Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “DƯỠNG LINH”

Ý NGHĨA PHỤC SINH

I/ Những từ ( words) liên quan :

1/ Lễ Phục sinh : Easter.

2/ Sống lại : rise up.

3/ Phục sinh ( sống lại từ kẻ chết) : Resurrection.

II/ Những tín lý cơ bản về Phục sinh.

1/ Đấng Christ phải chịu khổ hình vì nhân loại: “ Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy: Đức Giê-hô-va đã làm cho tội-lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người.” ‭‭( Ê-sai‬ ‭53:6‬ ‭VB1925‬). We all, like sheep, have gone astray,each of us has turned to our own way; and the Lord has laid on him the iniquity of us all. (NIV)

2/ Đấng Christ phải hy sinh trên thập tự giá để chúng ta được bình an và chữa lành. “Nhưng người đã vì tội-lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian-ác chúng ta mà bị thương, bởi sự sửa-phạt người chịu chúng ta được bình-an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh.” ‭‭Ê-sai‬ ‭53:5‬ ‭VB1925‬‬ But he was pierced for our transgressions, he was crushed for our iniquities; the punishment that brought us peace was on him, and by his wounds we are healed.

3/ Đấng Christ phục sinh là trái đầu mùa của những kẻ ngủ

“Nhưng bây giờ, Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, Ngài là trái đầu mùa của những kẻ ngủ.” ‭‭I Cô-rinh-tô‬ ‭15:20‬ ‭VB1925‬‬  But Christ has indeed been raised from the dead, the firstfruits of those who have fallen asleep.  Chính Chúa Jesus phán rằng: “ Ta là sự sống lại và sự sống , ai tin ta thì sẽ sống mặc dù đã chết rồi.” Khi Chúa lại đại quyền đại vinh ngự trên đám mây mà xuống, tức là Chúa tái lâm thì những kẻ thuộc về Chúa đã chết trong mồ mả sống lại trước nhất.

4/ Chúa phục sinh để những người thuộc về Chúa : kẻ được đóng ấn bằng thánh linh là công dân nước trời mà còn sống trên thế giảng này được cất lên không trung mà gặp Ngài,và không phải qua sự chết thứ nhất đã định cho loài người. “Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. Còn ai sống và tin ta thì không hề chết. Ngươi tin điều đó chăng?” ‭‭Giăng‬ ‭11:25-26‬ ‭VB1925‬‬  Jesus said to her, “I am the resurrection and the life. The one who believes in me will live, even though they die;26and whoever lives by believing in me will never die. Do you believe this?” (NIV)

5/ Đấng Christ sống lại để Ngài có thể sống trong chúng ta khi chúng ta bằng lòng đóng đinh bản ngả, xác thịt của chúng ta trên thập tự giá với Ngài. Tôi đã bị đóng đinh vào thập-tự-giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác-thịt, ấy là tôi sống trong đức-tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi. (Ga-là-ti 2:20) I have been crucified with Christ and I no longer live, but Christ lives in me. The life I now live in the body, I live by faith in the Son of God, who loved me and gave himself for me. (NIV)  

6/ Ngài phục sinh để trở về ngôi vinh quan của Ngài hầu cho cầu thay cho chúng ta. “Ai sẽ lên án họ ư? Đức Chúa Jêsus-Christ là Đấng đã chết, và cũng đã sống lại nữa, Ngài đang ngự bên hữu Đức Chúa Trời, cầu-nguyện thế cho chúng ta.” ‭‭Rô-ma‬ ‭8:34‬ ‭VB1925‬‬ Who then is the one who condemns? No one. Christ Jesus who died—more than that, who was raised to life—is at the right hand of God and is also interceding for us. (NIV)

III Kết Luận:

Bắt đầu bằng nhục hình: thân thể rướm máu vì lằn roi, đầu chảy máu vì Mão gái, bị sĩ nhục bằng nhạo báng và nước miếng vào mặt; bại đóng đinh trên cây thập tự và cuối cùng bị giáo đâm ngăn hông huyết và nước chảy ra. Ngài trút linh hồn và được chôn trong mồ mã. Nhưng cuối cùng Ngài đã đắc thắng tử thần và phục sinh Khải hoàn để ban cho chúng ta một đời đóng mới bình an, hạnh phúc ở trần gian và một đời sống hạnh phúc Vĩnh Cửu đời đời ở trên trời.

Mục Sư Nguyễn Đức Na

 

 

 

 

 

LỊCH SỬ BÀI THÁNH CA THẬP TỰ XƯA

Thập Tự Xưa – The Old Rugged Cross là một trong những thánh ca được rất nhiều người yêu thích. Dầu đã hơn 100 năm nhưng bài thánh ca được xức dầu này vẫn sống mãi với thời gian. Và mỗi lần lắng nghe bài thánh ca này được trổi lên lòng tôi không khỏi bồi hồi khi đứng trước tình yêu quá vĩ đại của Cứu Chúa Giê-xu đã dành cho tôi. Trong mùa kỷ niệm Cứu Chúa Phục Sinh xin giới thiệu đến mọi người vài nét về tác giả và lịch sử của bài thánh ca này.

Tác Giả

Tác giả của bài thánh ca Thập Tự Xưa – The Old Rugged Cross là Mục sư George Bennard (1873-1958). Ông là người sáng tác cả nhạc lẫn lời của bài thánh ca này.

Mục sư George Bennard sinh ngày 4/2/1873 tại Youngstown, một thị trấn nhỏ có nhiều mỏ than và sắt tại Ohio. Cha mẹ của Mục sư George Bennard là ông bà George và Margaret Russell Bennard, là dòng dõi của những di dân từ Scotland. Lúc George Bennard còn nhỏ, cha mẹ ông chuyển đến sống tại Albia, Iowa; và sau đó cả gia đình định cư tại Lucas, Iowa.

George Bennard là con trai duy nhất trong một gia đình có năm người con. Cha của George Bennard là một công nhân hầm mỏ. Năm 1889, thân sinh của George Bennard bị tai nạn, qua đời; lúc đó George Bennard được 16 tuổi.

Không bao lâu sau khi cha qua đời, George Bennard tiếp nhận Chúa trong một buổi truyền giảng do Salvation Army tổ chức. George Bennard là người yêu mến Chúa; chàng thanh niên mong ước được làm mục sư, trở thành một nhà truyền giảng; tuy nhiên vì là người đàn ông duy nhất trong gia đình, George Bennard phải gác lại ý định đó, đi làm công nhân hầm mỏ một thời gian để giúp đỡ mẹ và lo cho 4 em gái.

Tám năm trôi qua, năm 1897, George Bennard kinh nghiệm được Chúa biến cải. Khi đó các chị em trong gia đình đã lớn và cuộc sống gia đình tương đối ổn định; ước muốn được hầu việc Chúa trọn thời gian đã thúc đẩy George Bennard tham gia Salvation Army, một tổ chức truyền giáo Tin Lành hoạt động qua công tác thiện nguyện. George Bennard bắt đầu hầu việc Chúa với Salvation Army tại Rock Island, Illinois. Năm 1898, ông được giao trách nhiệm phối trí tổ chức những buổi nhóm bồi linh tại vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Trong thời gian cộng tác với Salvation Army, George Bennard đã gặp và yêu Willaminta.  Sau đó, cả hai thành hôn và tiếp tục hầu việc Chúa với Salvation Army. Một thời gian sau, hai vợ chồng được thuyên chuyển về New York.

Năm 1910, George Bennard quyết định trở thành nhà truyền giảng thực thụ. Ông bà từ chức tại Salvation Army và tham gia hầu việc Chúa với Hội Thánh Tin Lành Giám Lý. Là người yêu mến Chúa và quan tâm đến nếp sống thánh khiết, George Bennard đã được Hội Thánh Giám Lý cử làm mục sư đặc trách cho công tác truyền giảng bồi linh tại vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Ông thường phục vụ cùng với D. Willia Caffray.

Tác Phẩm

Với trách nhiệm của một nhà truyền giảng lưu động, Mục sư George Bennard thường đến giảng tại nhiều hội thánh. Vào đầu thế kỷ 20, những người theo khuynh hướng tự do tìm cách đả phá niềm tin Cơ đốc.  Trước làn sóng tấn công từ bên ngoài, một số tín hữu thiếu hiểu biết Kinh Thánh dao động, Mục sư George Bennard tìm cách giúp các tín hữu hiểu rõ điều mình tin và giữ vững đức tin.

Vào thế kỷ thứ nhất, khi đối diện với những quan điểm sai lầm trong niềm tin Cơ Đốc, Sứ đồ Phao-lô đã viết: “Còn với tôi, tôi chẳng khoe về điều gì ngoài thập tự giá của Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ. Nhờ thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy” Ga-la-ti 6:14. Noi gương Sứ đồ Phao-lô, Mục sư George Bennard đã dành thì giờ suy nghiệm chân lý cứu rỗi qua sự hy sinh của Đức Chúa Giê-xu trên thập tự cho chính mình. Từ kinh nghiệm cá nhân, Mục sư George Bennard chia sẻ niềm tin đó cho những người chưa biết Chúa và khích lệ những người đã tin Chúa.

Trong các bài giảng, Mục sư George Bennard thường trích dẫn câu Kinh Thánh Giăng 3:16 – “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời”. Mục sư George Bennard cho biết mỗi lần suy gẫm câu Kinh Thánh Giăng 3:16, ông lại học được nhiều ý nghĩa sâu sắc hơn – đặc biệt trong những lúc ông phải đối diện với khó khăn. Mục sư George Bennard nói thêm mỗi lần đọc lại câu Kinh Thánh này, tâm trí ông thường hình dung một cây thập tự, không phải cây thập tự bằng vàng hay bạc, nhưng là một cây thập tự cũ kỹ thấm máu của Chiên Con Đức Chúa Trời.

Mùa thu năm 1912, tại Albion, Michigan, trong thời gian suy niệm về thập tự, Mục sư George Bennard được thúc giục sáng tác một thánh ca. Mục sư George Bennard cho biết chỉ trong vài phút, giai điệu của bài hát được hoàn tất. Tuy nhiên, về lời ca ông chỉ viết được vài dòng; trong đó câu “I’ll cherish the old rugged cross” cứ lập đi lập lại nhiều lần. Trong vài tuần kế tiếp, Mục sư George Bennard cố gắng viết và sửa lại phiên khúc đầu tiên của bài thánh ca.

Cuối năm 1912, Mục sư George Bennard được mời đến giảng cho Hội Đồng Bồi Linh tại Sawyer Friends Church ở Sturgeon Bay, Wisconsin, nơi Mục sư Frank McCann quản nhiệm. Hội đồng được tổ chức từ ngày 29/12/1912 đến ngày 12/1/1913.  Tại hội đồng này, Mục sư George Bennard hoàn tất bản thảo đầu tiên của bài thánh ca The Old Rugged Cross. Đêm bế mạc hội đồng, Mục sư George Bennard cùng với Ed E. Mieras hát bài thánh ca này. Đây là lần đầu tiên thánh ca The Old Rugged Cross được giới thiệu cho công chúng. Mục sư George Bennard và Ed E. Mieras vừa hát vừa đệm đàn ghi-ta; người phụ họa đàn phong cầm là Pearl Torstensen Berg. Theo tin tức của báo Door Co. Dem. phát hành ngày 17/1/1913 tại Sturgeon Bay, hội đồng kết thúc gần 12 giờ khuya. Đêm hôm đó có 148 người tin nhận Chúa.

Trong những tháng kế tiếp, Mục sư George Bennard tiếp tục sửa lại lời thánh ca. Cuối tháng 5/1913, Mục sư George Bennard được Mục sư Leroy O. Bostwick mời tham dự chương trình truyền giảng kéo dài hai tuần tại Pokagon, một thị trấn nhỏ thuộc miền tây nam của tiểu bang Michigan.

Trong những ngày tham dự hội đồng, Mục sư George Bennard đã tạm trú tại nhà ông bà Mục sư Leroy O. Bostwick. Như các diễn giả cho hội đồng, Mục sư George Bennard thường dành thì giờ cầu nguyện. Sau một lần tĩnh nguyện, ý tưởng về bài thánh ca lại tuôn tràn. Mục sư George Bennard vội vàng ghi lại cả bốn phiên khúc và điệp khúc của bài thánh ca. Bản hiệu đính của thánh ca The Old Rugged Cross được hoàn tất tại nhà của Mục sư Leroy O. Bostwick.

Ngày 7/6/1913, lời thánh ca hiệu đính của The Old Rugged Cross được trình bày tại First Methodist Episcopal Church ở Pokagon, là hội thánh do Mục sư Leroy O. Bostwick quản nhiệm. Năm người hát thánh ca tại hội đồng là Frank Virgil, Oliver Mars, Clara Virgil, William Thaldorf và Florence Jonen. Trong lần công diễn này, Mục sư George Bennard mời hội chúng ghi lại lời thánh ca và sau đó cùng hát với những người hướng dẫn. Bài thánh ca The Old Rugged Cross được những người tham dự hội đồng hoan nghênh. Vợ của Mục sư Leroy O. Bostwick đã xin phép cho bà được vinh dự góp phần trả tiền làm bản kẽm để in thánh ca.


PokagonUMC_1913 – Nhà thờ của Hội Thánh Tin Lành Giám Lý Pokagon, Michigan
(Photo credit: http://www.the-oldruggedcross.org)

Mặc dầu được nhiều người hoan nghênh, Mục sư George Bennard vẫn không thỏa lòng với lời thánh ca mà ông đã viết. Sau hội đồng tại Pokagon, Mục sư George Bennard tiếp tục đến truyền giảng tại một số hội thánh thuộc tiểu bang New York. Tạ ơn Chúa! Các chương trình truyền giảng này có nhiều người tiếp nhận Chúa. Mục sư George Bennard chứng kiến nhiều tấm lòng tan vỡ khi cảm nhận được tình yêu thể hiện qua sự hy sinh của Đức Chúa Giê-xu trên thập tự.

Trở về lại Albion, Michigan, vẫn còn xúc động với những kinh nghiệm phước hạnh từ những hội đồng tại New York, một lần nữa Mục sư George Bennard viết lại phiên khúc của bài thánh ca. Những lời hát mà ông đã trăn trở mấy tháng nay sửa vẫn chưa xong, giờ đây tuôn chảy thật dễ dàng. Mục sư George Bennard cho biết ông viết lại lời thánh ca thật nhanh và chỉ sửa có một chữ. Mục sư George Bennard đã hoàn tất lời thánh ca The Old Rugged Cross như chúng ta có ngày hôm nay.

Sau khi viết xong cả nhạc và lời, Mục sư George Bennard gởi bài thánh ca đến cho Charles H. Gabriel, một nhà biên soạn thánh ca nổi tiếng tại Chicago, để nhờ Charles H. Gabriel soạn hòa âm. Charles H. Gabriel viết hòa âm cho The Old Rugged Cross rồi gởi bản nhạc lại cho Mục sư George Bennard với dòng chữ “You will hear from this song” (Tạm dịch: Ngài sẽ nghe bài hát này”.

Từ trong bóng đêm nghèo nàn, thống khổ, George Bennard đã hát về năng quyền của thập tự, và càng ngày bài hát của ông càng được nhiều người biết đến.

Mặc dầu The Old Rugged Cross được nhiều người yêu thích, trong vài năm đầu thánh ca chỉ phổ biến giới hạn tại một số hội thánh thuộc vùng Trung Tây Hoa Kỳ. Bài thánh ca được phổ biến rộng rãi sau kỳ hội đồng tại Chicago Evangelistic Institute. Đại biểu từ nhiều tiểu bang đến tham dự hội đồng tại Chicago Evangelistic Institute sau khi nghe bài thánh ca đã giới thiệu The Old Rugged Cross đến các hội thánh ở xa. Một thời gian sau, Homer Rodeheaver, người đặc trách âm nhạc cho nhà truyền giảng Billy Sunday, đã mua lại quyền phát hành bài thánh ca The Old Rugged Cross với giá $500. Qua hệ thống phát thanh của nhà truyền giảng Billy Sunday, thánh ca The Old Rugged Cross được lan ra.

Sau khi sáng tác The Old Rugged Cross, Mục sư George Bennard tiếp tục hầu việc Chúa thêm 45 năm nữa với Hội Thánh Tin Lành Giám Lý. Trong thời gian này, ông đã sáng tác hơn 350 bài thánh ca nhưng không thánh ca nào để lại ảnh hưởng sâu đậm như The Old Rugged Cross, là thánh ca mà Mục sư George Bennard nói ông chỉ ghi lại những gì Chúa muốn ông viết.

Mục sư George Bennard về với Chúa vào ngày 10/10/1958 tại Reed City, Michigan. Thi hài ông được an táng tại nghĩa trang Inglewood Park Cemetery, Inglewood, California. Sau khi Mục sư George Bennard về với Chúa, những địa phương nơi ông đã sinh sống hay hầu việc Chúa như Albion, Pokagon, và Reed City, đã thành lập những bảo tàng để lưu giữ những tài liệu liên hệ đến Mục sư George Bennard và nguồn gốc của bài thánh ca The Old Rugged Cross.

Một cây thập tự bằng gỗ cao 3,6m đã được dựng lên bên vệ đường gần thành phố Reed Michigan, để vinh danh nhà biên soạn. Trên cây thập tự ấy có ghi dòng chữ “Thập Tự Xưa”. Đó là một dấu hiệu nhắc nhở khách qua lại rằng: “Nơi đây là nhà của mục sư Geprge Bennard, tác giả bài thánh ca Thập Tự Xưa”.

Năm 1959, khi biết tin quê hương của Mục sư George Bennard dự định thành lập bảo tàng tưởng niệm, Tổng Thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower đã viết: “Dự án thành lập nơi tưởng niệm Mục sư George Bennard, tác giả của thánh ca The Old Rugged Cross, và là công dân của quý thị trấn là điều rất tốt. Bài thánh ca này mang số 296 trong Thánh Ca của Lục Quân và Hải Quân. Tôi biết bài thánh ca đã được hát, rất được yêu thích và đã làm mạnh mẽ đức tin của nhiều người”. Mục sư Normal Vincent Peale, một nhà văn và là nhà tư tưởng có nhiều ảnh hưởng, cho biết: “Thánh ca The Old Rugged Cross của Mục sư George Bennard là một trong những thánh ca tuyệt vời nhất đã để lại những ảnh hưởng sâu đậm trên đời sống tâm linh của tôi”. Mục sư Tiến sĩ Billy Graham nhận định về Mục sư George Bennard như sau: “Chỉ có cõi đời đời mới tiết lộ đầy đủ cống hiến vĩ đại mà Mục sư George Bennard đã làm cho vương quốc của Đức Chúa Trời qua việc cống hiến những tài năng của ông, và đặc biệt qua bài thánh ca The Old Rugged Cross”.

Những bài hát do Phao-lô và Si-la hát giữa đêm khuya đã gây nên cơn chấn động trong nhà giam tại thành Phi-líp. Bài hát mà George Bennard hát từ tâm linh giữa đêm tối của ông đã gây nên một cơn chấn động thuộc linh trong vô số tấm lòng và đem nhiều người đến nơi chân thập tự giá Cứu Chúa đã chịu treo trên đó mà ông đã hát về cách hùng hồn.

nguồn Hoithanh.com

 

NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN

Hãy suy gẫm ảnh hưởng của người được chọn( the elect ) Theo kinh thánh Sách Ma Thi ơi đoạn 24 câu 22:

“ If those days had not been cut short, no one would survive, but for the sake of the elect those days will be shortened” ( NIV)

( Nếu những ngày đó không được giảm bớt, thì không ai có thể sống sót, nhưng vì hạng người Được Chọn những ngày đó sẽ được giảm bớt..)

Đây là tình huống Chúa Jesus trả lời cho các môn đệ của Ngài là ngày Chúa tái lâm thì có những ngày hoạn nạn như chiến tranh, động đát , sóng thần , dịch lệ xảy ra kinh khiếp.

Nhưng vì những người được chọn, tức là những người được chọn làm công dân thiên quốc, nhưng còn sống trên Trần gian này; tượng tự như một tổng thống đắc cử sau bầu cử những chưa nhậm chức, những ngày hoạn nạn đó sẽ được rút ngắn lại.!

Hạng người được chọn đó làm gì và ảnh hưởng như thế nào mà những ngày kinh khiếp ấy được giảm bớt?

Việc quan trọng nhất mà hạng người được chọn đó phải làm là Cầu Nguyện:

Cầu nguyện cho chính mình để không rơi vào tình trạng hoản sợ, mất tự chủ mà tâm lý học gọi là “ hành động vô thức “ bị cuốn hút vào một hành động nào đó theo một tập thể có thể là trong một sân vận động, trong một thành phố, một tỉnh thậm chí cả một quốc gia.

Cụ thể là cả một thành phố mọi người đua nhau mua sạch giấy vệ sinh! Như ở Mỹ và ở Úc tình trạng này sẽ gây rối loạn xã hội vì khan hiếm giả tạo! Kéo theo nhiều hệ lụy khác nữa.

Ở cấp quốc gia cũng có hiện tượng nầy. Thủ tướng Ấn độ đã xin lỗi dân chúng vì đã có những biện pháp khống chế dịch quá khắc khe theo phong trào , và đã tỉnh táo điều chỉnh lại hợp lý hơn. Tổn thống Mỹ Donald Trump đã tỉnh táo tuỳ theo tình hình dịch bệnh mà khoanh vùng và có biện pháp thích hợp chứ không hành động “ vô thức” theo phong trào trên thế giới .

Đó là lý do chúng ta phải thiết tha cầu nguyện Chúa cho thêm sự khôn ngoan cho các nhà lảnh đạo cấp quốc gia trên toàn thế giới để họ vừa chống dịch hiệu quả mà cũng ngăn ngừa suy thoái kinh tế quốc gia rồi kéo theo suy thoái kinh tế toàn cầu.

Có niềm tin vào Đấng Toàn năng/ the Almighty God / The Omnipotent chúng ta mới đủ bình tỉnh để cầu nguyện cho chính chúng ta và cho quốc gia chúng ta rồi cho toàn thế giới vì dịch Coronavirus này được công bố là đại dịch toàn cầu.

Hãy hiệp với gia đình mình, hội thánh mình để cùng nhau cầu nguyện cho quốc gia mình và tất cả các quốc gia, vùng lảnh thổ trên toàn thế giới.

Với tư cách lảnh đạo Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu-Việt nam , tôi kêu gọi tất cả các hội thánh thuộc Giáo hội hãy hiệp ý và tăng giờ cầu nguyện để các ngày ấy được giảm bớt và chóng qua đi vì chúng ta là một trong những “ Hạng Người Được Chon!

MS Nguyễn Đức Na

CỬA ĐÃ ĐÓNG

CỬA ĐÃ ĐÓNG

Hôm nay cả nước chính thức đóng cửa tất cả mọi hoạt động kinh doanh, buôn bán, sinh hoạt, CLB, nhà thờ, hội họp…. 1 con virus làm cả thể giới phải chậm lại, cũng phải thôi. Vì thế giới loài người đã xoay chuyển quá nhanh. Người ta vội ăn, vội nói, vội đi, vội sống, vội yêu, vội bỏ, vội suy nghĩ, vội phán đoán…. mọi thứ đều rất vội.

Vội đến nỗi đi nhà thờ cũng đi thật trễ, lật đật về thật sớm, hôm nay sao MS giảng dài thế??? Mất cái hẹn của tôi với đối tác, bạn bè. Vội đến nỗi cầu nguyện cũng chỉ qua quýt chiếu lệ, mặc kệ Chúa đang mong nghe. Vội đến chẳng đủ thời gian để học thuộc lòng 1 câu Kinh Thánh, cũng chẳng bao giờ quan tâm, hỏi han, chăm sóc, yêu thương một ai. Vội đến chẳng 1 cuộc gọi điện cho Bố mẹ, gia đình. Vội đến nỗi không ai đủ thì giờ để nhìn lại chính mình, hôn nhân của mình, gia đình của mình đã và đang thế nào? Vội đến chẳng ai chào nhau được 1 câu tử tế, vội đến quên cả cốt nhục, tình thâm. Vội đến bỏ quên những cuộc đời xung quanh mình, vội đến chẳng khi nào có 1 bữa cơm gia đình ấm áp… Vội đến không thể đợi thêm 1 vài giây đèn đỏ, hoặc chờ cho đến khi rào chắn tàu hoả mở ra rồi hãy đi…. VỘI ĐẾN NỖI CHUYỆN ĐÔNG TÂY KIM CỔ TRÊN FACEBOOK ĐỀU BIẾT CẢ.

Bây giờ thì…. không vội được nữa. Bây giờ thì Thiên Chúa muốn nhân loại đóng cửa lại để tra xét đời sống của mình, nhìn vào chính mình 1 cách cẩn thận và nghiêm túc có thể nói là việc làm khôn ngoan nhất. Đóng cửa là để cầu nguyện, để tra xét, để nhìn nhận chân thật cuộc sống đã qua của mình, là để có thái độ đúng đắn với bản thân, và cuộc sống để biết trân quý những giá trị cốt lõi mà Chúa đã tạo nên và đặt bên cạnh cuộc đời chúng ta, và biết cách chọn lọc các mối quan hệ. Hơn lúc nào hết, lúc này người ta mới thấy trân trọng cuộc sống, tran trọng gia đình, trân trọng bạn bè bằng hữu và những người yêu thương, trân trọng những thứ, những con người mà trước đây vốn vì vội quá chúng ta chẳng màng để ý tới. Đóng cửa đễ đủ thời gian xem lại cuốn phim quay chậm cuộc đời của mình trong suốt ngần ấy năm… Ta sẽ thấy tường tận những nông nỗi, nóng giận, cuồng nộ, ích kỹ, những vấp váp ta đã từng, để ăn năn, sửa đổi và để ta sẵn sàng mạnh mẽ đứng thẳng, ngẫng cao đầu khi cánh cửa mở trở lại. Đóng cửa hết để mọi trật tự phải được khởi lập, và mọi người phải học cách sống chậm lại.

Thiên Chúa – Đức Chúa Trời – Thượng Đế – Ông Trời… Ngài vẫn muôn đời y nguyên như cách Ngài hiện hữu, Ngài vẫn đang cầm nắm mọi thứ trong tay Ngài dù cho thế giới vần xoay. Thánh Kinh dạy rằng “Trong ngày thịnh vượng, hãy vui hưởng, Trong ngày tai họa, hãy suy ngẫm; Vì Đức Chúa Trời cho cả hai ngày ấy xảy ra Để loài người không thể khám phá điều gì sẽ xảy đến trong tương lai. Sách TRUYỀN ĐẠO 7:14 TTHD Rồi đến lúc Ngài sẽ cho phép mở cửa trở lại, và đằng sau một cánh cửa đóng lại là 1 cánh cửa khác lớn hơn sẽ được mở ra. Đừng lo sợ, cũng đừng rúng động, vì CỬA SẼ ĐƯỢC MỞ, nhưng mở theo cách của Chúa.

MS Thái Huy Cần.

ĐẤNG CỨU THẾ GIÁNG TRẦN

ĐẤNG CỨU THẾ GIÁNG TRẦN

(The Saviour Descending On Earth)

Chúng ta đang bước vào mùa Giáng sinh, mọi người trên khắp thế giới đang chìm trong một không khí tưng bừng, nhộn nhịp. Cây Nô- ên cao nhất thế giới với chiều cao 278 feet đã được dựng lên tại Rio de Raneiro thủ đô của Brazil rất sớm từ Oct 15, 2019. Đi đâu ta cũng thấy Christmas tree trong giáo đường, trước cổng, trước sân các nhà nguyện, các nhà hàng hay khách sạn… Tuy vậy chúng ta hãy để một ít thì giờ suy gẫm về ý nghĩa , nguyên nhân và phương cách Đấng Cúu Thế Giáng Trần.

1/ Nguồn gốc của Đấng Cứu Thế:

“ Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. 2 Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. 3 Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.” (Giăng 1:1-3)  “

1 In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God. 2 He was with God in the beginning. 3 Through him all things were made; without him nothing was made that has been made.” ( NIV) Đấng Cứu thế khi chưa giáng trần thì Ngài ở dạng lời nói (Word). Ngài là Đức Chúa Trời , Ngài ở cùng Đức Chúa Trời, Ngài có thân vị như Đức Chúa Trời. Chính Ngôi llời là Đức Chúa Trời đã cùng tham gia vào công trình sáng tạo của Ngài, cho nên Ngài cũng được loài người nhận biết là Đấng Tạo Hoá (Creator).

2/ Đấng Cứu Thế giáng trần bằng cách nào?

Ngôi lời trở nên xác thịt tức là Đấng Cứu Thế nhập thể; Ngài đã biến hoá từ thể thần linh thành thể xác trong hình hài một con người qua sự cưu mang và sanh nở của mẹ Maria. Tự điển tiếng Anh giải thích sự nhập thể này bằng từ Incarnation. Sự nhập thể này cũng biến Ngài là Đấng Tạo Hoá ( Creator) thành vật thọ tạo ( Creature). Nói dễ hiểu hơn Ngài là Đức Chúa Trời đã hoá thân thành người “ ở giửa chúng ta đầy ơn và lẻ thật.”( Giắng 1:14) “… dwelling among us, full of grace and truth”. Đức Chúa Trời đã bày tỏ cho chúng ta Đấng Cứu Thế sẽ giáng trần để cứu vớt tội nhân khi tổ phụ loài người phạm tội. Ngài đã phán với con rắn là ma quỷ cám dỗ Eva rằng :”Vì mầy đã làm điều như vậy, mầy sẽ bị rủa sả trong vòng các loài súc vật, các loài thú đồng, mầy sẽ bò bằng bụng và ăn bụi đất trọn cả đời. 15 Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người. ” ( Sáng 3:14-15) 14 So the LORD God said to the serpent, “Because you have done this, “Cursed are you above all livestock and all wild animals! You will crawl on your belly and you will eat dust all the days of your life. 15 And I will put enmity between you and the woman, and between your offspring and hers; he will crush your head, and you will strike his heel.“ ( NIV) Mọi người đều được sinh ra bởi sự kết hợp giửa cha và mẹ, nhưng duy nhất chỉ có Đấng Cứu Thế trở thành nhục thể mà không có cha về phần xác và được Kinh thánh gọi là “giòng dõi người nữ” . Chứng tỏ rằng linh hồn của Đấng Cứu Thế thuộc về cha Ngài là Đức Chúa Trời nên Ngài vô nhiểm nguyên tội của loài người.

3/ Dự ngôn-tiên tri về Đấng Cứu Thế giáng trần.

Tiên tri Êsai đã dự ngôn về Đấng Cứu Thế giáng trần trước đó hơn 700 năm “ nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên.” ( Ê-sai 7:14)  “The virgin will conceive and give birth to a son, and will call him Immanuel.”

“Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an. ” (Ê sai 9:6)For to us a child is born, to us a son is given, and the government will be on his shoulders. And he will be called Wonderful Counselor, Mighty God, Everlasting Father, Prince of Peace. ” ( NIV)

Thiên sứ Gap-ri-ên cũng báo cho Mary rằng “Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì ngươi đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời. 31 Nầy, ngươi sẽ chịu thai và sanh một con trai mà đặt tên là Jêsus.“ ( Luca 1:30-31) But the angel said to her, “Do not be afraid, Mary; you have found favor with God. 31 You will conceive and give birth to a son, and you are to call him Jesus. “ ( NIV)

4/Mục Đích Đâng Cứu Thế Giáng Trần.

Tổ phụ của loài người là Adam và Eva đã phạm tội nên phần tâm linh ( Spirit) trong linh hồn của con người không còn tương giao với Đức Chúa Trời chí thánh nữa. Đời sống tâm linh của loài người đươc kinh thánh mô tả “ song cứ lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm. “( Rô ma 1:21b). “but their thinking became futile and their foolish hearts were darkened. ” ( NIV). Nhưng “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. ”( Giăng 3:16) “For God so loved the world that he gave his one and only Son, that whoever believes in him shall not perish but have eternal life.” ( NIV) Đức Chúa Trời muốn loài người phục hoà lại với Ngài và hể ai tin nhận Đấng Cứu Thế giáng trần “Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài,”( Giăng 1:12) “Yet to all who did receive him, to those who believed in his name, he gave the right to become children of God” ( NIV) Chính Đấng Cứu Thế đã tuyên bố rằng Đức Chúa Trới đã sai Ngài đến thế gian này để giải phóng những kẻ bị cầm tù, những kẻ đui mù được sáng và những kẻ bị áp bức được tự do ( Luca 4:19) “ He has sent me to proclaim freedom for the prisoners and recovery of sight for the blind, to set the oppressed free” (NIV)

5/ Kết luận:

Chính Đấng Cứu thế muốn chúng ta được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật  “Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật.” ( I Timothe 2:4) “ This is good and pleases God our Saviour who wants all men to be saved and to come to a knowledge of the truth.( NIV) Với tư cách người hầu việc Chúa, theo gương Chúa Jesus phục vụ tha nhân với thần linh của Chúa ngự vào tâm linh trong việc giải bày lẽ mầu nhiệm của Đức Chúa Trời qua sự hoá thân thành người của Đấng Cứu thế Jesus. Ươc mong thần của Chúa cảm động lòng quý vị ai nấy hưởng được một đời sống vui mừng bình an thật, phước hạnh vỉnh cửu từ mùa Giáng sinh năm nay và ngay từ giờ phút này. Amen.

Mục sư Nguyễn Đức Na ( JosephNa Nguyen)

Hội Trưởng Giáo hội Tin lành Liên hiệp Toàn cầu – VN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

VUA DÂN GIU-ĐA MỚI SINH TẠI ĐÂU?

Nếu bạn gõ từ khóa “Địa điểm vui chơi giáng sinh” trên trang tìm kiếm Google thì sẽ nhận được hơn 17.000.000(Mười bảy triệu kết quả- tra cứu ngày 11/12/2019). Nếu bạn gõ từ khóa “Chúa Giê-xu giáng sinh” thì xuất hiện chỉ khoảng 1.4 triệu kết quả được tìm thấy. Thống kê trên cho biết nhiều người quan tâm đến Giáng sinh như một kỳ lễ để được vui chơi, ăn uống và được nhận quà. Điều đáng thất vọng này, tương tự như một người được mời đến dự sinh nhật nhưng họ không biết, không quan tâm đến chủ nhân bữa tiệc đó là ai? Họ chỉ quan tâm buổi tiệc có gì vui, có món gì ngon? Nếu bạn là chủ nhân bữa tiệc đó bạn sẽ cảm nhận thế nào? Liệu điều đáng buồn trên có xảy ra đối với những Cơ đốc nhân chúng ta chăng? Mối quan tâm lớn nhất của bạn trong mùa Giáng sinh là gì?

     Các nhà thông thái đến thành Giê-ru-sa-lem với một câu hỏi khiến cả dân thành xôn xao, bối rối “Vua dân Giu-đa mới sanh tại đâu?”(Ma-thi-ơ 2:2) Tất cả họ bối rối, lo âu cũng là điều dễ hiểu, bởi trong khi một đoàn người từ phương đông xa xôi đã đến kinh thành Giê-ru-xa-lem với nhiều lễ vật chu đáo tôn thờ Vua, còn chính họ bản thân là người giu-đa, đang sống và làm việc tại thành Giu-đa nhưng Vua Giu-đa đã sanh ra, đã đến thì hoàn toàn không hay, không biết! Ở khía cạnh pháp lý đây là điều tắc trách không thể chấp nhận được.

Đó là tinh thần của dân giu-đa ngày ấy, còn chúng ta ngày nay thì thế nào? Nếu ai đó hỏi “Vua của bạn-Chúa Giê-xu mới sanh tại đâu?” Bạn trả lời thế nào? Bạn có bối rối không? Xin đừng trả lời giống như những nhà lãnh đạo tôn giáo xưa “Sanh tại Bếp-lê-hem xứ Giu-đa, cách đây hơn 2019 năm.” Hệ quả thế nào bạn đã biết, tất cả họ chẳng một ai biết Chúa Giê-xu đã sanh tại đâu và chẳng một ai trong số họ đã tìm thấy Ngài!

Bạn thân mến! Chúa Giê-xu mới sanh tại đâu? Liệu có phải Ngài đã sanh tại nước Do thái từ xưa lắm rồi như những truyện cổ tích kể cho con trẻ trước khi ngủ! chứ chẳng phải Ngài sanh ở Việt Nam nơi bạn sinh sống! Chúa Giê-xu mới sanh ở hội thánh của bạn chứ không phải ở gia đình bạn! Ngài mới sanh ra ở trong lòng một người thân trong gia đình của bạn chứ không mới sanh trong lòng của chính bạn!

Năm xưa Chúa Giê-xu đã sinh ra trong máng cỏ chuồng chiên, ngày nay Ngài muốn sanh ra trong chính mỗi lòng một người Cơ đốc nhân chúng ta, vậy hãy chuẩn bị một chỗ tốt trong lòng của chính mình để mời Ngài ngự xuống. Chúng ta không thể kêu gọi người khác đến chiêm ngưỡng Chúa giáng sinh khi bản thân mình không biết thật sự Ngài đang ở đâu? Nếu Chúa Giê-xu đã giáng sinh nơi lòng bạn, tin tôi đi, nhiều người sẽ đến và chiêm ngưỡng Chúa Giê-xu qua chính bạn trong mùa giáng sinh năm nay.

                                   Em-ma-nu-ên- Chúa ở cùng chúng ta.

                         Võ Anh Trọng, ngày 11/12/2019

 

 

 

 

 

 

SỰ TẠ ƠN

Tại Mỹ cứ vào tháng 11 là mọi người lại nôn nao
cho một ngày lễ lớn trong năm – Lễ Tạ Ơn.
Không khí của ngày lễ này lan tỏa khắp nơi, từ
nhà ra phố nhất là các cửa tiệm cho đến các
trường học, nơi công sở. Đây là ngày lễ quan
trọng, là một phần trong di sản văn hoá của Hoa
Kỳ được cử hành trên khắp nước. Nhưng đặc biệt
không như những ngày lễ truyền thống khác
thường mang nặng sắc thái tôn giáo, Lễ Tạ Ơn
chứa đựng nhiều ý nghĩa lịch sử vì đất nước này
đã được hình thành từ những người di dân.
Tài liệu lịch sử về những người di dân ghi lại
rằng, vào ngày 6 tháng 9 năm 1620 một nhóm
gồm 102 người muốn có được sự tự do tôn giáo
đã rời nước Anh trên con tàu Mayflower hướng
về Tân Thế Giới, sau 66 ngày lênh đênh trên biển
cả họ đến Mỹ ngày 11 tháng 11 năm 1620. Sau
khi đi nhiều nơi, những người hành hương này đã
cập bến Plymouth thuộc tiểu bang Massachusetts
bây giờ vào ngày 16 tháng 12 năm 1620.
Không may mùa đông năm ấy thời tiết rất khắc
nghiệt, cộng thêm với cánh đồng hoang dã chưa
được trồng trọt nên sống thiếu thốn. Và vì không
chịu nổi đói rét của mùa đông lạnh giá ấy, bệnh
hoạn đã làm cho hơn phân nửa người chết. Năm
1621 họ canh tác và thu hoạch mùa màng được
nhiều hơn mức thường nên đã làm lễ cảm tạ ơn

trên, và từ đó người Mỹ, những thế hệ người di
dân sau tiếp nối truyền thống này. Nhưng không
đồng nhất lắm, vì mỗi nơi làm mỗi cách khác
nhau tùy phong tục của những người di dân.
Khi cuộc chiến giữa các di dân với nước Anh
chấm dứt vào năm 1783, với kết quả là Anh Quốc
công nhận nền độc lập của Hoa Kỳ, ngày 30 tháng
4 năm 1789 George Washington trở nên tổng
thống đầu tiên của Hoa Kỳ, và vì muốn tạo tinh
thần đoàn kết giữa các di dân ông đã công bố Lễ
Tạ Ơn cho toàn quốc vào ngày 26 tháng 11 năm
1789. Khi tình hình nước Mỹ bắt đầu bị chia rẽ
và các tiểu bang Miền Nam đòi ly khai, vì muốn
tạo tình đoàn kết dân tộc, Tổng thống Abraham
Lincoln tuyên bố chọn Thứ Năm của tuần cuối
tháng 11 năm 1863 làm ngày Lễ Tạ Ơn. Nhưng
cho đến năm 1941 Quốc Hội Mỹ mới thông qua
đạo luật, xác nhận Lễ Tạ Ơn là một ngày lễ chính
thức trên toàn nước Mỹ được cử hành hằng năm
vào Thứ Năm của tuần lễ thứ tư tháng 11.
Nên mỗi năm vào tháng 11 người Mỹ háo hức
mong chờ ngày này cách vui tươi, đầm ấm để
được sum họp bên gia đình và những người thân.
Ngày lễ nhằm vào Thứ Năm nên đa số đều có 4
ngày nghỉ cuối tuần liên tiếp thuận tiện cho việc
đi lại, thăm viếng, gặp gỡ nhau. Thứ Năm ăn uống
no nê, Thứ Sáu mua sắm thả cửa, Thứ Bảy và

Chúa Nhật nghỉ ngơi, dọn dẹp nhà và quay về nơi
làm việc.
Người Mỹ nhận thức được tầm quan trọng của
ngày Lễ Tạ Ơn, để nhắc nhở người dân nhớ đến
công ơn của những người di dân đầu tiên đã xây
dựng nên đất nước, đây là một ngày lễ lớn cho
toàn dân không phân biệt chủng tộc màu da. Vào
buổi lễ đầu tiên, những người di dân họp lại tạ ơn
Đức Chúa Trời đã gìn giữ họ an toàn trong suốt
hành trình gian khổ. Khi tụ tập quanh bàn ăn
ngoài sự tạ ơn Chúa về mùa màng tốt tươi cùng
vô số phước lành trong cuộc sống, dĩ nhiên họ
không quên nhắc lại quyền năng của Đức Chúa
Trời dẫn dắt họ trong những tháng ngày ban sơ.
Giờ họ đã vĩnh viễn xa rời quê hương cũ để xây
dựng tương lai ở đất mới trên một lục địa hoang
dã, với đại dương ngăn cách quê hương nghìn
dặm, nên những di dân đầu tiên này giao trọn
cuộc đời mình trong bàn tay dẫn dắt của Chúa.
Lễ Tạ Ơn ngày nay nhiều người Mỹ còn coi như
một dịp tốt để đoàn tụ gia đình, nên đây là một
truyền thống rất hay rất đáng được chúng ta,
những người Việt tị nạn trân quý. Vì tình cảnh
của những di dân đầu tiên phần nào cũng giống
hoàn cảnh của nhiều người Việt Nam chúng ta đã
gặp trên con đường chạy nạn. Khi chiến tranh
bùng nổ tại quê nhà, khi phải chạy ra nước ngoài
tị nạn, trên bước đường gian nan ấy chúng ta đã
gặp biết bao nhiêu khổ nạn. Có người đã phải lênh
đênh trên chiếc thuyền nhiều ngày đói khát, rồi
khi chiếc thuyến của mình được cứu. Lên khỏi
nước bước lên bờ, nhiều người đã quỳ xuống trên
bãi cát giơ tay lên cảm tạ ơn Trời đã cứu giúp. Tôi
nhớ khi còn ở trại tị nạn Thái Lan, chính mình đã
từng nhiều lần chứng kiến những giọt nước mắt
vui mừng chảy dài trên đôi má của nhiều người
Việt Nam chúng ta, khi lọt qua được chặn đường
dài chông gai và bước vào trong trại tị nạn.
Họ vui mừng vì vừa thoát nạn, phải chịu đói khổ
có khi phải chết ở ngay dọc đường. Nên khi tưởng
niệm ngày Lễ Tạ Ơn, chúng ta phải đặt mình
trong hoàn cảnh của những người di dân đầu tiên
đến Mỹ mình mới có thể hiểu phần nào lòng biết
ơn của họ với Đức Chúa Trời thâm sâu và chân
thành như thế nào. Cũng như những người di dân
đầu tiên, người Việt cũng gặp rất nhiều khó khăn
trong giai đoạn đầu tiên định cư nơi xứ sở này,
không ít người trong chúng ta nhớ lại những ngày

đầu đến đất Mỹ với hai bàn tay trắng, vốn liếng
chỉ vài bộ quần áo cũ mèm và cùng với chút tiếng
Anh ít ỏi học được tại trại tị nạn hoặc nơi quê nhà
trước ngày ra đi.
Cuộc đời mới của nhiều người trong chúng ta ở
trong những ngày đầu trên đất Mỹ cực khổ, buồn
bã và lạnh lẽo nếu phải sống trong những tiểu
bang giá buốt khi đông đến tuyết đổ về. Nhiều
người đã được các gia đình hoặc nhà thờ Mỹ bảo
trợ, họ hướng dẫn và lo cho nơi ăn chốn ở. Nhưng
rồi với sự cần cù, chịu khó và cơ hội có được trên
xứ sở này, nên bây giờ có thể nói là nhiều người
trong chúng ta đã có được một cuộc sống ổn định.
Công việc làm ăn khấm khá, có nhà cửa khang
trang, con cái học hành đỗ đạt.
Nên ngồi suy nghĩ lại làm sao mà chúng ta không
thể không tạ ơn được? Sứ đồ Phao-lô nhắc nhở

chúng ta là “Hãy dư dật trong sự cảm tạ” (Cô-lô-
se 2:7b). Dĩ nhiên điều chúng ta có hôm nay một

phần do sự cố gắng của bản thân, nhưng phần
khác là nhờ sự giúp đỡ của nhiều người, cùng
quốc gia chúng ta sống. Còn làn không khí để thở,
một ngụm nước mát giọng, những chiếc lá thay
đổi màu để báo hiệu cho Xuân Hạ Thu Đông thì
sao? Phải nói chúng ta còn nhiều điều tạ ơn Chúa
lắm về những sự ban cho không xiết kể của Ngài,
Vua Đa-vít bảo “Chớ quên các ân huệ của Ngài”
(Thi Thiên 103:2b).
Riêng tôi là người đã sinh ra và lớn lên ở Việt
Nam dù chỉ một thời niên thiếu, nhưng không thể
quên mảnh đất thân thương xưa đã cho mẹ dòng
sữa ngọt và cha sức khoẻ để nuôi mình khôn lớn.
Hôm nay trong cuộc sống tha phương với bao
biến đổi của cuộc đời từ Á qua Âu rồi sang Mỹ,
đất nước này đã tiếp tục cưu mang tôi có được
một cuộc sống ấm êm, tuy trầm lặng nhưng thật
hạnh phúc với gia đình thì làm sao tôi không tạ
ơn Chúa, cảm ơn người được?
Phải nói Hoa Kỳ là một đất nước giàu đẹp “đượm
sữa và mật” được Đức Chúa Trời ban cho, nên
tiếp theo truyền thống tốt đẹp của những người di
dân trước để lại, tôi chẳng những hằng năm tạ ơn
Chúa trong những dịp lễ lớn, mà còn luôn tạ ơn
Chúa mỗi ngày bằng lời nói, qua việc làm đối với
người ở nơi mà Ngài còn cho mình sống động.
Mục sư Ức Chiến Thắng

 

 

 

FATHER’S DAY

happy-fathers-day-11

Ngày Chúa Nhật thứ 3 trong tháng 6 là ngày Lễ Phụ Thân (ngày lễ nhớ công ơn cha) ở các nước trên thế giới. Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam chọn ngày này là ngày “Lễ Phụ Mẫu Thân” để con cháu nhớ ơn bậc sinh thành. Giáo hội nhắc nhở các Quản nhiệm Hội Thánh địa phương giảng dạy lời Chúa theo chủ đề này và khích lệ các con cái trong gia đình thể hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng việc làm như lời dạy dỗ trong King Thánh.

Dựa vào câu Kinh thánh sau đây để tìm hiểu ý nghĩa của ngày FATHER’S DAY.
“Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giê Hô Va Đức Chúa Trời ngươi ban cho”
” Honor your father and your mother, so that you may live long in the land the Lord your God is giving you.”

I/ Sơ Lược Lịch Sữ Ngày  FATHER’S DAY.
(The History of the Father’s Day.)

FATHER’S DAY là tiếng Anh với ý nghĩa là ngày để tỏ lòng biết ơn Cha và vinh danh những người cha còn đang sống. Ta thường dùng từ ” Ngày Phụ Thân” hay ” Ngày Hiền Phụ” bên tiếng Việt..

Trên thế giới ngày FATHER’S DAY thay đổi Thuỳ theo mỗi quốc gia; như ở Hoa kỳ và nhiều nước trên thế giới chọn ngày Chúa nhật thứ 3 trong tháng 6 ( the Third Sunday in June) ; một số nước ở Bắc Âu thì chọn ngày Chúa nhật thứ nhì trong tháng mười một ( The second Sunday of November); Những nước trong  Châu Đại dương thì chọn ngày Chúa nhật đầu tiên trong tháng 9 ( the First Sunday in September); Nước Đức thì chọn ngày này nhằm vào ngày lễ Thăng Thiên thứ Năm ( Ascension Thursday), 40 ngày sau lễ Phục sinh ( 40 days after Easter); Bồ Đào Nha ( Portugal) và Tây Ban Nha ( Spain) thì chọn ngày Thánh Joseph 19 tháng 3 ( St Joseph Day March 19);Thái lan thì chọn ngày này cùng ngày sinh nhật của vua Bhumibol Adulyadej mùng 5 tháng 12 ( the Bỉthday of King Bhumibol Adulyadej December 5).
Ở Hoa kỳ ngày FATHER’S DAY được cử hành lần đầu tiên vào ngày 5 tháng 7 năm 1908 do sáng kiến của Bà Charles Clayton tại thành phố Fairmont, tiểu bang West Virginiar, Hoa kỳ. Nhưng người có công nhất trong việc cổ động cho ngày FATHER’S DAY thi phải kể là Bà Bruce Dodd tại thành phố Spokane, Washington miền Tây Bắc Hoa kỳ , tuy vậy mãi đến năm 1972 Tổng thống Mỹ Richard Nixon, theo đề nghị của Quốc hội,  đã ký sắc lệnh và trở thành luật, ấn định ngày FATHER’S DAY vào ngày Chúa nhật lần thứ 3 trong tháng 6 ( the third Sunday in June) .

II/ Sự Quan Hệ Huyết Thống với Cha và con.

( Cosanquinity / blood relationship Between Father and the Child.)

1/ GEN (ADN)
Bởi sự soi sáng của thần linh Đức Chúa Trời, tôi tớ Ngài, David  đã cãm nhận được sự mầu nhiệm , đáng sợ lạ lùng trong sự tạo dựng nên con người Ông nói riêng và một con người cho nhân loại nói chung. Trong lòng người mẹ Ngài đã tác tạo một cách tinh vi, ngài đã “dệt” nên một tác phẩm tuyệt vời trong sự công bình của Ngài.
” For you created my inmost being; you knit me together in my mother’s womb” ( psalm 139:13)
Ngày nay khoa học đã khám phá sự huyền nhiệm và sự công bình của Ngài trong sự “dệt” thành một con người. 50% Gen ( ADN) của người mẹ và 50% Gen của người cha cấu tạo thành một hình hài con người.
Lời cãm xúc của David nói lên đầy đủ lòng cãm phục Đấng toàn năng trong sáng tạo muôn loài đặc biệt là con người chúng ta.” Con cãm tạ Chúa vì con được dựng nên một cách đáng sợ và lạ lùng.Công việc Chúa thật quá diệu kỳ, Lòng con biết rõ lắm .” ( TT 139:13 )
” I praise you because I am fearfully and wonderfully made; your works are wonderful, I know that full well.”)
Biết được điều này, hy vọng những người con bất hiếu không còn mở miệng nói “từ” cha mẹ mình. Vì cho dù có từ bỏ theo mặt luật pháp thì ” dzen” của cha mẹ mình vẫn đinh chặc trong máu huyết, da thịt và xương tuỷ của mình cho đến khi nhắm mắt xuôi tay trở về với bụi đất. Chỉ phần linh hồn của mình phải đối diện với Đấng Tạo Hoá  ( Creator/ God ) và chịu trách nhiệm về sự sống vỉnh cửu của nó nơi hoả ngục hay miền vinh hiển.
Kinh thánh xác định điều này: ” Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết. Con sẽ không gánh chịu tội ác của cha và cha cũng không gánh chịu tội ác của con” ( Ê xê chi ên 18:20a)
( The soul who sins is the one who will die.The son will not share the guilt of the father, nor will the father share the guilt of the son.( NIV ).

2/ Thiên chức làm cha

  (  Vocation for fatherhood).

Khi tạo dựng nên loài người, Ngài chúc Phước cho họ và phán rằn :” Hãy sinh sản thêm nhiều làm cho đầy dẫy đât.”( STK 1: 28a)

Be fruitful and increase in number, fill the earth and subdue it.”Đây là câu kinh thánh nói lên mệnh lênh của Đức Chúa Trời chỉ định cho loài người sinh sản theo phương pháp giới tính; ngày nay khoa học nhân loại có thể tạo ra một con người theo phương pháp vô tính, nhưng nhớ rằng làm việc này để cho ” đầy dẫy đất” là trái với mạng lịnh của ĐCT. Ngay tức khắc vô vàng sự mầu nhiệm kèm theo trong việc “dệt” nên con người trong lòng người mẹ. Một trong những sự mầu nhiên ấy là thiên chức làm cha. Người nam tự nhận biết ý muốn của Ngài là phải thực hiện mệnh lệnh của Đáng Tạo Hoá về công việc của người nam trong nhiệm vụ cao cả tạo dựng nén một con người. Người Việt nam ý thức được điều này bằng một câu dân gian” Cha sanh, mẹ đẻ”.

Thời còn dạy học ngoại ngữ, tôi muốn sinh viên nhận thức rõ về cách dùng động tự ” to make”, tôi cho dịch câu ” từ ngày cha sinh, mẹ đẻ cho đến nay,…”. Hầu như không có một học sinh nào dịch được cau này , nói chính xác là không dịch được ” cha sinh” còn “mẹ đẻ” thì hầu hết các em dịch được. Cũng là một dịp để tôi giải thích về thiên chức làm  cha cho các em.

3/ Bổn Phận Làm Cha.

( Paternal Responsipility).

Trong quan hệ huyết thống, người cha rất hành diện và sung sướng có được một hình hài mang ” hòn máu” của mình như dân gian thường nói, tôi đã chứng kiến một người ” nhảy cửng” lên khi người đó nhận được thông báo là sắp được lên chức ” cha”, tức là sắp được làm cha. Cũng từ đó người sắp chính thức nhận chức làm cha đã suy tính và chuẩn bị mọi phương án tốt nhất để lo cho người con yêu quý của mình. Nhưng cuộc đời cũng lắm gian truân, người cha phải cày sâu cuốc bẫm, giải nắng dầm mưa. Phải bươn chải trên những nẻo đường gồ ghề với gánh nặng trên vai; cũng có người phải lăn lộn trên thương trường, lo toan tính toán đến ” nát óc” trong những đêm dài không thể chớp mắt được ; có người phải suốt cuộc đời ” bán cháo phổi”, chạy ” sô” năm ba trường, lặng lội ở những trung tâm. Kể cả những người đang ở ngoài chiến tuyến đối diện trước sự chết, cũng không bao giờ quên đến bổn phận làm cha của mình. Đã có nhiều người” sinh nghề tử nghiệp” sớm, cũng chỉ vì con mình.

Thật ” Thiên chức làm cha” thì vinh hiển, cao trọng bao nhiêu thì ” Bổn phận làm cha” cũng nặng nề, gian khổ bấy nhiêu.

Ca dao Việt nam : ” Công cha như núi Thái sơn”

Hoặc : “Còn cha gót đỏ như son, đến khi cha mất gót con như chì.”

” Con không cha như nhà không nóc.”

Tất cả đều nói lên công lao khổ nhọc của người cha trong bổn phận tự ý thức của mình.

Chỉ có những người con thuộc giòng dõi của ma quỷ mới bất hiếu với cha mẹ sinh đẻ ra mình. Không bất cứ dưới nhãn/mác ( label/ mark) nào có thể bào chửa hay che lấp được tội bất hiếu mà được khẳng định bằng bởi lời của ĐCT.

 4/Ủy Thác  chúc phước Của Đức Chúa Trời cho người cha

( God’s entrustment of blessing to father)

Với chức năng làm cha  vinh quang và bổn phận làm cha nặng nề và ĐCT cũng đã ủy thác chúc phước cho người cha.

Trong kinh thánh thể hiện sự ủy thác này rất rõ:

a/ Nô ê đã chúc phước cho các con trai minh:

” Cursed be Canaan! The lowest of slaves will he be to his brothers.”

He also said,” Blessed be the Lord, the God of Shem! May Canaan  be the slave of Shem; May God extend the territory of Japheth; May Japheth live in the tents  of Shem. and may Canaan be his slave.” ( Genesis 9:25/27).

Canaan đã khinh bỉ cha mình nên đáng rủa sả và được chúc phước làm tôi mọi cho anh là Shem và em mình là Japheth.

Nguyện ĐCT phước hạnh là ĐCT của Shem và nguyện ĐCT mở rộng bờ cỏi của Japheth.

b/ Y sác chúc phước cho Ê sau .

” … Rồi dâng lên cho cha ăn, đặng linh hồn cha chúc phước cho con trước khi chết “( STK 27:4b)

( … And bring it to me to eat, so that I may give you my blessing before I die.”)

Sự chúc phước được Chúa ủy thác nó quan trọng và có uy quyền đến nổi nó không được phế bỏ với bất cứ trường hợp nào.

Dù Ê sau có khóc lóc, kêu xin khẩn thiết thì cũng không thể nào thay đổi được .” Trước khi con về, cha đã ăn hết rồi, và đã chúc phước cho nó – và thực sự là nó sẽ được lời chúc phước đó.” (26:33b)

( I ate it just before you came and I blessed him – and indeed he will be blessed. NIV)

c/ Gia cốp chẳng những chúc phước cho các con mà còn chúc phước cho cháu nội mình nữa.

” Gia cốp gọi các con trai mình lại và nói rằng : hãy hội lại đây, cha sẽ nói những đều phải xảy đến cho các con ngày sau.” ( STK 49:1)

( Then Jacob called for his son and said ” Gather round so that I can tell you what will happen to you in days to come.)

 Một lần nữa cho ta thấy sự đặt tay chúc phước cho ai thì người ấy được. Gia-cốp không phải vô ý mà đặt chéo tay lên đầu Manasshe. Cho dù Joseph muốn đổi lại cũng không được vì sự chúc phước này đã được sự ủy nhiệm của ĐCT.

” But his father refused  and said, ” I know, my son, I know he too will become a people, and he too will become great. Nevertheless, his younger brother will be greater then he, and his descendants will become a group of nations.” ( Genesis 48:19).

Xin các người làm con, làm cháu đừng bao giờ coi thường thánh chức của cha mình trong đó có quyền ủy thác chúc phước của ĐCT chí cao.

III/ Tình Phụ Tử .

     ( Paternal Love)

Tình phụ tử mang tính cách huyết thống nên nó thiêng liêng và cao cả. ĐCT thương yêu thế gian đến nổi đã ban con độc sanh của Ngài để làm giá chuộc tội cho nhân loại. Đấng tạo hoá đã lấy tình phụ tử để so sánh tình yêu của Ngài đối với những ai kính sợ Ngài.

” As a father has compassion on his children, so the Lord has compassion on those who fear him” ( Psalm 103:13).

Tình mẫu tử bao la thì tình cha sâu đậm. Mẹ hay Âu yếm thì cha thường nghiêm khắc. Mẹ luôn vổ về thì cha lại nâng niu khi còn bé bỏng. Cha hay cỏng con hay công kênh con  trên vai đi dạo chơi.Mẹ thì lo cho con trước mắt còn thì cha lai lo cho con tương lai.

Cả 2 bổ sung cho nhau để con có được như ngày hôm nay. Đừng bao giờ quên câu ca dao:

” Công cha như núi thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chay ra.”

Hãy dặn lòng trọn đời hiếu thảo với cha mẹ.

IV/ Thực Hành Hiếu Kính.

   ( Practise Honour)

1/ Kính trọng ( respect).

Chẳng những kính trọng mà còn quý trọng ( esteem) nữa. Có quý trọng thì mới ra sức giữ gìn nó.

” một lòng thờ mẹ kính cha, Cho trong chữ hiếu mới là đạo con”, thực sự câu ca dao này là thể văn song hành và có ý nghĩa là một lòng thờ kính mẹ cha, thờ kính mẹ cha thì mới trọn đạo hiếu thảo .

Hình ảnh Sem và Gia phết  lấy áo choàng vắt trên vai mình, đi thụt lui đến đắp khuất thân cho cha; và bởi họ xay mặt qua phía khác, nén chẳng thấy sự trần truồng của cha chút nào.

” But Shem and Japheth took a garment and laid it across their shoulders; then they walked in backwards and covered their father’s nakedness. Their faces were turned  the other way so that they would not see their father nakedness.” ( Genesis 9:23).

Tại sao họ phải đi xà lui? Những người có lòng quý trọng cha mình thì điều này không khó . Thật là tuyệt vời một hành động của 2 người con có chung lòng quý mến cha mình. Họ e rằng khi thấy cha mình loả lồ thì lòng kính trọng bị tổn thương.

Kính trong cha mình không có điều kiện như Chúa yêu thương chúng ta; vậy mới xứng đáng là người con hiếu nghĩa.

2/ Ngợi khen. ( praise )

Con cháu làm vinh hiển ông cha mình cũng là một hình thức tốt lòng hiếu thảo. Kinh thánh cho biết rằng mão triều thiên của ông già ấy là con cháu.

” Children’s children are a crown to the aged.” ( Proverbs 27:6a)

phần thưởng hay quà tặng ( awards or tribute). 

Những dịp sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới, khi đau yếu, những ngày mừng thọ của cha mẹ, là con cháu mà có một món quà tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ, ông bà sẽ làm vơi đi nỗi khổ tâm trong cuộc đời.

3/ Chấp nhận;

Chấp nhận cũng có nghĩa là không so bì với người khác, không trách móc số phận của riêng mình .

Một câu ca dao tuyệt vời có tính cách khuyên nhủ, dạy bảo mà nó còn có tính chê bai rất thâm thuý sâu xa đối với những kẻ than thân trách móc cha mẹ mình.

” Con không chê cha mẹ khó,

Chó không chê chủ nhà nghèo.”

Thật vậy con chó của chủ nhà nghèo bên cạnh hàng xóm giàu; dù có cho nó ăn ngon mấy đi nữa   Thì nó vẫn về ngủ và ở với chủ nhà nghèo của nó.

 4/ Làm tròn lời hứa 

      ( Fulfill  promises)

Chúng ta có hứa nguyện điều gì với cha mình hay mẹ mình thì hãy làm thành ; đó cũng là lòng hiếu kính cha mẹ.

Joseph hứa với cha mình là sẽ đem hài cốt của cha về chôn nơi quê hương Ca-na-an.

” But when I rest with my fathers, carry me out of Egypt and bury me where they are buried.”

“I will do as you say” he said.

” swear to me” he said. Then Joseph swore to him … ( Genesis 47: 39-31)

Và Joseph đã thực hiên lời hứa với cha mình, tổ chức đám tang long trọng và xin Vua cho mình đêm thi hài của cha mình đã được tẩm liệm tại xứ Egypt về chôn tai quê hương. Khi thực hiện lời hứa nhiều khi cũng gian nan, khó khăn, tốn kếm như đám tang của Gia cốp, nhưng với lòng hiếu thảo Joseph vẫn hết lòng thực hiện để hoàn thành lời thề với cha mình.

5/ Phụng dưỡng.

   ( support maintain/ catering/serving)

Người con có lòng hiếu thảo  với cha mẹ thì không lo lắng về tài chính  mặc dù  sẽ ảnh hưởng đến sinh hoạt của gia đình riêng của mình; cũng không nạnh hẹ hay so bì với các anh chị em khác. Người Việt nam chúng ta có môt câu tục ngữ rất là hay về nuôi dưỡng cha mẹ khi về già hay lúc ốm đau. ” Gia bần tri hiếu tử”. Có nghĩa là nhà nghèo mới biết được con hiếu thảo

Joseph cũng phụng dưỡng cha mình trong tuổi già khi ở xứ người:

” Joseph also provided his father and his brothers and all his father’s household with food, according to the number of their children.” ( Genesis 47:12).

Thường thì một người có lòng hiếu kính cha mẹ, thì cũng yêu thương anh chị em mình , không so bì với bổn phận làm con với anh chị em mình.

Trong đời tôi cho đến thời gian nầy, tôi nghe được 2 người nói rằng họ ước ao được dâng 1/10 cho Chúa và 1/10 cho cha mẹ.

Một người là MS Đặng Ngọc Báu nói điều này trong bài giảng của Ông cho Đại Hội Liên Hữu  Tin lành Thế giới và Úc châu  của người Việt  vào  tháng giêng năm 2009 tại Bond University Úc Châu. Ông cũng làm chứng rằng khi Ông quyết định và thực hiện điều nầy thì Chúa cho Ông nhiều hơn khi chưa dâng 1/10 cho cha mẹ.

Sau 1975 đời sống trở nên khó khăn đột xuất. Cha mẹ tôi cũng đã già, một người em dâu trong gia đình đề nghị với tôi (vì lâu nay tôi là người đảm đang công việc chung của đại gia đình) là chia đều cho cho các anh chị em để lo cho cha mẹ. Tôi bảo rằng ý kiến đó cũng tốt, nhưng sẽ không thấy được ” gia bần tri hiếu tử.” Và thực sự lòng tôi không lo sợ phải lo cho cha mẹ và cũng không nạnh hẹ với anh chi em trong nhà, mặc dù có thể nói gia đình tôi là khó khăn đột xuất nặng nề nhất trong thời gian đó. Nhưng tạ ơn Chúa gia đình tôi vẫn tiếp tục cùng với các anh chị em lo cho cha mẹ chúng tôi đầy đủ.

Tiếng anh thường có câu nói về hiếu thảo với cha mẹ :” Serve your father as you would expect your son serve you.” Với ý nghĩa là : Hãy phục vụ cha mình y như mình ước ao con trai mình phục vụ cho mình.

Thật sự theo trải nghiệm của bản thân trong đức tin tôi nhận ra rằng : Nếu sợ phụng dưỡng cha mẹ thì nghèo thiếu vẫn là nghèo thiếu; Còn nếu không sợ phụng dưỡng cha mẹ mặc dù nghèo thiếu thì sẽ  không bao giờ nghèo thiếu.

Có thể diển tả ý đó bằng tiếng Anh như thế này:

If you are afraid of serving your father, the poverty will cling to you, but if you are not afraid of serving your father, the poverty will go away from you.

V/ Lời Cảnh Báo Trong Kinh thánh .( Cautions in Bible).

Cùng tội bất hiếu nhưng kinh thánh chia ra 2 mức độ :

a/ Bị rủa sả:

” Đáng rủa sả thay người nào khinh bỉ cha mẹ mình” ( Phục 27:16).

( cursed is the man who dishonours his mother or his father.”)

b/ Bị Tử Hình.( put to death)

– “Kẻ nào đánh cha hay mẹ mình, phải bị xử tử.”(Xuất 21:15)

(Anyone who attacks his father or his mother must be put to death)

– “Kẻ nào mắng cha hay mẹ mình, sẽ bị xử tử” ( Xuất 21: 17)

( Anyone who curses his father or his mother must be put to death)

– ” Khi người nào chửi cha mắng mẹ mình, thì phải bị xử tử: nó đã chửi rủa cha mẹ; huyết nó sẽ đổ lại trên mình nó.” ( Lêviky 20:9).

( if anyone curses his father or his mother, he must be put to death. He has cursed his father  or his mother, and his blood will be on his own head.)

Hồi còn nhỏ tôi nghe người ta nói ai ăn ở bất hiếu với cha mẹ sẽ bị trời trồng. Tôi hỏi mẹ tôi ” trời trồng” là thế nào?. Bà trả lời là người ăn ở bất hiếu với cha mẹ thì khi chết, mồ chôn người đó sẽ bị sét đánh và quan tài người đó sẽ dựng lên. Đó là trời trồng.

Câu chuyện từ thuở nhỏ tưởng chừng như quên lảng vì cũng đã trên 60 năm rồi. Thật không ngờ cách đây khoản ít năm tôi lại nghe người ta kể rằng ở miền tây nam bộ có một người ăn ở bất hiếu với cha mẹ, quan tài của người đó đã bị sắt đánh dựng đúng dậy đến 2 lần. Người ta sợ không dám cải lệnh trời và không dám chôn lại nữa.

VI/ Kết luận :

” Chớ hề dối mình   Đức Chúa Trời không chịu khinh dễ đâu, hễ ai gieo giống chi thì gặt giống ấy” ( Galati 6:7)

( Do not be deceived; God can not be mocked. A man reaps what he sows)

Một câu chuyện thật xảy ra ở quê tôi: một người con trai một chửi rủa mẹ mình. Không chăm sóc để bà đói khác. Bà phải xuống bờ sông bên sau nhà lấy nước uống và bà đã chết đuối ở mé sông đó. Háng xóm phát hiện và vớt bà lên  chôn cấtt.

Ít lâu sau người con trai ấy đã chết bất đắc kỳ tử giữa đường trong đêm khuya khi đi nhậu về. Khi ngã xuống bàn đạp xe đạp của chính ông cởi đã đâm thấu vào tim ông vì pedal này đã sức hết chỉ còn cái lỏi bên trong và đi lâu ngày nên đã bén nhọn.

Người ta bảo ” Trời trả báo nhản tiền”.

Tôi viết bài này với lòng cảm xúc sâu xa qua lời Chúa và nhớ thương thiết tha thân phụ mình đã về với Chúa. Mong rằng con dân Chúa và tôi tớ Chúa có một đời sống hiếu thảo để được phước hạnh, làm vinh hiển danh Chúa và thế gian biết “các ngươi là môn đồ Ta” theo như Chúa phán.

Mục sư Nguyễn Đức Na.

Hội trưởng Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu- VN

 

MÙA THƯƠNG KHÓ VÀ PHỤC SINH (PHẦN 2)

II/ CHÚA PHỤC SINH

Kinh Thánh:  Math 28:1-10 

“Sau ngày Sa-bát, ngày thứ nhứt trong tuần-lễ, lúc tưng-tưng sáng, có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác đến thăm mộ. 2Và nầy, đất rúng-động dữ-dội, vì có thiên-sứ của Chúa ở trên trời xuống, đến lăn hòn đá ra mà ngồi ở trên. 3Hình-dung của thiên-sứ giống như chớp nhoáng, và áo trắng như tuyết. 4Vì đó, những lính canh sợ-hãi run-rẩy, trở nên như người chết. 5Song thiên-sứ nói cùng các người đàn-bà đó rằng: Các ngươi đừng sợ chi cả; vì ta biết các ngươi tìm Đức Chúa Jêsus, là Đấng bị đóng đinh trên thập-tự-giá. 6Ngài không ở đây đâu; Ngài sống lại rồi, như lời Ngài đã phán. Hãy đến xem chỗ Ngài đã nằm; 7và hãy đi mau nói cho môn-đồ Ngài hay rằng Ngài đã từ kẻ chết sống lại. Đây nầy, Ngài đi trước các ngươi qua xứ Ga-li-lê; ở đó, các ngươi sẽ thấy Ngài. Ấy, ta đã bảo các ngươi.

8Hai người đàn-bà đó bèn vội-vàng ra khỏi mộ, vừa sợ vừa cả mừng, chạy báo tin cho các môn-đồ. 9Nầy, Đức Chúa Jêsus gặp hai người đàn-bà đó, thì phán rằng: Mừng các ngươi! Hai người cùng đến gần, ôm chân Ngài, và thờ lạy Ngài. 10Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Đừng sợ chi cả; hãy đi bảo cho anh em ta đi qua xứ Ga-li-lê, ở đó sẽ thấy ta.”

Câu gốc: Math 28: 6Ngài không ở đây đâu; Ngài sống lại rồi, như lời Ngài đã phán. Hãy đến xem chỗ Ngài đã nằm;”

1/ Thời gian:

Vào ngày thứ nhất trong tuần lễ. Tức là ngày Chúa nhật trong thời kỳ Tân ước. Thời cựu ước dân sự Chúa yên nghĩ thờ phượng Chúa vào ngày Sabat.( Luca 23:56). Cựu ước là bóng, Tân ước là hình. Bóng luôn đi với hình và bóng sẽ tròn ngay dưới chân Ngài khi giửa trưa ( đúng ngọ, tròn bóng), tức là khi Chúa phục sinh. Chính Chúa phán ta là Chúa của ngày Sabat. (Lu ca 6:5) Một sự yên nghỉ trọn vẹn khi có hình và bóng cùng lúc mặc dù ta không thấy bóng khi nó tròn dưới chân Ngài.

2/ Ai là người tìm kiếm Chúa sống lại trước nhất ? Người có lòng yêu mến Chúa nhất. Về vật chất dám dâng những gì quý giá nhất cho Chúa, vể thuộc lình thì ham mê lời Chúa ( Math 28:1Sau ngày Sa-bát, ngày thứ nhứt trong tuần-lễ, lúc tưng-tưng sáng, có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác đến thăm mộ.” ).

3/Sự can thiệp của Đức Chúa Trời trong sự Phục sinh của Cứu Chúa Jesus ( Math 28:2 Và nầy, đất rúng-động dữ-dội, vì có thiên-sứ của Chúa ở trên trời xuống, đến lăn hòn đá ra mà ngồi ở trên.”)

4/ Người gặp Chúa Phục sinh trước nhất. Chính là người tìm kiếm Chúa trước nhất đã gặp được Chúa. Đúng như lời KT ai yêu mến Chúa và tìm kiếm Chúa thì sẽ gặp. ( Châm ngôn 8:17 Ta yêu-mến những người yêu-mến ta,Phàm ai tìm-kiếm ta sẽ gặp ta.”)

III/ Ý Nghĩa Của Sự Phục Sinh.

1/ Chúa sống lại từ cỏi chết để những ai tin nhận Ngài sẽ là người được sống lại trước nhất khi Ngài tái lâm. ( I Cô 25:20)

2/ Dân Y sơ ra ên ngày xưa, Hội thánh Chúa ngày nay là trái đầu mùa của hoa lợi Ngài ( Giê rê mi 2:3a “Y-sơ-ra-ên vốn là dân biệt riêng ra thánh cho Đức Giê-hô-va; vốn là trái đầu mùa của hoa-lợi Ngài.”)

3/ Chúa phục sinh để cho chúng ta là người tin nhận Ngài mà còn đang sống khi Chúa dến thì chúng ta sẽ khỏi qua sự chết thứ nhất mà Ngài đã định cho loài người. (Giăng 12:25-26) . Lời Chúa khẳng định và miêu tả cảnh Chúa tiếp rước kẻ chết và người đang sống lên không trung gặp Ngài khi Chúa tái lâm (I Tê sa lô ni ca 4:16-17 “Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên-sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống; bấy giờ những kẻ chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước hết. 17Kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn ở lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy giữa đám mây, tại nơi không-trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn. 18Thế thì, anh em hãy dùng lời đó mà yên-ủi nhau.”)

IV/ Sống Cho Chúa.

Chúng ta đã tiếp nhận Chúa Jesus là Cứu Chúa của đời sống mình có nghĩa là chúng ta đã ăn năng tội, phục hoà với Đức Chúa Trời. Chúng ta vâng lời Chúa chịu phép báp tem cũng có nghĩa là chúng ta đồng chịu đóng dình, đồng chết với Chúa và khi ta khỏi nước có nghĩa là chúng ta sống cho Chúa ( Galati 2:20 “Tôi đã bị đóng đinh vào thập-tự-giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi; nay tôi còn sống trong xác-thịt, ấy là tôi sống trong đức-tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi. “)

Kết luận: Hy vọng lời Chúa đến với chúng ta và chúng ta sẽ là trái đàu mùa của hoa lợi Ngài. Amen.

Mục sư Joseph Na Nguyễn

 

 

 

 

 

 

 

MÙA THƯƠNG KHÓ VÀ PHỤC SINH

Kinh thánh : “Họ sẽ nộp Ngài cho dân ngoại hầu để nhạo-báng, đánh-đập, và đóng đinh trên cây thập-tự; đến ngày thứ ba, Ngài sẽ sống lại.”   Math 20:19

Năm nay bước vào đầu tháng 4/2019 các Hội thánh của Chúa đều chuẩn bị cho Lễ thương khó và Phục Sinh. Qua lời Chúa trong kinh thánh chúng ta hãy suy gẫm như đang đối diện trước một tấm gương soi để thấy tình trạng thuộc linh của mỗi chúng ta và nhờ đó chúng ta có một gương mặt sạch sẽ nhờ xoá bỏ những vết nhơ trong cuộc đời và rồi với nét mặt vui tươi trong sự trông cậy sống mà tiếp tục cuộc hành trình về thiên quốc với sự kêu gọi của Ngài.

I/ SỰ THƯƠNG KHÓ

1/ Dự ngôn về sự thương khó.

“..Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là một môn-đồ về sau phản Ngài” ( Giăng 12:4)  Sự thương khó Chúa phải chịu không phải là ngẩu nhiên! Chúng ta cũng nên tự hỏi lòng mình rằng về sau tôi có phản Chúa không? “Người nói vậy, chẳng phải lo cho kẻ nghèo đâu, song vì người vốn là tay trộm-cắp, và giữ túi bạc, trộm lấy của người ta để ở trong.”(Giăng 12:6).   Chúng ta tự hỏi chính mình có phải là một tay trộm cắp không? Ngày xưa Chúa nhắc nhở dân sự của Chúa các ngươi cả nước ăn trộm của ta. Dân sự hỏi rằng chúng tôi ăn trộm của Chúa ở đâu? Chúa phán các ngươi ăn trộm 1/10 và các của dâng! Nếu chúng ta tiêp tục ăn trộm của Chúa thì hãy coi chừng có ngày chúng ta sẽ phản Chúa. Về phương diện ngôn ngữ thì bản tiếng Anh NIV dùng ngữ “used to” để diển tả trong quá khứ việc Giu đa đã thường xuyên ăn cắp của dâng đựng trong túi mà ông là thủ quỷ của đoàn truyền giáo cất giữ vào việc riêng của ông. Có một tín đồ hỏi tôi tham lam là gi? Trả lời chính xác nhất tham lam là cố tình chiếm đoạt và sử dụng những gì không phải của mình. Tham lam không khác gì thờ hình tượng ( Colose 3:5); tội mà ĐCT ghét nhất. Người thực hiện tham lam tức là mở của lòng cho Sa tan chiếm ngự, trước sau gì cũng phản Chúa.

2/ Sự phản bội đến gần:

“Liền khi Giu-đa đã lấy miếng bánh, thì quỉ Sa-tan vào lòng người. Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng người rằng: Sự ngươi làm hãy làm mau đi.” ( Giăng 13:27) Quỷ Sa tan nhập vào lòng chúng ta khi nào? Ngay khi chúng ta từ chối lời cảnh báo về tội lỗi và thực hiện tội lỗi. Ma quỷ không bao giờ chậm trể đâu! Sa tan lúc nào cũng rình mò chung quanh chúng ta như sư tử rống vậy!

3/ Sự phản bội kín dấu :

“Bấy giờ có một người trong mười hai sứ-đồ, tên là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, đến tìm các thầy tế-lễ cả, mà nói rằng: Các thầy bằng lòng trả cho tôi bao nhiêu đặng tôi sẽ nộp người cho? Họ bèn trả cho nó ba chục bạc.”( Math 26:14,15)  Giu đa bằng lòng lấy 30 miếng bạc để chỉ điểm cho họ bắt Chúa! Lòng tham đã trọn thì tội lỗi, gian ác mấy cũng có thể làm!

4/ Sự phản bội xuất hiện.

“Vả, đứa phản Ngài đã cho chúng dấu-hiệu nầy: Hễ tôi hôn ai, ấy là người đó; hãy bắt lấy và điệu đi cho cẩn-thận. “( Mac 14:44). Một cái hôn phản bội để đời ! Có khi nào chúng ta cố tình phản bội Chúa, phản bội nhau qua một cử chỉ yêu thương hay lời nói mỹ miều để lừa dối không?

5/ Sự phản bội đã trọn.

Chúa đã phải chịu nhục hình trên cây thập tự: chân tay bị đóng đinh , đầu đội mảo gai, Hông bị giáo đâm; huyết Ngài tuôn chảy.  Bấy giờ, Phi-lát bắt Đức Chúa Jêsus và sai đánh đòn Ngài. Bọn lính đan một cái mão triều bằng gai, đội trên đầu Ngài, và mặc cho Ngài một cái áo điều.”  “Người bèn giao Ngài cho chúng đặng đóng đinh trên thập-tự-giá. Vậy, chúng bắt Ngài và dẫn đi.”, “nhưng có một tên lính lấy giáo đâm ngang sườn Ngài, tức thì máu và nước chảy ra.” (Giăng 19 : 1,2,16 ,34).

6/ Tội lỗi đã trọn sanh ra sự chết

Chúa bị giết và chôn, Giu đa bị cáo trách, đem 30 miếng bạc trả cho nhà thờ. Bị từ chối, Giua đa liệng bạc vào nhà thờ và đi thắc cổ tự tử.

“Giu-đa bèn ném bạc vào đền-thờ, liền trở ra, đi thắt cổ.” ( Math 27:5)

7/Sự thương khó Chúa chịu đã hoàn thành

Sau đó, Giô-sép người A-ri-ma-thê, làm môn-đồ Đức Chúa Jêsus một cách kín-giấu, vì sợ dân Giu-đa, xin phép Phi-lát cho lấy xác Đức Chúa Jêsus; thì Phi-lát cho phép. Vậy, người đến và lấy xác Ngài. 39Ni-cô-đem, là người khi trước đã tới cùng Đức Chúa Jêsus trong ban đêm, bấy giờ cũng đến, đem theo độ một trăm cân một-dược hòa với lư-hội. 40Vậy, hai người lấy xác Đức Chúa Jêsus, dùng vải gai và thuốc thơm gói lại, theo như tục khâm-liệm của dân Giu-đa. 41Vả, tại nơi Ngài bị đóng đinh, có một cái vườn, trong vườn đó có một cái huyệt mới, chưa chôn ai. 42Ấy là nơi hai người chôn Đức Chúa Jêsus, vì bấy giờ là ngày sắm-sửa của dân Giu-đa, và mộ ấy ở gần.” (19: 38-42). Bạn có biết một môn đồ nào trong đời bạn là một môn đồ kín dấu mà làm một việc mà những môn đồ xưng là thiêng liêng, mạnh mẽ không dám làm không? Trong bản tiếng Anh NIV cũng xác định Giô sép là môn đồ ( dísciple) kín dấu chứ không phải là tín đồ ( beleiver) có nghĩa là Giô sép đã gia nhập vào những người nghe Chúa giảng dạy về nước trời ( hội thánh ngày nay). Chúa đã dự bị một môn đồ kín dấu để lo việc chôn cất xác Chúa. Chúng ta không cổ xuý môn đồ kín dấu, nhưng chúng ta nên biết được ké hoạch và ý muốn của Đức Chúa Trời để không phạm tội cùng Chúa. Amen

MS JosephNa Nguyen.

(Phần II/ sẽ được tiếp theo sau)

Post Navigation