắt bớ, người chăn bị trục xuất, nhà Chúa bị đóng cửa, sau đó bị dập phá, nhưng gia đình chúng tôi gồm 2 vợ chồng và 6 con nhỏ, đứa lớn nhất là 9 tuổi đứa nhỏ nhất là 1 tuổi. Nhà tôi hướng dẫn chương trình , cả nhà là ban đồng ca tôn vinh Chúa. Tôi chia xẻ lời Chúa . Có họp dâng tiền nhỏ bằng gỗ do 3 đứa con trai đóng , có nắp khoá số do Thầy Minh Hùng cho. Cuối tuần tôi xét thưởng và khích lệ các con dâng 1/10 tiền thưởng. Trong buổi nhóm thờ phượng Chúa có bình hoa tươi nhỏ do các con gái hái bông hoa ngoài vườn trang trí. Cũng dò câu gốc học thuộc lòng. Thiên Ái là đứa bé có trí nhớ tốt nhất nhà. Tôi e sợ rằng KT có thể sẽ không còn nên cho các con “ dấu lời Chúa trong lòng”.

Thật như lời bài hát : “ Dường ruộng phì nhiêu lắm hoa đẹp xinh, cây công bình mọc chồi đâm nhánh, như giòng truòng sinh, tưới hia màu xanh , sa mạc thành phong điền thánh linh.” Haleluja!

Chúng ta cũng nên biết rằng trên đồi Si-ôn cung điện của Vua David được xây dựng trên đó và đền thờ Jerusalem vua Salomon xây dựng trên ngọn đồi Mô-ri-a. Cũng trên đồi này trước đó 400 năm tổ phụ họ đã vâng lời Chúa dâng con một của mình là Y sác. Đồi Mô ri a cách đồi Si-ôn không xa. Cả hai đều nằm trong quận Jerusalem và khi David chiếm được thành Jerusalem và cho xây vách thành chung quanh nên được gọi là Thành David từ đó.

Cho nên 2 từ Si-ôn và Jerusalem đều quyện vào nhau và đều là tượng trưng cho tuyển dân của Chúa.

Sau 70 năm bị lưu đày, Chúa đã dùng Vua Si-ru ( Cyrus ) giải phóng dân sự Chúa theo lời hứa của Ngài. Họ trở về để cây dựng lại Jerusalem.

Tiên tri Xa-cha- ri đã luôn nói đến Jerusalem đi cùng với Si ôn. “ ..Ta vì Jerusalem và Sion động lòng ghen quá lắm” ( Xa-cha-ri 1:14)

“ Đức Giê hô va sẽ còn yên ủi Si-ôn, và kén chọn Jerusalem”. ( Xa-cha-ri 1:17b).

Điệp khúc thánh ca “ Ta Bước Lên Si-ôn”

“ Ta bước lên Si-ôn hè, Tiến lên ngọn núi Si-ôn đẹp đẻ. Ngắm Si-ôn ta hăng hái bước tới. Thủ đô thiêng liêng vinh quang muôn đời.”

Khi thờ phượng Chúa chúng ta nên nhớ cầu nguyện cho cho bậc cầm quyền/vua/ người lảnh đạo “ look on our shield” hãy xem xét cái khiển của chúng tôi. Cũng hãy đoái xem các đấng chịu xức dầu của Chúa. ( your anointed ones)

Nên nhớ “ Vua của chúng tôi (our shield) , nhưng người chịu xức dầu là của Chúa không phải của chúng ta (your anointed ones). Lời Chúa có một sự dạy dỗ cho mọi dân tộc không phân biệt tập quán hay phong tục của nước nào. Không thể lấy lý do nào đó để nói rằng hội thánh chúng tôi đuổi “ người chịu xức dầu của Chúa”. đi chổ khác.

Cuối cùng thì so sánh ở trong hành lang  (court) Chúa tức là ở trong nhà Chúa vì trong nhà Chúa có nơi chí thánh để hòm giao ước, nơi thánh để thầy tế lễ dâng của lễ và hành lang là nơi để con dân Chúa thờ phượng Ngài không phải ở ngoài sân, mặc dù từ “ court “ trong tiếng Anh cũng có nghĩa là cái sân.

Và thà làm người giữ cửa nhà Chúa còn hơn ở nơi nhà của kẻ ác. Có thể là biệt thự của kẻ ác ngày nay.

Xác định sự tin tưởng ( trust in) nơi Chúa là Đấng anh minh dẫn dắt ( Sun: mặt trời) và là Đấng che chở ( Shield ) mọi làn tên mũi đạn của ma quỷ bắn vào. Và Ngãi sẽ chẳng từ chối những ân huệ  (favour) và vinh dự( honor) cho những ai tin cậy nơi Ngài.

 Về phương diện văn học, trước tác Thi-thiên 84 cố  tình dùng điệp từ ( lặp lại một từ 2 lần ) để toát lên ý nghĩa là có sự liên hệ giửa “ đất” và “ Trời” trong cuộc sống đức tin của con dân Chúa.

– Đường dẫn đến Si-ôn ( dưới đất)  và ra mắt Chúa tại Si-ôn ( trên trời)

– Cái “ khiên” của chúng tôi ( vua dưới đất).

Ngài là “ cái khiên”( vua trên trời).

Lời Chúa là thức ăn thiêng liêng duy nhất của linh hồn, không có điều gì khác  có thể thay thế được.

 Vậy nên chúng ta hãy  hết sức nghiên cứu, học hỏi lời Chúa có phương pháp để suy gẫm, nuôi dưỡng linh hồn mình và chia xẻ cho “ cả  bầy mà Đúc Thánh Linh đã lập anh em làm kẻ coi sóc”.

Mục Sư Nguyễn Đức Na

Hội trưởng GH TL LH TC- VN

Lời Đức Chúa Trời không miển trừ cho bất cứ ai và bất cứ trường hợp nào!

“Chớ đụng đến những kẻ chịu xức dầu ta, Đừng làm hại cho các tiên-tri ta.” ( I Sử ký 16:22).

“Do not touch my anointed ones; do my prophets no harm.” (NIV)

Người chịu xức dầu trong cựu ước gồm có Thầy Tế lễ  và Vua.

1/Trường hợp đụng đến người xức dầu là Vua

– Vua Sau lơ thất trận bị thương nặng, ông bảo người vát binh khí của ông hãy lấy gươm  đâm ông cho chết, nhưng người vát binh khí không dám” đụng đến người xức dầu” của Chúa. Ông đã tự sấn mình trên lưỡi gươm để kết liểu đời mình. (I Sa mu ên đoạn 31)

Nhưng Sau-lơ chưa chết và một người thuộc dân A ma lec tình cờ phát hiện sau lơ còn sống, nhưng không còn cử động được nữa.

Sau lơ bảo người này hãy giết giùm để ông chết trước khi quân thù đến. Người trai trẻ này đã lấy gươm và giết Sau lơ vì nghĩ rằng Sau lơ đã bại trận và không thể sống được ( II Sa mu ên đoạn 1).

Kết quà : “huyết ngươi đổ lại trên đầu ngươi vì ngươi đã không sợ mà giơ tay lên giết kẻ xức dầu của Đức Giê Hô Va.”

Cuối cùng một người trai trẻ đã đanh hắn và hắn đã chêt.

2/ Đụng đến người xức dầu là Tiên tri.

( II Sa mu ên đoạn 2)

Sau khi nhận chiếc áo của Tiên tri Ê li  rơi xuống khi Ê li về trời, Tiên tri Ê-li- sê đã dùng chiếc áo này đập xuống  nưỡc sông Giô đanh và nước đã rẻ ra cho ông đi qua..

Sau đó Ê -li -sê đi lên Bê-tên, trên đường đi có nhiều đưa con trai  trêu chọc người:” Ớ lão trọc, hãy lên.” “ Ớ lảo trọc, hãy lên” Ê li sê rủa sả chúng và liền có 2 can gấu cái trong rừng chạy ra và đã cắn xé 42 đứa trẻ đã dám “ đụng đến người được xức dầu của Chúa.

Ngày nay lời Chúa vẫn còn ứng nghiệm;

Tôi biết rõ 2 trường hợp đụng đến người “ được xức dầu của Chúa:

 – Một người tín đồ trao đổi với một người đang chăn bầy ( mục sư) về một vấn đề của hội thánh. Người tín đồ nầy có những lời khiếm nhả, xúc phạm đến tôi tớ Chúa. Ngay ngày hôm sau Chúa đã khiến một con kiến núp tron ly khi ông tín đồ nầy uông ly nước thì con kiến này đã vào miệng và Chúa đã dẫn nó vào phía dưới lưởi và cắn vào phần mềm ở dưới lưởi ; Miệng ông tín đồ nầy đã sưng lên và đau đớn cả tuàn lễ sau đó.

– Một tín đồ bất động với tôi tớ Chúa trong công việc hội thánh. Trong buổi tiêc thánh ông tín đồ này đã lấy mâm tiệc thánh mà hành hung tôi tớ Chúa ( Truyền đạo)

Sau đó không lâu, trong khi ông đi bộ trên vỉa hè đường cấm xe tải. Một chiéc xe tải ở tỉnh khác đến đã chạy ngược chiều với ông và đã leo lên lề và cán ông chết tại chỗ.

Tiếng đồn vang ra khắp thành phố , nhưng chỉ những ai kính sợ Đức Chúa Trời thì mới hiểu đươc nguyên nhân sâu xa và lạ lùng nầy.

Tôi được Chúa cảm động và thúc dục viết lên những lời cảnh tỉnh đối với mọi con dân và tôi tớ Chúa .

“Chớ hề dối mình. Đức Chúa Trời không chịu khinh dễ đâu, ai gieo giống chi thì gặt giống đó” ( Galati 6:7).

Mục sư Nguyễn Đức Na.

VÀO THU

Hầu như ai trong chúng ta cũng thích mùa thu…

Nơi tôi đang ở, tiểu bang Colorado, (gốc từ chữ Colorful, có nghĩa là nhiều màu sắc), mùa thu đang trở về…nhiều màu sắc thay đổi của lá sẽ nhuộm thắm vùng cao nguyên êm đềm này trong những ngày sắp đến…

Mùa Thu Chết là tên một nhạc phẩm nổi tiếng của Nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác năm 1965. Lời được dịch từ bài  L’adieu của Thi sĩ người Pháp Guillaume Apollinaire.

Bài hát nặng chất lãng mạn, buồn rũ rượi, như hai câu sau cũng đủ nói lên nỗi buồn ấy:

…J’ai cueilli ce brin de bruyère

L’automne est mort souviens-t’en…

Thi sĩ Bùi Giáng dịch:

…Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo

Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi…

Mùa Thu Chết nổi tiếng trong thập niên 70 tại Sài Gòn, và gắn liền với tên tuổi ca sĩ Julie Quang, mà giới trẻ Sài Gòn thời đó (có cả tôi), nhất là những đôi tình nhân mới lớn rất yêu thích…Có một nỗi buồn da diết nào đó len nhẹ vào hồn, mỗi khi người ca sĩ trên cất tiếng hát…

Không biết bao nhiêu văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ.. khi nói đến mùa thu là nói đến sự buồn bã, chia lìa, tan tác của một kiếp người…

Nhưng mùa thu không hẳn chỉ nói về sự chia lìa thương đau ấy.. Mùa thu đối với tuyển dân của Chúa (Israel) cũng là mùa của sự phong phú, dồi dào, mùa nho, mận, săn bắn, hái nấm, nghe nhạc lá rừng và ngắm hoa Colchique..

Thu đối với dân Do Thái, không phải lúc nào cũng nói về sự vàng úa của cỏ cây và cảnh xế chiều của đời người, mà là sức sống thanh xuân. Thu cũng là thời kỳ thâu hoạch mùa màng do công sức mình làm ra.

Theo các nhà giải kinh cho biết khi Chúa dùng Giăng để công bố Phúc Âm của Ngài thì ông cũng bắt đầu rao giảng vào mùa thu.

Trong Thánh Kinh Tân Ước, sách Lu-ca 1:33 viết rằng: “Ngài sẽ cai trị dân Y-sơ-ra-ên mãi mãi; nước Ngài tồn tại đời đời.”

“Mãi mãi” và “Đời đời” cũng là ý niệm về thiên thu. Tức là mùa thu của sự sống, do Đức Chúa Trời cai trị tuyển dân của Ngài, trong sự cai trị đó, Thiên Chúa sẽ chúc phước trên dân sự của Ngài, và tấm lòng của những kẻ thờ phượng Chúa, kính sợ Chúa đó, sẽ được tồn tại, được sự sống cứu rỗi đời đời của Ngài ban cho.

Trong Thánh Kinh Cựu Ước, sách Phục-truyền Luật-lệ ký 11:13-14, cũng cho biết lời hứa về sự sung mãn hạnh phúc mà Đức Chúa Trời ban cho những ai vâng giữ luật lệ Ngài:

“Vậy, nếu các ngươi chăm chỉ nghe các điều răn ta truyền cho các ngươi ngày nay, hết lòng, hết ý kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và phục sự Ngài, thì ta sẽ cho mưa mùa thu và mưa mùa xuân xuống thuận thì tại trong xứ các ngươi; ngươi sẽ thâu góp ngũ cốc, rượu, và dầu của ngươi.”

Chữ Autumn (mùa thu), mượn từ tiếng La-tinh Autumnus hay là Auctumnus, do chữ “Augeo, Auxi, Auctum, Augere” có nghĩa là ”Làm lớn lên, tăng lên” (Augmenter). Vì thế, chữ Auctor trong tiếng Đức có là “Tường trình, viết ra, Phóng Viên” (Reporter), Autor thành Auteur – Author “Tác giả.”

Người Đức dùng chữ Herbst có nghĩa là mùa thu hoạch, giống như người Mỹ dùng chữ Harvest (Mùa thu hoạch, mùa hái trái, mùa gặt, mùa kết quả..)

Như vậy trên bình diện tâm linh, mùa thu là mùa sung túc và giàu có của những con người biết trên đời này có một “Ông Trời”, tức là Thiên Chúa, biết có Đấng ấy để mà tôn thờ, hầu sống trong sự KÍNH CHÚA và YÊU NGƯỜI, để thờ lạy Ngài và vâng phục Ngài, hầu Ngài ban cho hạnh phúc và cuộc sống ý nghĩa…trong những ngày ngắn ngủi ở dương gian tạm bợ phù du, sinh lão bệnh tử nầy…

Thu của Chúa ngược lại với mùa thu của con người. Trên những mộ bia, thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp câu: “Ngàn Thu Vĩnh Biệt”.. Nhưng đối với Thiên Chúa, một ngàn năm chỉ là một khoảnh khắc trôi qua rất nhanh. Trong Thánh Kinh, sách Thánh-Vịnh (Thi-Thiên) 90:4 cho biết:

“Vì một ngàn năm trước mắt Chúa Khác nào ngày hôm qua đã qua rồi, giống như một canh của đêm.”

Cho nên Ngài muốn dùng tình yêu đời đời (God loves forever) để ban cho mỗi con người trên thế gian này, vì con người khao khát một tình yêu đích thực, một tình yêu… yêu và được yêu đúng nghĩa, không bao giờ phai tàn, tình yêu trường tồn bất diệt.. để thay thế vào tình yêu chóng tàn, chóng phôi pha… bạc bẽo của của cuộc đời, của thu buồn bã, thu ly biệt…của mùa thu chết…

“Nhưng đức yêu thương Chúa còn mãi mãi, cho những ai biết kính sợ Ngài, và sự công chính của Ngài dành cả cho chắt chít của họ”. (Thánh-Vịnh 103:17)

Ước mong bạn hãy mở lòng ra tiếp nhận tình yêu mà Chúa đã yêu bạn và tôi, một tình yêu rất đẹp đẽ, đầy ý nghĩa, một tình yêu không phai tàn, một tình yêu không là…”Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo, em nhớ cho mùa thu đã chết rồi…”

Nhưng tình yêu mà Chúa đã hứa với chúng ta, khi Ngài yêu tôi và bạn thì “Ngài yêu cho đến cuối cùng”… (God’s love never ends).

Một tình yêu không khi nào chấm dứt…

Rất mong thay!

Denver, Colorado vào thu 20018

Ms Trần Đình Hân

(Vietnamese New Life Fellowship)

HẬU QUẢ VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG KẺ KHINH BỈ NHẠO BÁNG THIÊN CHÚA

HẬU QUẢ VÀ SỐ PHẬN CỦA NHỮNG KẺ KHINH BỈ NHẠO BÁNG THIÊN CHÚA CÔNG CHÍNH VÀ THÁNH KHIẾT 

Xin mời quý độc giả cùng tôi suy gẫm Thánh Kinh – Lời Chúa với tấm lòng khiêm tốn và thái độ kính sợ Chúa trước khi đọc về hậu quả và số phận của những kẻ không biết sợ Trời, không kính sợ Thiên Chúa mà họ đã mở miệng ra khinh bỉ nhạo báng Ngài, giễu cợt đầy tớ Ngài, buông lời xúc phạm đến Danh thánh Ngài.

CHỚ LỪA DỐI MÌNH. THIÊN CHÚA KHÔNG THỂ BỊ NHẠO BÁNG ĐÂU. VÌ AI GIEO ĐIỀU GÌ THÌ SẼ GẶT ĐIỀU ẤY ~ GALATI 6:7 

CHÚA, Ðức Chúa Trời của Isơraen phán, “Vì hễ ai tôn kính Ta, Ta sẽ tôn trọng người ấy, nhưng ai khinh bỉ Ta, kẻ ấy ắt sẽ bị khinh khi.” ~ ISamuên‬ ‭2:30‬.

ĐÁM THIẾU NIÊN GIỄU CỢT ĐẦY TỚ CHÚA 

Êlisa rời khỏi nơi đó đi lên Bêtên. Ðang khi ông đi đường, một đám thiếu niên từ trong thành đi ra; chúng cứ đi theo chọc ghẹo và chế nhạo ông, “Ði lên đi, lão đầu sói! Ði lên đi, lão đầu sói!” Ông quay lại và thấy thái độ của chúng, ông nhân danh Chúa quở trách chúng. Bấy giờ có hai con gấu cái từ trong rừng đi ra và cấu xé bốn mươi hai đứa trong bọn ấy! ~ IIVua 2:23-24.

KẺ CHỐNG CHÚA NHẠO BÁNG SỨ GIẢ NGÀI 

CHÚA, Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ, đã liên tục sai các sứ giả đến cảnh cáo họ, vì Ngài thương xót dân Ngài và nơi Ngài ngự. Nhưng họ nhạo báng các sứ giả của Ðức Chúa Trời, khinh bỉ các lời Ngài, và chế giễu các tiên tri Ngài, cho đến khi cơn thịnh nộ của CHÚA đã nổi phừng lên chống lại dân Ngài, bấy giờ thì đã vô phương cứu chữa. ~ IISử Ký 36:15-16.

KẺ DẠI THIẾU TRÍ THỨC TÌM KIẾM CHÚA 

Kẻ dại nói trong lòng rằng, “Chẳng có Ðức Chúa Trời.” Chúng thảy đều bại hoại, làm những việc gớm ghiếc. Chẳng có ai làm điều lành. Chúa từ trời nhìn xuống con cái loài người, xem có ai là người trí thức, biết tìm kiếm Ðức Chúa Trời chăng. ~ Thi Thiên 14:1-2.

KẺ THÙ NGƯỜI DO THÁI PHỈ BÁNG CHÚA 

Ðức Chúa Trời ôi, Ngài cứ để cho quân thù của chúng con phỉ báng Ngài đến bao lâu nữa? Chẳng lẽ quân thù của chúng con cứ xúc phạm đến danh Ngài đến đời đời sao? Sao Ngài cứ khoanh tay, nhất là cánh tay phải của Ngài, như vậy? Xin Ngài vung tay ra và tiêu diệt chúng đi… Chúa ôi, xin Ngài nhớ lại thể nào quân thù đã phỉ báng Ngài; Quả là một dân điên dại dám xúc phạm đến danh Ngài (Thi Thiên 74:10-11,18).

KẺ NHẠO BÁNG CHÂM BIẾM NGÀY CHÚA QUANG LÂM 

Trước hết, anh chị em phải biết rằng trong những ngày cuối cùng sẽ có những kẻ nhạo báng đến châm biếm. Họ sống buông thả theo dục vọng riêng của họ và nói rằng, “Lời hứa về sự hiện đến của Ngài đâu rồi?” ~ II Phêrơ 3:3-4.

KẺ NHẠO BÁNG CHÚA KHÔNG CÓ THÁNH LINH 

Nhưng anh chị em, những người yêu quý, xin hãy nhớ lại những lời các vị sứ đồ của Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, đã nói trước. Các vị ấy đã nói với anh chị em rằng, “Trong thời kỳ cuối cùng sẽ có những kẻ hay nhạo báng Đức Chúa Trời, sống theo dục vọng xấu xa chống lại Đức Chúa Trời. Chúng là những kẻ gây nên phe đảng, sống theo bản tánh xác thịt, không có Ðức Thánh Linh.” ~ Giuđê 17-19.

NHỮNG KẺ BẮT GIỮ NHẠO BÁNG, TRA TẤN VÀ CHẤT VẤN CHÚA JESUS 

Bấy giờ, những kẻ bắt giữ Chúa chế nhạo và đánh đập Ngài, và bịt mắt Ngài hỏi giễu: “Nói tiên tri đi, đoán thử ai đánh anh đó!” Họ còn dùng nhiều điều khác nhục mạ Ngài. ~ Luca 22:63-65.

Có mấy người bắt đầu nhổ vào Ngài, che mặt Ngài, đấm Ngài và nói với Ngài: “Hãy nói tiên tri đi!” Đám cảnh vệ cũng nắm lấy Ngài, tát Ngài. ~ Mác 14:65.

Bấy giờ các trưởng tế và cả Hội Ðồng tìm chứng dối để vu cáo Ðức Chúa Jesus hầu có thể kết án tử hình Ngài, nhưng họ không tìm được điều nào, mặc dầu có lắm kẻ đứng ra làm chứng dối. Sau cùng có hai kẻ bước ra và nói, “Người nầy đã nói rằng, ‘Ta có thể phá đền thờ của Ðức Chúa Trời và xây lại trong ba ngày.’” Vị trưởng tế đứng dậy và nói với Ngài, “Ngươi không trả lời sao? Những người nầy tố cáo ngươi điều gì thế?” Nhưng Ðức Chúa Jesus vẫn im lặng. Vị trưởng tế nói với Ngài, “Ta buộc ngươi thề trước mặt Ðức Chúa Trời hằng sống, rồi nói cho chúng ta biết: Có phải ngươi là Chúa Cứu Thế, Con Ðức Chúa Trời không?” Ðức Chúa Jesus trả, “Ðúng như ngươi đã nói. Hơn nữa, Ta nói với các ngươi, từ nay trở đi, các ngươi sẽ thấy Con Người ngồi bên phải Ðấng Quyền Năng và sẽ ngự trên mây trời mà đến.” Bấy giờ vị trưởng tế xé toạc áo choàng của ông ra và nói, “Hắn đã phạm thượng! Tại sao chúng ta phải cần người làm chứng nữa? Ðấy, quý vị đã nghe những lời phạm thượng của hắn rồi đó. Quý vị nghĩ sao?” Họ trả lời, “Hắn thật đáng chết.” Chúng nhổ vào mặt Ngài, đánh Ngài, cũng có kẻ vả Ngài. Chúng nói: “Hỡi Chúa Cứu Thế, hãy nói tiên tri xem ai đã đánh ông?” ~ Mathiơ 26:59-67.

Nghe Chúa Jesus nói vậy, một tên thuộc hạ đang đứng bên cạnh vả mặt Ngài mà trách: “Sao anh dám trả lời vị trưởng tế như vậy?” Chúa Jesus đáp: “Nếu Ta sai, hãy chỉ ra Ta sai chỗ nào, còn nếu Ta nói phải, sao ngươi lại đánh Ta?” Rồi Anne sai giải Đức Jesus vẫn còn bị trói, sang trưởng tế Caipha, vị trưởng tế đương nhiệm. ~ Giăng 18:22-24.

JOHN LENNON (Ca sĩ lừng danh đã từng hát, “Tưởng tượng không có Thiên đàng và Hỏa ngục…”)

Nhiều năm trước đây, trong suốt buổi phỏng vấn với một tờ báo của Mỹ, John Lennon đã nói: “Đạo của Chúa Jesus đã đến ngày cuối cùng, nó sẽ biến mất. Tôi chẳng cần phải bàn cãi về vấn đề này, tôi chắc chắn là như vậy!” Chúa Jesus thì tốt nhưng những lời dạy của Chúa thì quá đơn giản, giờ chúng tôi nổi tiếng hơn Ngài nhiều (1966). Sau khi Lennon đã phát biểu như vậy anh đã bị người ta bắn chết với sáu phát súng.

TANCREDO NEVES (Tổng Thống Brazil)

Trong lúc ra ứng cử Tổng thống ông tuyên bố: “Nếu ông có 500 ngân phiếu bầu cử từ phía ủng hộ tôi, thì dù Đức Chúa Trời có muốn xóa bỏ chức tổng thống cũng không được!” Đúng, ông đã được ứng cử tổng thống nhưng ông đã bị bịnh và chết trước khi đăng quang chức Tổng Thống.

CAZUZA (ca sĩ, nhà viết nhạc và nhà thơ)

Trong lúc trình diễn ở Canecio (Rio De Janerio) đang khi anh hút thuốc và nhả khói ra và nói: “Đức Chúa Trời, cái đó là dành cho ông đó.” Và cuối cùng, anh đã qua đời ở tuổi 32 với bệnh ung thư thật là khủng khiếp.

NGƯỜI TẠO DỰNG CHIẾC TÀU TITANIC 

Sau khi xây dựng xong con tàu Titanic, một phỏng viên hỏi ông: “Theo ông, con tàu này với mức độ an toàn là như thế nào?” Với giọng châm biếm ông trả lời: “Nó an toàn đến nỗi Đức Chúa Trời cũng không nhấn chìm nó được.” Và tôi tin là bạn biết điều gì đã xảy đến với con tàu. Nó đã bị chìm và rất nhiều người bị chết.

MARILYN MONROE (Một nữ diễn viên đẹp quyến rũ, lộng lẫy, và nổi tiếng của Hollywood)

Cô đã được Nhà Giảng Tin Mừng lừng danh là Mục sư Tiến sĩ Billy Graham đến thăm khi ông có chương trình truyền giảng tại đó, ông nói: “Thánh Linh Đức Chúa Trời sai tôi đến để giảng cho cô nghe.” Sau khi nghe những lời giảng cô nói: “Tôi không cần Chúa Jesus của ông.” Một tuần sau đó, người ta tìm thấy xác của cô tại chính chung cư của cô.

BON SCOTT (Ca sĩ)

Một bài hát của anh vào năm 1979 anh ca: “Đừng ngăn trở tôi, tôi đang đi suốt con đường – xuống Địa ngục.” Vào ngày 19 tháng 2 năm 1980, Bon Scott đã chết vì ngạt thở bởi chứng bệnh nôn mửa của mình.

NGƯỜI BRAZIL TẠI CAMPINAS (2005)

Tại Campinas, một nhóm người Brazil đang say rượu đến đón bạn của mình. Người mẹ cầm tay cô con gái ra tận xe với cô và bà thật sự vô cùng lo lắng khi thấy đám bạn say xỉn lái xe, khi thấy đám ban say xỉn lái xe, khi con bà đã ngồi vào xe bà nói: “Cầu xin Đức Chúa Trời đi với con và gìn giữ con.” Cô trả lời: “Nếu Chúa muốn đi cùng thì phải ngồi trong cốp xe chứ trong nầy chật hết! Vài tiếng đồng hồ sau đó, tin tức được loan báo là chiếc xe đã bị tai nạn khủng khiếp: “Tất cả mọi người trên xe đều chết hết. Chiếc xe không còn nhận ra được hình dạng vì bị phá hủy nghiêm trọng nhưng một điều vô cùng kinh ngạc đó chính là cốp xe vẫn còn nguyên.” Cảnh sát nói: “Không thể nào một tai nạn thế này mà cốp xe lại còn nguyên như vậy! Và họ ngạc nhiên hơn nữa là trong cốp xe thùng trứng gà không hề bể!”

CHRISTINE HEWITT (Nhà báo)

Cô nói, “Quyển Thánh Kinh là một quyển sách tồi tệ nhất trong các loại sách.” Vào tháng 6 năm 2006 người ta nhận ra là cô đã chết cháy trên chiếc xe gắn máy của mình. Rất nhiều người đã quên Danh của Chúa Jesus là Danh trên hết mọi Danh và rất quyền uy. Mọi người đều chết nhưng Chúa Jesus cũng chết và Ngài đã sống lại từ cõi chết. Hiện Ngài đang sống và đang sống trong lòng của những người kính yêu Ngài.

MỘT TÊN TỬ TỘI KIA 

Hơn 2000 năm qua tại nước Do Thái, có một tên tử tội kia trong lúc bị treo trên cây thập tự phỉ báng và buông lời xúc phạm đến Chúa Jesus rằng, “Ông không phải là Đấng Christ sao? Hãy tự cứu mình và cứu luôn chúng tôi đi!” Nhưng tên cướp kia cùng bị treo bên cạnh quở trách nó, bảo rằng, “Mày đang chịu cùng một hình phạt mà còn không kính sợ Ðức Chúa Trời sao? Mày và tao bị xử thật công minh, bị hình phạt như thế nầy thật đáng lắm, xứng với những việc chúng ta làm. Nhưng người nầy đâu có làm gì sai phạm!” Rồi hắn nói, “Lạy Ðức Chúa Jesus, xin Ngài nhớ đến con khi Ngài vào vương quốc của Ngài.” Chúa đáp: “Thật Ta bảo cho con biết, hôm nay con sẽ ở với Ta trong Parađi – cõi phước hạnh.” Còn hậu quả và số phận đời đời vĩnh cửu của tên tử tội không kính sợ Đức Chúa Trời thì đã đi về đâu? (Xem Mathiơ 10:28; Luca 12:4-5).

Chúa Jesus phán với uy quyền rằng, “Nhưng Ta bảo các người: Vào ngày phán xét mỗi người sẽ phải khai trình mọi lời vô ích mình đã nói ra. Vì do lời nói, các người được tuyên xưng là công chính và cũng do lời nói, các người bị hình phạt” (Mathiơ 12:35-36). Vào ngày đại phán xét của Chúa, mỗi chúng ta là những người đã chết hay đang còn sống trên mặt đất này đều phải khai trình mọi lời nói vô ích, lời nói bừa bãi, lời nói cẩu thả, lời nói nhảm nhí, lời nói tầm phào, lời nói hư không, lời nói khoe khoang, lời nói kiêu ngạo, lời nói độc ác, lời nói dâm dục, lời nói bất khiết, lời nói thô tục, lời nói lộng ngôn hay lời nói phạm thượng trước Tòa án Chung thẩm Tối cao của Nước Đức Chúa Trời. Và Đấng ngồi trên ngai của Tòa án Chung thẩm Tối cao không ai khác mà là Chúa Jesus Christ là Thẩm phán Tối cao!

Chúa Jesus nhắc nhở chúng ta rằng những điều chúng ta nói ra biểu lộ những điều ở trong lòng chúng ta – con người thật của chúng ta. Tâm sao thì lòng vậy! Vì lòng dạ có đầy tràn mới trào ra môi miệng. Miệng nói ra những điều chất chứa trong lòng. Nếu lòng quý vị đầy dẫy Lời Chúa, Chân lý hay Lẽ thật của Chúa thì bạn sẽ sung sướng vui mừng tôn ngợi Chúa, khích lệ nâng đở anh chị em trong Chúa bằng Lời của Ngài, và mỗi lần bạn mở miệng ra nói điều gì đều có lòng và thái độ kính sợ Chúa. Nếu lòng quý vị đầy dẫy những tư tưởng xấu xa, kiêu ngạo hay bất khiết thì bạn sẽ nói ra những lời nói xấu xa, kiêu ngạo, và tục tĩu.

Lời nói ra từ miệng của quý vị anh chị em là lời nói như thế nào? Có đẹp lòng Chúa không? Có quy vinh quang cho Chua và Danh của Ngài không? Tuy nhiên, bạn không thể giải quyết vấn đề tấm lòng mình bằng cách tẩy sạch lời nói của mình. Bạn phải nhờ Chúa, sức toàn năng của Ngài, và để Chúa Thánh Linh đầy dẫy bạn với những thái độ và động cơ mới thì lời nói của bạn sẽ được tẩy sạch từ gốc rễ cội nguồn của nó.

Còn anh chị em và độc giả dấu yêu thì sao? Anh chị em có nhạo báng Thiên Chúa không? Anh chị em có lòng kính sợ Chúa không? Nếu độc giả đã từng nhạo báng Thiên Chúa, sử giả thật của Ngài hay Lời của Ngài. Tôi hết lòng khích lệ bạn phải ăn năn thống hối vỡ tan để nhận sự thương xót của Chúa. Không thôi cuộc đời bạn, lương tâm bạn sẽ thao thức khổ đau đêm ngày không chỉ trong đời này và cả đời tới nữa trong hỏa ngục kinh khiếp mà dành cho ma quỷ.

Hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy hết lòng tin cậy Chúa Jesus với cuộc đời mình để sống, sống đẹp, sống đẹp lòng Chúa, sống làm vinh danh Chúa trên trời trong khi còn trên đất! Để trông đợi Ngày vinh quang phước hạnh khi Chúa đem chúng ta vào Vương quốc của Ngài để ở với Ngài và thiên sứ thánh của Ngài mãi mãi trong cõi vĩnh hằng.

Kính lạy Chúa Jesus, xin Ngài sớm quang lâm!

NHỚ CHIA SẺ VỚI BẠN MÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA

MS Christian Le PhD
Chủ biên/Sáng lập viên
SỨ ĐIỆP CỦA SỰ SỐNG

ĐỘI QUÂN VĨ ĐẠI CỦA NAPOLEON

Đội Quân Vĩ Đại Của Vua Napoleon (Grande Armeé) Lời Chúa Cho Bạn Mỗi Ngày.
Ai là người ưa thích sự sống, và mến ngày lâu dài để hưởng phước lành? Khá giữ lưỡi mình khỏi lời ác. – Thi Thiên 34:12-13

Năm 1993 Lãm có dịp đến Mạc Tư Khoa, Nga và thăm viếng BẢO TÀNG BỨC TRANH “TRẬN CHIẾN BORODINO” Được xây dựng từ năm 1912 để ghi nhớ một trận chiến đẫm máu nhất trong lịch sử Nga. Cuộc chiến giữa Nga dưới sự chỉ huy của nguyên soái Kutuzov và Pháp do Napoleon I dẫn đầu. Đến bảo tàng viện chúng ta sẽ hình dung được khung cảnh trận chiến năm xưa.

Hoàng đế Napoleon là một trong những danh tướng nổi tiếng nhất lịch sử với nhiều chiến thắng oanh liệt. Tuy nhiên, cuộc xâm lược Nga được xem là thất bại đáng nhớ nhất của Napoleon. Người ta cho rằng, những chiếc nút bằng thiếc là một trong những nguyên nhân bại trận.

Vào tháng 6/1812, Hoàng đế Napoleon đã điều khoảng 675.000 binh sĩ nằm trong Đội quân Vĩ đại (Grande Armeé) tới Moscow để chinh phục nước Nga.

Trong cuộc chiến xâm lược nước Nga do Pháp phát động, quân đội của Napoleon liên tiếp gặp nhiều bất lợi.

Nhiều binh sĩ Pháp tử trận trong các cuộc giao chiến đẫm máu với binh sĩ Nga. Không ít binh sĩ trong Đội quân Vĩ đại chết vì đói khát và thời tiết lạnh giá khắc nghiệt của xứ sở bạch dương.

Sau nhiều tháng chiến đấu, quân đội của Hoàng đế Pháp Napoleon không giành được chiến thắng nên buộc phải rút quân với số lượng binh sĩ chỉ còn 100.000 người.

Qua đó có thể thấy, quyết định chinh phục Nga của Hoàng đế Napoleon đã khiến nước Pháp nhận lấy hậu quả nặng nề. Quyết định sai lầm của nhà cầm quân này đã khiến khoảng nửa triệu binh sĩ Pháp bỏ mạng nơi xứ người.

Các nhà nghiên cứu, chuyên gia đã có gắng giải mã nguyên nhân thất bại của Hoàng đế Napoleon tại mặt trận Nga.

Sau một thời gian nghiên cứu, người ta tìm ra một trong những “hung thủ” khiến đoàn quân Napoleon thất bại ở Nga là vì những chiếc nút sử dụng trên áo choàng, quần và áo khoác của binh sĩ Pháp trong Đội quân Vĩ đại.

Những chiếc nút được may cho áo choàng, quần và áo khoác của binh sĩ Pháp làm từ thiếc. Chất liệu này thường không bền trong điều kiện nhiệt độ thấp. Khi ở trong điều kiện thời tiết lạnh giá khắc nghiệt, thiếc sẽ vỡ vụn ra thành bột.

Do những chiếc nút không còn nên quân phục và áo choàng chống lạnh của binh sĩ Pháp không thể giữ ấm cơ thể, thậm chí trở nên vướng víu khi giao chiến với quân địch.

Chính điều này đã góp phần đẩy quân đội của Napoleon đến thất bại cay đắng.

Một chuyện thất bại khác của Napoleon ở Nga vào 200 năm trước đây được cho là do mùa đông khắc nghiệt của Nga. Một vấn đề quan trọng là những ngựa của ông đều mang móng ngựa dành cho mùa hè. Khi mùa đông đến, những con ngựa này chết vì chúng trượt ngã trên các con đường băng tuyết khi kéo những toa xe tiếp tế. Chuỗi tiếp tế của Napoleon không thực hiện được khiến quân đội 675.000 người mạnh mẽ giảm xuống chỉ còn 100000. Một sai lầm nho nhỏ; một hậu quả tai hại!

Một câu chuyện trong Kinh Thánh có nhắc là lời nói… Nó có thể thất bại cay đắng hơn là ngưạ và áo choàng…

Gia-cơ mô tả sự lầm lỡ của môi miệng có thể gây thiệt hại lớn ra sao. Một lời nói sai có thể thay đổi sự nghiệp hay số phận của con người. Cái lưỡi độc hại đến nỗi Gia-cơ đã viết rằng,

“Nhưng cái lưỡi, không ai trị phục được nó; ấy là một vật dữ người ta không thể hãm dẹp được: đầy dẫy những chất độc giết chết” (Gia-cơ 3:8).

Trong thế giới internet tuyệt vời, thì nhiều nan đề càng tăng lên trong thế giới hiện đại của chúng ta. Ngày nay khi một email hay một bài viết bất cẩn trên mạng xã hội có thể gây ra tổn thất lớn lao. Nó lan truyền nhanh chóng và không phải lúc nào cũng có thể rút lại được.

Đa-vít gắn liền sự tôn trọng Đức Chúa Trời với cách chúng ta sử dụng lời nói của mình. Ông viết,

“Ta sẽ dạy các con sự kính sợ Đức Giê-hô-va…. Khá giữ lưỡi mình khỏi lời ác, và môi mình khỏi nói sự dối gạt” (Thi Thiên 34:11, 13).

Ông quyết tâm, “Tôi sẽ giữ các đường lối tôi, để tôi không dùng lưỡi mình mà phạm tội;… Tôi sẽ lấy khớp giữ miệng tôi lại” (Thi Thiên 39:1). Đức Chúa Trời ôi, xin giúp chúng con làm giống như vậy.

Huỳnh Văn Lãm
(Viết theo tài liệu tại Brisbane. Mùa Đông Úc Châu 07/2018)

FATHER’S DAY

happy-fathers-day-11

Ngày Chúa Nhật thứ 3 trong tháng 6 là ngày Lễ Phụ Thân (ngày lễ nhớ công ơn cha) ở các nước trên thế giới. Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam chọn ngày này là ngày “Lễ Phụ Mẫu Thân” để con cháu nhớ ơn bậc sinh thành. Giáo hội nhắc nhở các Quản nhiệm Hội Thánh địa phương giảng dạy lời Chúa theo chủ đề này và khích lệ các con cái trong gia đình thể hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng việc làm như lời dạy dỗ trong King Thánh.

Dựa vào câu Kinh thánh sau đây để tìm hiểu ý nghĩa của ngày FATHER’S DAY.
“Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giê Hô Va Đức Chúa Trời ngươi ban cho”
” Honor your father and your mother, so that you may live long in the land the Lord your God is giving you.”

I/ Sơ Lược Lịch Sữ Ngày  FATHER’S DAY.
(The History of the Father’s Day.)

FATHER’S DAY là tiếng Anh với ý nghĩa là ngày để tỏ lòng biết ơn Cha và vinh danh những người cha còn đang sống. Ta thường dùng từ ” Ngày Phụ Thân” hay ” Ngày Hiền Phụ” bên tiếng Việt..

Trên thế giới ngày FATHER’S DAY thay đổi Thuỳ theo mỗi quốc gia; như ở Hoa kỳ và nhiều nước trên thế giới chọn ngày Chúa nhật thứ 3 trong tháng 6 ( the Third Sunday in June) ; một số nước ở Bắc Âu thì chọn ngày Chúa nhật thứ nhì trong tháng mười một ( The second Sunday of November); Những nước trong  Châu Đại dương thì chọn ngày Chúa nhật đầu tiên trong tháng 9 ( the First Sunday in September); Nước Đức thì chọn ngày này nhằm vào ngày lễ Thăng Thiên thứ Năm ( Ascension Thursday), 40 ngày sau lễ Phục sinh ( 40 days after Easter); Bồ Đào Nha ( Portugal) và Tây Ban Nha ( Spain) thì chọn ngày Thánh Joseph 19 tháng 3 ( St Joseph Day March 19);Thái lan thì chọn ngày này cùng ngày sinh nhật của vua Bhumibol Adulyadej mùng 5 tháng 12 ( the Bỉthday of King Bhumibol Adulyadej December 5).
Ở Hoa kỳ ngày FATHER’S DAY được cử hành lần đầu tiên vào ngày 5 tháng 7 năm 1908 do sáng kiến của Bà Charles Clayton tại thành phố Fairmont, tiểu bang West Virginiar, Hoa kỳ. Nhưng người có công nhất trong việc cổ động cho ngày FATHER’S DAY thi phải kể là Bà Bruce Dodd tại thành phố Spokane, Washington miền Tây Bắc Hoa kỳ , tuy vậy mãi đến năm 1972 Tổng thống Mỹ Richard Nixon, theo đề nghị của Quốc hội,  đã ký sắc lệnh và trở thành luật, ấn định ngày FATHER’S DAY vào ngày Chúa nhật lần thứ 3 trong tháng 6 ( the third Sunday in June) .

II/ Sự Quan Hệ Huyết Thống với Cha và con.

( Cosanquinity / blood relationship Between Father and the Child.)

1/ GEN (ADN)
Bởi sự soi sáng của thần linh Đức Chúa Trời, tôi tớ Ngài, David  đã cãm nhận được sự mầu nhiệm , đáng sợ lạ lùng trong sự tạo dựng nên con người Ông nói riêng và một con người cho nhân loại nói chung. Trong lòng người mẹ Ngài đã tác tạo một cách tinh vi, ngài đã “dệt” nên một tác phẩm tuyệt vời trong sự công bình của Ngài.
” For you created my inmost being; you knit me together in my mother’s womb” ( psalm 139:13)
Ngày nay khoa học đã khám phá sự huyền nhiệm và sự công bình của Ngài trong sự “dệt” thành một con người. 50% Gen ( ADN) của người mẹ và 50% Gen của người cha cấu tạo thành một hình hài con người.
Lời cãm xúc của David nói lên đầy đủ lòng cãm phục Đấng toàn năng trong sáng tạo muôn loài đặc biệt là con người chúng ta.” Con cãm tạ Chúa vì con được dựng nên một cách đáng sợ và lạ lùng.Công việc Chúa thật quá diệu kỳ, Lòng con biết rõ lắm .” ( TT 139:13 )
” I praise you because I am fearfully and wonderfully made; your works are wonderful, I know that full well.”)
Biết được điều này, hy vọng những người con bất hiếu không còn mở miệng nói “từ” cha mẹ mình. Vì cho dù có từ bỏ theo mặt luật pháp thì ” dzen” của cha mẹ mình vẫn đinh chặc trong máu huyết, da thịt và xương tuỷ của mình cho đến khi nhắm mắt xuôi tay trở về với bụi đất. Chỉ phần linh hồn của mình phải đối diện với Đấng Tạo Hoá  ( Creator/ God ) và chịu trách nhiệm về sự sống vỉnh cửu của nó nơi hoả ngục hay miền vinh hiển.
Kinh thánh xác định điều này: ” Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết. Con sẽ không gánh chịu tội ác của cha và cha cũng không gánh chịu tội ác của con” ( Ê xê chi ên 18:20a)
( The soul who sins is the one who will die.The son will not share the guilt of the father, nor will the father share the guilt of the son.( NIV ).

2/ Thiên chức làm cha

  (  Vocation for fatherhood).

Khi tạo dựng nên loài người, Ngài chúc Phước cho họ và phán rằn :” Hãy sinh sản thêm nhiều làm cho đầy dẫy đât.”( STK 1: 28a)

Be fruitful and increase in number, fill the earth and subdue it.”Đây là câu kinh thánh nói lên mệnh lênh của Đức Chúa Trời chỉ định cho loài người sinh sản theo phương pháp giới tính; ngày nay khoa học nhân loại có thể tạo ra một con người theo phương pháp vô tính, nhưng nhớ rằng làm việc này để cho ” đầy dẫy đất” là trái với mạng lịnh của ĐCT. Ngay tức khắc vô vàng sự mầu nhiệm kèm theo trong việc “dệt” nên con người trong lòng người mẹ. Một trong những sự mầu nhiên ấy là thiên chức làm cha. Người nam tự nhận biết ý muốn của Ngài là phải thực hiện mệnh lệnh của Đáng Tạo Hoá về công việc của người nam trong nhiệm vụ cao cả tạo dựng nén một con người. Người Việt nam ý thức được điều này bằng một câu dân gian” Cha sanh, mẹ đẻ”.

Thời còn dạy học ngoại ngữ, tôi muốn sinh viên nhận thức rõ về cách dùng động tự ” to make”, tôi cho dịch câu ” từ ngày cha sinh, mẹ đẻ cho đến nay,…”. Hầu như không có một học sinh nào dịch được cau này , nói chính xác là không dịch được ” cha sinh” còn “mẹ đẻ” thì hầu hết các em dịch được. Cũng là một dịp để tôi giải thích về thiên chức làm  cha cho các em.

3/ Bổn Phận Làm Cha.

( Paternal Responsipility).

Trong quan hệ huyết thống, người cha rất hành diện và sung sướng có được một hình hài mang ” hòn máu” của mình như dân gian thường nói, tôi đã chứng kiến một người ” nhảy cửng” lên khi người đó nhận được thông báo là sắp được lên chức ” cha”, tức là sắp được làm cha. Cũng từ đó người sắp chính thức nhận chức làm cha đã suy tính và chuẩn bị mọi phương án tốt nhất để lo cho người con yêu quý của mình. Nhưng cuộc đời cũng lắm gian truân, người cha phải cày sâu cuốc bẫm, giải nắng dầm mưa. Phải bươn chải trên những nẻo đường gồ ghề với gánh nặng trên vai; cũng có người phải lăn lộn trên thương trường, lo toan tính toán đến ” nát óc” trong những đêm dài không thể chớp mắt được ; có người phải suốt cuộc đời ” bán cháo phổi”, chạy ” sô” năm ba trường, lặng lội ở những trung tâm. Kể cả những người đang ở ngoài chiến tuyến đối diện trước sự chết, cũng không bao giờ quên đến bổn phận làm cha của mình. Đã có nhiều người” sinh nghề tử nghiệp” sớm, cũng chỉ vì con mình.

Thật ” Thiên chức làm cha” thì vinh hiển, cao trọng bao nhiêu thì ” Bổn phận làm cha” cũng nặng nề, gian khổ bấy nhiêu.

Ca dao Việt nam : ” Công cha như núi Thái sơn”

Hoặc : “Còn cha gót đỏ như son, đến khi cha mất gót con như chì.”

” Con không cha như nhà không nóc.”

Tất cả đều nói lên công lao khổ nhọc của người cha trong bổn phận tự ý thức của mình.

Chỉ có những người con thuộc giòng dõi của ma quỷ mới bất hiếu với cha mẹ sinh đẻ ra mình. Không bất cứ dưới nhãn/mác ( label/ mark) nào có thể bào chửa hay che lấp được tội bất hiếu mà được khẳng định bằng bởi lời của ĐCT.

 4/Ủy Thác  chúc phước Của Đức Chúa Trời cho người cha

( God’s entrustment of blessing to father)

Với chức năng làm cha  vinh quang và bổn phận làm cha nặng nề và ĐCT cũng đã ủy thác chúc phước cho người cha.

Trong kinh thánh thể hiện sự ủy thác này rất rõ:

a/ Nô ê đã chúc phước cho các con trai minh:

” Cursed be Canaan! The lowest of slaves will he be to his brothers.”

He also said,” Blessed be the Lord, the God of Shem! May Canaan  be the slave of Shem; May God extend the territory of Japheth; May Japheth live in the tents  of Shem. and may Canaan be his slave.” ( Genesis 9:25/27).

Canaan đã khinh bỉ cha mình nên đáng rủa sả và được chúc phước làm tôi mọi cho anh là Shem và em mình là Japheth.

Nguyện ĐCT phước hạnh là ĐCT của Shem và nguyện ĐCT mở rộng bờ cỏi của Japheth.

b/ Y sác chúc phước cho Ê sau .

” … Rồi dâng lên cho cha ăn, đặng linh hồn cha chúc phước cho con trước khi chết “( STK 27:4b)

( … And bring it to me to eat, so that I may give you my blessing before I die.”)

Sự chúc phước được Chúa ủy thác nó quan trọng và có uy quyền đến nổi nó không được phế bỏ với bất cứ trường hợp nào.

Dù Ê sau có khóc lóc, kêu xin khẩn thiết thì cũng không thể nào thay đổi được .” Trước khi con về, cha đã ăn hết rồi, và đã chúc phước cho nó – và thực sự là nó sẽ được lời chúc phước đó.” (26:33b)

( I ate it just before you came and I blessed him – and indeed he will be blessed. NIV)

c/ Gia cốp chẳng những chúc phước cho các con mà còn chúc phước cho cháu nội mình nữa.

” Gia cốp gọi các con trai mình lại và nói rằng : hãy hội lại đây, cha sẽ nói những đều phải xảy đến cho các con ngày sau.” ( STK 49:1)

( Then Jacob called for his son and said ” Gather round so that I can tell you what will happen to you in days to come.)

 Một lần nữa cho ta thấy sự đặt tay chúc phước cho ai thì người ấy được. Gia-cốp không phải vô ý mà đặt chéo tay lên đầu Manasshe. Cho dù Joseph muốn đổi lại cũng không được vì sự chúc phước này đã được sự ủy nhiệm của ĐCT.

” But his father refused  and said, ” I know, my son, I know he too will become a people, and he too will become great. Nevertheless, his younger brother will be greater then he, and his descendants will become a group of nations.” ( Genesis 48:19).

Xin các người làm con, làm cháu đừng bao giờ coi thường thánh chức của cha mình trong đó có quyền ủy thác chúc phước của ĐCT chí cao.

III/ Tình Phụ Tử .

     ( Paternal Love)

Tình phụ tử mang tính cách huyết thống nên nó thiêng liêng và cao cả. ĐCT thương yêu thế gian đến nổi đã ban con độc sanh của Ngài để làm giá chuộc tội cho nhân loại. Đấng tạo hoá đã lấy tình phụ tử để so sánh tình yêu của Ngài đối với những ai kính sợ Ngài.

” As a father has compassion on his children, so the Lord has compassion on those who fear him” ( Psalm 103:13).

Tình mẫu tử bao la thì tình cha sâu đậm. Mẹ hay Âu yếm thì cha thường nghiêm khắc. Mẹ luôn vổ về thì cha lại nâng niu khi còn bé bỏng. Cha hay cỏng con hay công kênh con  trên vai đi dạo chơi.Mẹ thì lo cho con trước mắt còn thì cha lai lo cho con tương lai.

Cả 2 bổ sung cho nhau để con có được như ngày hôm nay. Đừng bao giờ quên câu ca dao:

” Công cha như núi thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chay ra.”

Hãy dặn lòng trọn đời hiếu thảo với cha mẹ.

IV/ Thực Hành Hiếu Kính.

   ( Practise Honour)

1/ Kính trọng ( respect).

Chẳng những kính trọng mà còn quý trọng ( esteem) nữa. Có quý trọng thì mới ra sức giữ gìn nó.

” một lòng thờ mẹ kính cha, Cho trong chữ hiếu mới là đạo con”, thực sự câu ca dao này là thể văn song hành và có ý nghĩa là một lòng thờ kính mẹ cha, thờ kính mẹ cha thì mới trọn đạo hiếu thảo .

Hình ảnh Sem và Gia phết  lấy áo choàng vắt trên vai mình, đi thụt lui đến đắp khuất thân cho cha; và bởi họ xay mặt qua phía khác, nén chẳng thấy sự trần truồng của cha chút nào.

” But Shem and Japheth took a garment and laid it across their shoulders; then they walked in backwards and covered their father’s nakedness. Their faces were turned  the other way so that they would not see their father nakedness.” ( Genesis 9:23).

Tại sao họ phải đi xà lui? Những người có lòng quý trọng cha mình thì điều này không khó . Thật là tuyệt vời một hành động của 2 người con có chung lòng quý mến cha mình. Họ e rằng khi thấy cha mình loả lồ thì lòng kính trọng bị tổn thương.

Kính trong cha mình không có điều kiện như Chúa yêu thương chúng ta; vậy mới xứng đáng là người con hiếu nghĩa.

2/ Ngợi khen. ( praise )

Con cháu làm vinh hiển ông cha mình cũng là một hình thức tốt lòng hiếu thảo. Kinh thánh cho biết rằng mão triều thiên của ông già ấy là con cháu.

” Children’s children are a crown to the aged.” ( Proverbs 27:6a)

phần thưởng hay quà tặng ( awards or tribute). 

Những dịp sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới, khi đau yếu, những ngày mừng thọ của cha mẹ, là con cháu mà có một món quà tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ, ông bà sẽ làm vơi đi nỗi khổ tâm trong cuộc đời.

3/ Chấp nhận;

Chấp nhận cũng có nghĩa là không so bì với người khác, không trách móc số phận của riêng mình .

Một câu ca dao tuyệt vời có tính cách khuyên nhủ, dạy bảo mà nó còn có tính chê bai rất thâm thuý sâu xa đối với những kẻ than thân trách móc cha mẹ mình.

” Con không chê cha mẹ khó,

Chó không chê chủ nhà nghèo.”

Thật vậy con chó của chủ nhà nghèo bên cạnh hàng xóm giàu; dù có cho nó ăn ngon mấy đi nữa   Thì nó vẫn về ngủ và ở với chủ nhà nghèo của nó.

 4/ Làm tròn lời hứa 

      ( Fulfill  promises)

Chúng ta có hứa nguyện điều gì với cha mình hay mẹ mình thì hãy làm thành ; đó cũng là lòng hiếu kính cha mẹ.

Joseph hứa với cha mình là sẽ đem hài cốt của cha về chôn nơi quê hương Ca-na-an.

” But when I rest with my fathers, carry me out of Egypt and bury me where they are buried.”

“I will do as you say” he said.

” swear to me” he said. Then Joseph swore to him … ( Genesis 47: 39-31)

Và Joseph đã thực hiên lời hứa với cha mình, tổ chức đám tang long trọng và xin Vua cho mình đêm thi hài của cha mình đã được tẩm liệm tại xứ Egypt về chôn tai quê hương. Khi thực hiện lời hứa nhiều khi cũng gian nan, khó khăn, tốn kếm như đám tang của Gia cốp, nhưng với lòng hiếu thảo Joseph vẫn hết lòng thực hiện để hoàn thành lời thề với cha mình.

5/ Phụng dưỡng.

   ( support maintain/ catering/serving)

Người con có lòng hiếu thảo  với cha mẹ thì không lo lắng về tài chính  mặc dù  sẽ ảnh hưởng đến sinh hoạt của gia đình riêng của mình; cũng không nạnh hẹ hay so bì với các anh chị em khác. Người Việt nam chúng ta có môt câu tục ngữ rất là hay về nuôi dưỡng cha mẹ khi về già hay lúc ốm đau. ” Gia bần tri hiếu tử”. Có nghĩa là nhà nghèo mới biết được con hiếu thảo

Joseph cũng phụng dưỡng cha mình trong tuổi già khi ở xứ người:

” Joseph also provided his father and his brothers and all his father’s household with food, according to the number of their children.” ( Genesis 47:12).

Thường thì một người có lòng hiếu kính cha mẹ, thì cũng yêu thương anh chị em mình , không so bì với bổn phận làm con với anh chị em mình.

Trong đời tôi cho đến thời gian nầy, tôi nghe được 2 người nói rằng họ ước ao được dâng 1/10 cho Chúa và 1/10 cho cha mẹ.

Một người là MS Đặng Ngọc Báu nói điều này trong bài giảng của Ông cho Đại Hội Liên Hữu  Tin lành Thế giới và Úc châu  của người Việt  vào  tháng giêng năm 2009 tại Bond University Úc Châu. Ông cũng làm chứng rằng khi Ông quyết định và thực hiện điều nầy thì Chúa cho Ông nhiều hơn khi chưa dâng 1/10 cho cha mẹ.

Sau 1975 đời sống trở nên khó khăn đột xuất. Cha mẹ tôi cũng đã già, một người em dâu trong gia đình đề nghị với tôi (vì lâu nay tôi là người đảm đang công việc chung của đại gia đình) là chia đều cho cho các anh chị em để lo cho cha mẹ. Tôi bảo rằng ý kiến đó cũng tốt, nhưng sẽ không thấy được ” gia bần tri hiếu tử.” Và thực sự lòng tôi không lo sợ phải lo cho cha mẹ và cũng không nạnh hẹ với anh chi em trong nhà, mặc dù có thể nói gia đình tôi là khó khăn đột xuất nặng nề nhất trong thời gian đó. Nhưng tạ ơn Chúa gia đình tôi vẫn tiếp tục cùng với các anh chị em lo cho cha mẹ chúng tôi đầy đủ.

Tiếng anh thường có câu nói về hiếu thảo với cha mẹ :” Serve your father as you would expect your son serve you.” Với ý nghĩa là : Hãy phục vụ cha mình y như mình ước ao con trai mình phục vụ cho mình.

Thật sự theo trải nghiệm của bản thân trong đức tin tôi nhận ra rằng : Nếu sợ phụng dưỡng cha mẹ thì nghèo thiếu vẫn là nghèo thiếu; Còn nếu không sợ phụng dưỡng cha mẹ mặc dù nghèo thiếu thì sẽ  không bao giờ nghèo thiếu.

Có thể diển tả ý đó bằng tiếng Anh như thế này:

If you are afraid of serving your father, the poverty will cling to you, but if you are not afraid of serving your father, the poverty will go away from you.

V/ Lời Cảnh Báo Trong Kinh thánh .( Cautions in Bible).

Cùng tội bất hiếu nhưng kinh thánh chia ra 2 mức độ :

a/ Bị rủa sả:

” Đáng rủa sả thay người nào khinh bỉ cha mẹ mình” ( Phục 27:16).

( cursed is the man who dishonours his mother or his father.”)

b/ Bị Tử Hình.( put to death)

– “Kẻ nào đánh cha hay mẹ mình, phải bị xử tử.”(Xuất 21:15)

(Anyone who attacks his father or his mother must be put to death)

– “Kẻ nào mắng cha hay mẹ mình, sẽ bị xử tử” ( Xuất 21: 17)

( Anyone who curses his father or his mother must be put to death)

– ” Khi người nào chửi cha mắng mẹ mình, thì phải bị xử tử: nó đã chửi rủa cha mẹ; huyết nó sẽ đổ lại trên mình nó.” ( Lêviky 20:9).

( if anyone curses his father or his mother, he must be put to death. He has cursed his father  or his mother, and his blood will be on his own head.)

Hồi còn nhỏ tôi nghe người ta nói ai ăn ở bất hiếu với cha mẹ sẽ bị trời trồng. Tôi hỏi mẹ tôi ” trời trồng” là thế nào?. Bà trả lời là người ăn ở bất hiếu với cha mẹ thì khi chết, mồ chôn người đó sẽ bị sét đánh và quan tài người đó sẽ dựng lên. Đó là trời trồng.

Câu chuyện từ thuở nhỏ tưởng chừng như quên lảng vì cũng đã trên 60 năm rồi. Thật không ngờ cách đây khoản ít năm tôi lại nghe người ta kể rằng ở miền tây nam bộ có một người ăn ở bất hiếu với cha mẹ, quan tài của người đó đã bị sắt đánh dựng đúng dậy đến 2 lần. Người ta sợ không dám cải lệnh trời và không dám chôn lại nữa.

VI/ Kết luận :

” Chớ hề dối mình   Đức Chúa Trời không chịu khinh dễ đâu, hễ ai gieo giống chi thì gặt giống ấy” ( Galati 6:7)

( Do not be deceived; God can not be mocked. A man reaps what he sows)

Một câu chuyện thật xảy ra ở quê tôi: một người con trai một chửi rủa mẹ mình. Không chăm sóc để bà đói khác. Bà phải xuống bờ sông bên sau nhà lấy nước uống và bà đã chết đuối ở mé sông đó. Háng xóm phát hiện và vớt bà lên  chôn cấtt.

Ít lâu sau người con trai ấy đã chết bất đắc kỳ tử giữa đường trong đêm khuya khi đi nhậu về. Khi ngã xuống bàn đạp xe đạp của chính ông cởi đã đâm thấu vào tim ông vì pedal này đã sức hết chỉ còn cái lỏi bên trong và đi lâu ngày nên đã bén nhọn.

Người ta bảo ” Trời trả báo nhản tiền”.

Tôi viết bài này với lòng cảm xúc sâu xa qua lời Chúa và nhớ thương thiết tha thân phụ mình đã về với Chúa. Mong rằng con dân Chúa và tôi tớ Chúa có một đời sống hiếu thảo để được phước hạnh, làm vinh hiển danh Chúa và thế gian biết “các ngươi là môn đồ Ta” theo như Chúa phán.

Mục sư Nguyễn Đức Na.

Hội trưởng Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu- VN

Post Navigation