Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “DƯỠNG LINH”

ĐAU KHỔ TẬN CÙNG

6829286307_1abfa77884_z

(Hình chỉ mang tính minh họa)

Bạn thân mến!

Tôi nhận được tin bạn vừa trải qua một cú sốc lớn trong cuộc đời. Những lời chia buồn của tôi có lẽ cũng khó làm cho bạn vơi đi những nỗi nhớ thương đối với đứa con thân yêu của bạn vừa mới ra đi về nơi yên nghỉ vì bệnh ung thư. Những gì tôi viết ra sau đây hy vọng sẽ giúp đỡ bạn được phần nào trong một sự kiện không mong đợi của gia đình bạn. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về câu hỏi này: Vì sao sự đau khổ lại xảy đến cho những con người chính trực và ngay thẳng như bạn?

Có một sách trong Kinh Thánh đã trở thành niềm cảm hứng cho tôi khi suy ngẫm về nó. Bây giờ bạn có thể đọc tiếp những giòng tôi viết sau đây.

Gióp không thiếu bất cứ thứ gì trong ngôi biệt thự cổ kính của mình. Toàn cả xứ Đông Phương không ai có thể sánh ngang bằng với ông về tư cách, đạo đức, tấm lòng kính sợ đối với Chúa cũng như về tài sản, vàng bạc của ông.  Cơ nghiệp và uy tín của ông làm cho bất cứ ai cũng nghiêng mình thán phục. Các nhà quí tộc trong vùng cung kính mỗi khi gặp ông trong các buổi yến tiệc. Khi nói về ông, họ chỉ có một câu tóm lược: ông ấy vô địch về mọi phương diện, đơn giản vì ông ấy là GIÓP.

Đời sống trên đất của Gióp quá đầy đủ và hạnh phúc khiến Sa-tan cũng phải ganh tị. Nó quyết định tấn công Gióp. Sa-tan đến diện kiến Đấng Toàn Năng và đưa ra một lời thách thức:

-Gióp kính sợ Chúa vì Ngài đưa tay ra ban phước cho ông ấy về mọi phương diện. Nhưng nếu Ngài rút tay lại, ông ấy sẽ nguyền rủa Ngài cho xem.

Sa-tan đã lên một quỉ kế với chiến thuật cướp phá và hủy diệt đời sống của Gióp. Nó trở thành địch thủ của Gióp. Trong bối cảnh này, nó làm mọi việc tùy theo sự chấp thuận của Chúa và không thể làm được điều gì nếu Chúa không cho phép.

Đức Chúa Trời phán bảo Sa-tan:

-Được rồi, tất cả những gì Gióp sở hữu đều nằm trong tay ngươi, nhưng ngươi không được đụng đến cá nhân Gióp.

Sa-tan lui ra khỏi mặt Chúa. Nó chuẩn bị những ngón đòn đầu tiên trên cuộc đời Gióp.

Trong một ngày đẹp trời, khi các con của Gióp đang ăn uống trong nhà của người anh cả, một gia nhân chạy đến báo tin cho Gióp:

-Thưa ngài quí tộc, những con bò của ngài đang cày ruộng, lừa đang ăn cỏ thì quân cướp  Xa-ba sống ở miền Nam sa mạc Á-rập tấn công, cướp lấy tất cả đàn súc vật và giết chết những gia nhân canh giữ. Nhờ ơn Chúa nên tôi thoát được chạy về đây báo tin cho ngài.

Đang khi gia nhân này còn đang trình bày diễn tiến của sự việc với tâm trạng hãi hùng, thì gia nhân thứ hai chạy đến chỗ ngồi của Gióp mang theo lời tấu trình tệ hại khác:

-Thưa ngài, sấm sét từ trên trời giáng xuống đốt cháy hết các bầy chiên và những người chăn. May mà tôi còn sống chạy về đây báo tin cho ngài.

Tai họa dồn dập đến với Gióp, người này còn chưa nói hết thì gia nhân thứ ba chạy về thở hổn hển:

-Quân Ba-by-lôn sống lưu động giữa sông Ơ-phơ-rát và Giô-đanh chia làm ba mũi tiến công cướp hết các lạc đà của ngài và giết chết các tôi tớ. Tôi nhanh chân bỏ của chạy lấy người về đây để báo hung tin cho ngài.

Chưa dừng lại ở đó, một gia nhân thứ tư chạy thục mạng từ bên ngoài vào với giọng nói đầy hốt hoảng:

-Các con trai và con gái của ngài (gồm bảy người con trai và ba cô con gái) đang ăn uống tại nhà người anh cả, thì một trận cuồng phong dữ dội từ sa mạc thổi đến như vòi rồng cuốn phăng đi mọi thứ làm ngôi nhà đổ sập, mọi người đều chết. Không hiểu sao tôi may mắn thoát được chạy đến đây báo tin cho ngài.

Gióp không khỏi bàng hoàng sau khi nghe bốn bản tấu trình thảm hại từ đám gia nhân. Ông đứng dậy xé áo choàng bên ngoài, rồi cạo trọc đầu chứng tỏ tấm lòng ông đau khổ tột cùng. Ông quì sấp mặt xuống đất thưa cùng Chúa Toàn Năng:

-Tôi chào đời trần truồng thế nào, đến khi chết tôi cũng trần truồng trở về. Chúa đã ban cho tôi mọi thứ, bây giờ Ngài lại cất đi. Đáng chúc tụng danh Chúa thay!

Trong từ điển của Gióp không hề có từ “oán giận” hay “bất mãn” với Đấng Toàn Tri. Ông tin rằng Chúa kiểm soát mọi hoàn cảnh mặc dù ông không hiểu tại sao những tai họa kinh hoàng này lại đổ xuống gia đình ông. Thật đáng kinh ngạc cho một nhà quí tộc sau khi đã mất hết mọi thứ, trở về với con số không, ông vẫn tin cậy Chúa hằng hữu!

Trên đây chỉ mới là khúc dạo đầu của Sa-tan trên cuộc đời Gióp. Nó dường như đã ghi được một điểm trong cuộc chiến chống lại tôi tớ của Đức Giê-hô-va.

Sa-tan cũng đến cùng với các thiên sứ trước ngai của Chúa trong một lần khác. Chúa hỏi nó:

-Ngươi từ đâu đến?

-Tôi dạo chơi lang thang trên khắp thế giới.

-Ngươi có nhìn thấy Gióp, tôi tớ của ta. Dù ngươi tấn công tài sản và con cái của nó, nó vẫn là một con người hoàn thiện, không có một lời bất mãn kêu ca.

-Người ta bằng lòng làm mọi cách để tránh đau đớn. Gióp đã có một phản ứng thích hợp. Nhưng nếu Chúa giơ tay ra đụng đến xương thịt của ông ta, ông ta chắc sẽ nguyền rủa Ngài.

Chúa bảo Sa-tan:

-Được rồi, ngươi giỏi lý luận lắm. Gióp ở trong tay ngươi nhưng ngươi không được đụng đến mạng sống của người.

Sa-tan đắc ý lui ra khỏi hiện diện của Chúa. Nó tấn công Gióp lần nữa trên mặt trận thứ hai. Lần này Sa-tan dùng bịnh phung với một hình thức khủng khiếp, cộng thêm biến chứng sùi da, là một chứng dơ dáy và nhức nhối ở Ðông  phương lúc bấy giờ để hành hạ Gióp.

Nó tạo ra vô số vết lở lói đau nhức trên toàn thân thể của Gióp. Từ bàn chân cho đến đỉnh đầu, Gióp chịu cảnh ngứa ngáy vô cùng khó chịu. Gióp ra khỏi thành phố, tự tách mình ra khỏi xã hội theo đúng nghi thức thời đó và ngồi trong đống rác. Ông dùng một miếng sành để gãi khắp người trông thật thảm thương. Cái dáng vẻ quí phái của Gióp không còn nữa. Ông như bị cùi hủi với những vết thương mưng mủ khắp người không giống ai. Sự đau đớn của Gióp lúc này là vô cùng. “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, Gióp đang trải qua những đau khổ tột cùng về mặt thể xác nhưng lạ thay ông vẫn kiểm soát  tư tưởng của mình. Dường như sự đau đớn của cơ thể không khiến tâm trí ông nao sờn. Tinh thần ông vẫn vững vàng như một ngọn núi lớn giữa tiếng gào thét chung quanh của những trận cuồng phong ác liệt. Gióp ngồi trên đống tro trong dáng vẻ sầu khổ đau đớn. Ông không hiểu tại sao điều này xảy đến với mình. Mà tại sao phải tìm kiếm nguyên  nhân của nó trong khi sự sống và cái chết của ông đã đặt trong vòng tay của Chúa hằng hữu? Lòng tin kính của ông đối với Chúa thật lạ lùng mặc dù ông không phải là người Do Thái. Lúc này người vợ thân yêu của ông buông ra một câu nói tiêu cực:

-Tại sao ông cố chứng tỏ bản thân là một người hoàn thiện. Ông đã rơi vào tình huống này thì hãy rủa sả Đấng Toàn Năng và chết phứt đi cho rồi. Sống như ông thì chết là tốt hơn!

Trong ý tưởng của vợ Gióp, bà cho rằng kết quả đời sống tin kính của Gióp là như thế này đây. Vậy thì tại sao không rủa sả Đấng Tối Cao?

Gióp bình thản đáp:

-Bà nói giống như một đứa ngu dốt. Chẳng lẽ điều chi tốt Chúa ban cho thì nhận, còn điều xấu thì không nhận sao?

Thật lạ lùng, tư tưởng của Gióp trong sáng như pha lê. Ông không hề phạm tội trong ý tưởng vì vậy lời ông nói ra không xúc phạm đến Đấng Toàn Tri.

Gióp có ba người bạn thân Ê-li-pha, Binh-đát và Xô-pha. Cả ba là những tiểu vương đương thời đến từ những vùng đất khác nhau. Khi nghe tin hoàn cảnh đau thương của Gióp, họ hẹn với nhau cùng đến thăm ông. Khi nhìn thấy tình cảnh của Gióp, họ sững sờ vì thấy ông đang ở trong sự đau khổ cùng tận. Những người bạn yên lặng cùng ngồi bên cạnh ông trong suốt bảy ngày đêm không thốt lên được lời nào.

Sau bảy ngày yên lặng chia sẻ đau thương với Gióp, các bạn hữu vốn là những ông hoàng sa mạc với nền học vấn và triết lý đương thời bắt đầu lên tiếng.  Cuộc hội ngộ không mong đợi của nhóm bốn người trở thành một hội nghị với chuyên đề về sự đau khổ. Ê-li-pha là người đọc diễn văn chia buồn an ủi Gióp đầu tiên. Những lời Ê-li-pha nói mang tính chất của thần học truyền thống: Chỉ cần kiên nhẫn rồi mọi việc sẽ tốt đẹp. Ê-li-pha nhấn mạnh chúng tôi biết anh là một người đạo cao đức trọng. Vì thế đừng có sờn lòng nhụt chí. Anh đang chịu khổ vì thực ra anh chưa trọn vẹn, hoàn hảo nên cần được xử lý kỷ luật. Nhưng mọi chuyện  sẽ qua đi, anh hãy rán chờ đợi.

Gióp phản biện trước bài diễn thuyết của Ê-li-pha. Ông không dễ dàng chấp nhận những lời an ủi theo cách đó.

Binh-đát đưa ra một diễn văn tiếp theo: Nếu Gióp vô tội anh sẽ không chết, Đấng Toàn Năng sẽ binh vực duyên cớ của anh. Đồng thời Binh-đát cũng khẳng định quan điểm của mình: Con cái Gióp đã phạm tội cùng Chúa, nên Ngài trừng phạt chúng?

Tới lượt Sô-pha kêu gọi Gióp: Hãy gỡ tội lỗi ra khỏi tay anh, đừng để điều ác nào còn lảng vảng trong nhà anh.

Cả ba bạn hữu tới thăm an ủi Gióp, nhưng những gì họ nói chỉ là theo hiểu biết truyền thống. Có ích gì khi chỉ ở trong cái khuôn của những định kiến và giáo điều! Ba ông hoàng sa mạc này đại diện cho sự hiểu biết của con người trong mọi thời đại. Những lời an ủi từ các bạn hữu vô tình trở nên những mũi tên bắn vào vết thương đang đau đớn của Gióp. Vô hình trung họ đến để lên án Gióp nhiều hơn là chia sẻ nỗi đau với ông.

Mỗi lần một người bạn phát biểu thì lập tức sau đó Gióp phản biện bằng một bài thuyết giảng dài dòng. Ai cũng có lập luận của mình, và mỗi người nói theo một cách, giống như bốn anh mù sờ voi, mỗi anh chỉ thấy một phương diện mà không thể thấy hết cả con voi. Mỗi người bạn thấy một phần của vấn đề nhưng họ không thể thấy hết được tất cả mọi thứ. Vấn nạn của sự đau khổ đến trên những con người mà lẽ ra họ được miễn trừ vẫn là một chủ đề hóc búa trong mọi thời đại. Gióp nói nhiều hơn tất cả mọi người cộng lại, ông đã phê phán các bạn hữu:

Còn các ngươi là kẻ đúc rèn lời dối trá, thảy đều là thầy thuốc không ra gì hết…

Châm ngôn của các ngươi chỉ như châm ngôn tro bụi, những thành lũy của các ngươi thật là thành lũy bùn đất” (Gióp 13:4, 12).

Và ông cũng tự binh vực mình:

Chúa biết con đường tôi đi;

Khi Ngài đã thử rèn tôi, tôi sẽ ra như vàng.

Chân tôi bén theo bước Chúa;

Tôi giữ đi theo đường Ngài, chẳng hề sai lệch.

Tôi chẳng hề lìa bỏ các điều răn của môi Ngài,

Vẫn vâng theo lời của miệng Ngài hơn là ý muốn lòng tôi. (Gióp 23:10-12)

Sau các lời phát biểu của ba bạn hữu, Ê-li-hu một người trẻ tuổi xuất hiện. Ê-li-hu đưa ra một quan điểm trung dung giữa quan điểm của Gióp và nhóm ba bạn hữu. Thông điệp của Ê-li-hu nhấn mạnh khổ đau là hồi chuông cảnh báo từ Chúa dành cho con người. Ê-li-hu cho rằng Gióp đã sai lầm khi cáo buộc Chúa bất công. Ê-li-hu cũng ca ngợi quyền năng và sự khôn ngoan của Đấng cai trị trên mọi sự. Ông khuyên Gióp không nên ta thán mà hãy kêu cầu cùng Chúa về những khổ nạn của mình. Những gì Ê-li-hu thuyết giảng cũng mang trong đó một chút kiêu hãnh của tuổi trẻ. Gióp không thể thỏa lòng từ những gì bạn bè chia sẻ, ông phải đối diện với Đức Chúa Trời để nhận ra bài học Chúa muốn dạy.

Không ai nghi ngờ thiện chí của các bạn hữu Gióp, nhưng rồi họ đã nói một cách không xứng đáng về Chúa là Đấng tối cao, và những bài diễn thuyết dài dòng của họ chỉ  làm cho Gióp thêm đau khổ, khiến ông có lúc cũng đã sai sót trong những lời nói. Dĩ nhiên trong Gióp có hai con người: Gióp kiên nhẫn và Gióp thiếu kiên nhẫn. Gióp, tôi tớ của Đức Giê-hô-va là một người trọn vẹn, nhưng đồng thời cũng là một con người với những giới hạn thông thường khó vượt qua. Thế nhưng trong mọi suy tưởng và lời nói, Chúa đã nhìn nhận Gióp là luôn nói về Ngài một cách đúng đắn. Gióp đã có những tranh luận với Chúa, nhưng ông luôn tin cậy Ngài bất luận trong hoàn cảnh nào. Câu nói nổi tiếng của ông: “Dù Chúa giết tôi, tôi vẫn còn tin cậy nơi Ngài” (Gióp 13:15)

Gióp là một người công nghĩa vào thời đó trong cái nhìn của Chúa. Nhưng người công nghĩa vẫn phải đi qua những mất mát, đau thương trong cuộc đời. Không có ai trên thế giới này được miễn trừ điều đó. Đau khổ là một phần tất yếu của cuộc sống!

Gióp, hiện thân của con người công nghĩa chịu đau khổ. Nhưng đến cuối cùng qua cơn thử thách Chúa đã bù đắp cho ông. Gióp đã đối mặt cùng Chúa, khi Ngài hỏi ông những câu hỏi thì mọi lý luận trong tâm trí Gióp sụp đổ và ông ngộ ra một bài học lớn:

“Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa,
Nhưng bây giờ, mắt tôi đã thấy Ngài:
Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi,
Và ăn năn trong tro bụi.” (Gióp 42:5-6)

Lòng ông tan chảy khi ông đối diện với những câu hỏi mang tính dạy dỗ của Đấng toàn năng. Nếu Gióp không trả lời được các câu hỏi của Đức Chúa Trời về vũ trụ, vạn vật, thì làm sao ông có thể hiểu nổi huyền nhiệm về sự đau khổ, đặc biệt là nó được dành cho những con người công bình chính trực? Gióp đã có những sai sót trong lời nói hướng về Chúa. Nhưng lạ thay Chúa vẫn đánh giá ông là một con người ngay thẳng.

Sứ điệp của Ðức Chúa Trời từ trong gió lốc ở phần cuối của sách đã tỏ ra một phần ý chỉ của Ngài. Chúa cho biết con người hữu hạn không thể hiểu biết mọi sự huyền nhiệm vô hạn của Ngài trong công cuộc sáng tạo và cai trị vũ trụ. Bởi vì tâm trí loài người có giới hạn, và họ sống trong một thế giới mà mỗi ngày họ thấy những điều khó hiểu, hơn nữa họ ở dưới những quyền lực mà tự mình không thể chống lại được.

Gióp đã đi qua những thử thách khó khăn và ông đã vượt qua bởi ân sủng của Chúa. Điều chắc chắn là bản thân Gióp đã được trang bị một tinh thần vững vàng trong nghịch cảnh, nên những gì ông nói phản ánh tính cách của một nhà quí tộc kính sợ và tin yêu Chúa. Và cuối cùng Chúa bù đắp cho Gióp gấp đôi những gì ông đã bị Sa-tan tước mất.

Chúa biết con đường Gióp phải đi qua, và Ngài tạm thời cho phép Sa-tan tấn công khủng bố Gióp trong một giới hạn, nhưng chắc chắn Chúa luôn gìn giữ tôi tớ của Ngài.

Sa-tan luôn luôn là một kẻ chiến bại!

Bạn thân mến!

Bạn đang trải qua những khổ nạn trong cuộc sống? Những  gì bạn đối diện có so sánh được với Gióp? Hãy nhìn vào những hoàn cảnh đau thương chung quanh chúng ta. Mỗi ngày trôi qua trên thế giới này có rất nhiều cuộc đời đang sống trong những nỗi bất hạnh. Nguyên nhân nào? Tại sao phải tìm kiếm nguyên nhân trong khi cuộc đời của bạn và tôi đã đặt trong vòng tay của Chúa hằng hữu? Nguyên nhân của sự khổ đau vẫn còn là một huyền nhiệm với tâm trí con người. Phản ứng của chúng ta trong sự khổ nạn thì quan trọng hơn là tìm biết lý do của nó.

Một ai đó đã nói: Tôi thà tiếp tục tin cậy Chúa thành tín, tốt lành  còn hơn là tìm kiếm câu trả lời cho hoàn cảnh của tôi.

“Tôi trần truồng lọt khỏi lòng mẹ, và tôi cũng sẽ trần truồng mà về; Đức Giê-hô-va đã ban cho, Đức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Đức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21).

TƯỜNG VI

467 lượt xem tại: http://songdaoonline.com/e2917-dau-kho-tan-cung-tuong-vi-bai-chon-dang-130-.html

 

TRÁI TIM GÓA PHỤ

 images728839_1346658372_Vong_phu_o_Phu_Khanh

Thùy Dương nhìn hai đứa con đang ngủ mà lòng dạ ngổn ngang trăm mối. Làm thế nào để nuôi con và tiếp tục đưa chúng đến trường? Thằng cu Tín 8 tuổi đang học lớp 2. Bé Ti 6 tuổi lớp 1. Ba của chúng nó ra biển trên một chiếc ca-nô ba lốc máy đánh bắt cá xa bờ đã hơn một tháng nay không trở về. Đồn biên phòng Cổ Lũy cho biết chiếc thuyền đánh cá mà chồng của Thùy Dương là thuyền viên gắn bó sáu năm nay  mang số hiệu QN 38597-ST xem như mất tích sau bốn tuần tìm kiếm. Cơn bão số 12 đi qua đã làm cho ba chiếc thuyền đánh cá ra đi từ Bình Châu, Quảng Ngãi biến mất không dấu vết.

Thùy Dương lập lên một bàn thờ với tấm ảnh chân dung của chồng, và khấn vái: Anh Trung ơi, nếu anh có linh thiêng thì phù hộ cho mẹ con em. Em muốn có việc làm và thu nhập tốt để nuôi cu Tín, bé Ti khôn lớn thành người.

Gạt đi những giọt nước mắt buồn, Thùy Dương đi vào nhà bếp ngồi xuống và hy vọng. Biết đâu anh ấy còn sống và trở về thì sao? Chắc mình mừng chết mất!  Nhìn vào thùng gạo. Ấy chết, hết trơn rồi. Bây giờ thì lấy tiền ở đâu ra để mua gạo? Đã ba ngày nay chị và hai đứa bé chỉ ăn cơm với nước tương, rau muống cầm hơi qua ngày. Liệu mình có vượt qua được cửa ải này không? Thùy Dương miên man suy nghĩ.

Có tiếng gõ cửa bên ngoài, Thùy Dương nhìn ra, đó là bà Tư hàng xóm qua thăm và biếu cho ba gói mì tôm. “Nè, ăn đỡ gói mì. Còn nước còn tát mà. Biết đâu ngày mai thằng chồng mày nó trở về.”  Tiếng bà Tư bùi ngùi.

“Cám ơn bà, thiệt tình cháu không biết ngày mai sẽ ra sao. Liệu có hy vọng gì không, khi mà mỗi ngày trôi khả năng chồng con trở về càng mỏng manh.” Thùy Dương nói trong dòng nước mắt.

Thùy Dương trở thành đá vọng phu, cứ mỗi hoàng hôn, nàng ra biển nhìn về hướng chân trời xa nói chuyện với gió biển và những con sóng bạc đầu qua bao năm dường như vẫn vô tình lẳng lơ cùng bãi cát với hàng dương liễu lưa thưa.

Trung ra đi vĩnh viễn không về. Có lẽ bây giờ chiếc thuyền và anh đã tan xác pháo chìm xuống một nơi nào đó dưới lòng đại dương mênh mông.

“Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ, nhưng biển cũng là nghĩa trang chôn lấp biết bao người…”. Thùy Dương thầm nghĩ. Mình sẽ làm gì trong những tháng ngày sắp tới để nuôi con? Đối với nàng đó là một câu hỏi lớn.

Cơn bão số 12 khủng khiếp trong năm nay gieo tang tóc cho mười sáu gia đình ở Bình Châu, Quảng Ngãi. Người chồng, cột trụ của gia đình ngã xuống, còn lại những góa phụ với đàn con nheo nhóc. Cuộc sống đôi khi thật nghiệt ngã, dường như không có gì hợp lý cả trong trường hợp của Thùy Dương. “Đời là bể khổ, mình sẽ còn khổ đến bao giờ?” Thùy Dương nói với chính mình.

Thùy Dương tìm kiếm một việc làm phù hợp để có thể nuôi con. Những năm qua người phụ nữ này chỉ biết việc nhà, nội trợ và… nuôi con. Bây giờ  cuộc sống  trở nên khó khăn trăm bề. Gia đình nội ngoại của Thùy Dương cũng nghèo lắm. Nếu có giúp đỡ được gì thì cũng chỉ mang tính tượng trưng thôi. Thùy Dương phải xoay xở mọi cách để có thể tồn tại….

Không lâu sau đó trên con đường làng xuất hiện một phụ nữ với gánh đậu hũ. Mọi người đều biết đó là Thùy Dương. Chưa vượt qua tuổi ba mươi nên vóc dáng của nàng còn rất xinh xắn. Khi cô ấy đi qua với gánh đậu hũ trên đôi vai gầy, mọi người đều thương và gọi lại mua ủng hộ. Năm ngàn một chén đậu hũ với nước đường đen trông thật hấp dẫn. “Chị Dương cho em hai chén.” Tiếng của một cô gái trẻ gọi í ới. “Ồ, anh Trung ra đi, bây giờ chị phải gánh đậu hũ đi bán sao?” Thùy Dương mỉm cười mà như mếu: “Biết làm thế nào được, chị phải làm  một cái gì để kiếm sống chứ!”

Dưới cái nắng tháng sáu như đổ lửa trên những con đường làng ở huyện Bình Sơn, Thùy Dương sớm tối đi về, một mình một bóng với gánh hàng rong trên vai. Cuộc sống ơi, ta chào mi. Bạn thân ơi, hãy vui lên vì cuộc đời còn nhiều lý do để sống. Thùy Dương tự động viên mình.  Vâng, mình  phải sống vì tương lai của cu Tín và bé Ti. Đôi vai này gánh nặng hai con, trái tim yêu thương này dành cho chúng nó. Người ta nói gà trống nuôi con, còn mình gà mái nuôi con là đúng rồi. Trời sinh voi sinh cỏ, tại sao phải lo sợ cái ăn cái mặc và chuyện học hành của các con. Ta phải sống vì nắng ấm vẫn còn gọi mùa Xuân đến với đời.

“Nè, cô em kia cho tôi một chén đậu hũ.”  Một tiếng gọi của ai đó từ dưới bờ kênh vang lên. Thùy Dương dừng lại, trước mặt chị  là một người đàn ông. “Vâng, có ngay, anh chờ một chút.”  Thùy Dương múc đậu hũ vào chén trong khi người đàn ông nhìn chằm chằm vào khuôn mặt đẫm mồ hôi của chị với một tâm trạng phấn chấn khó tả. Người góa phụ trẻ vẫn đẹp lạ lùng  dưới cái nắng mùa Hè gay gắt. Đôi má chị dường như ửng đỏ làm tăng thêm nét quyến rũ mà dịu dàng của một phụ nữ miền duyên hải không cần trang điểm. “Cô em ơi, tôi muốn mua luôn hết cái gánh đậu hũ này”. Rồi, vậy là hôm nay mình gặp quí nhân. Coi chừng, ta phải cẩn thận thôi. Thùy Dương cảnh giác: “Ồ không, tôi chỉ bán lẻ từng chén chứ không bán nguyên gánh”. “Cô này lạ nhỉ tôi muốn mua hết gánh cơ, tôi sẽ trả tiền sòng phẳng mà!” Người đàn ông biện luận. “Thôi đi anh Hai, để em còn đi buôn bán nữa, đừng có giỏi mà chọc ghẹo người ta”. Lời qua tiếng lại, câu chuyện đã bắt đầu và người đàn ông dường như không muốn kết thúc, còn Thùy Dương thì rất muốn đi nhưng không dễ dàng để dứt ra được trong tình cảnh này. Sự đời là thế. Đã có hai đứa con rồi vẫn còn có người nói chuyện bướm hoa. Mình phải làm sao đây? ….

Người đàn ông tự giới thiệu anh ta tên Hiệp, còn gọi là Hiệp Cút vì đang có một trại chăn nuôi chim cút ở Bình Hiệp. Anh ta góa vợ và tình cờ biết Thùy Dương là một góa phụ xinh đẹp nên rất muốn tiến tới… góp gạo nấu cơm chung. Thùy Dương vẫn còn ôm trong lòng nỗi nhớ thương chồng da diết, nàng chưa nghĩ đến chuyện bước thêm bước nữa cho dù cuộc sống của ba mẹ con nàng có lẽ cũng cần một đôi vai lực lưỡng nào đó để dựa vào. Thôi ta đành  xếp chuyện này lại vậy. Thời gian thư thả rồi sẽ tính sau. Những suy nghĩ miên man tự động đến trong lòng người góa phụ trẻ.  Hiệp Cút dù rất muốn bước vào cuộc sống của người phụ nữ kia, nhưng nàng đã đóng cửa lại rồi, thôi mình sẽ chờ một cơ hội khác. Mới gặp lần đầu tiên đâu có dễ gì chinh phục được đối phương. Có thể sau dăm ba tháng nữa khi mà tình thế đã chín mùi cho một cuộc tấn công, ta sẽ nắm lấy cơ hội. Hai người theo đuổi hai hướng suy nghĩ khác nhau, tạm thời họ vẫn là hai cánh chim bay lệch hướng, không biết ngày mai tình thế có cải thiện được không?

Thùy Dương sáng đi chiều về với gánh đậu hũ trên vai. Hai đứa con nhỏ tạm thời gởi cho ông bà nội trông coi. Cuộc đời góa phụ bán gánh hàng rong cũng vừa đủ tiền cho hai đứa con ăn học.  Mỗi ngày nàng thức dậy từ 3 giờ sáng để chuẩn bị, 6 giờ là ra khỏi nhà. Với gánh đậu hũ trên vai, nàng sải bước chân trên hai mươi cây số qua những con đường làng quen thuộc để mưu sinh. Những buổi trưa Thùy Dương dừng lại dưới một gốc cây ven đường nghỉ ngơi, ăn cơm mang theo từ trong một hộp nhựa, rồi lại tiếp tục hành trình. Năm giờ chiều về đến nhà, đón hai đứa nhỏ từ nhà ông bà nội gần đó. Cuộc sống cứ thế xoay vần, những ngày mưa gió thì tạm nghỉ.

Vào một ngày kia khi Thùy Dương đi ngang qua một ngôi nhà ở Bình Hiệp, nàng nghe một giọng phụ nữ từ bên trong sân vườn:

-Chị ơi dừng lại, tôi mua đậu hũ.

-Cô mua bao nhiêu chén?

-Tôi mua 15 chén, à không 17 chén.

-Cô mua cho ai  mà nhiều vậy?

-Tôi mua cho các em sinh viên đang học Lời Chúa trên gác kia.

Thùy Dương múc 17 chén đậu hũ cho người phụ nữ. Chỉ 5 phút sau đó một nhóm sinh viên cả nam lẫn nữ từ trên gác kéo xuống sân vườn trong giờ nghỉ giải lao giữa buổi.

-Cám ơn cô Sa-ra đã mua đậu hũ cho chúng em. Một giọng nữ sinh trong trẻo vang lên

-Các em cũng nên cám ơn người bán nữa chứ.

Thùy Dương mỉm cười, vậy là mình biết tên người phụ nữ kia rồi. Sa-ra, cái tên gì lạ quá, chưa nghe bao giờ. Đám thanh niên vây quanh lấy gánh hàng rong:

-Đậu hũ này ngon quá, chị cho em một chén nữa.

Sa-ra can thiệp:

-Mỗi người chỉ có một chén theo tiêu chuẩn, ai muốn ăn thêm phải trả tiền.

-Không thành vấn đề,  hôm nay em sẽ trả hết cho cả lớp. Lớp trưởng Ngọc Bích lên tiếng.

Hôm đó Thùy Dương múc ra 34 chén đậu hũ. Ít khi nàng bán được nhiều như thế này chỉ trong một ngôi nhà. Nhưng lần đó Thùy Dương còn được nhiều hơn.

Đang khi ăn, nhóm sinh viên hỏi thăm gia đình của Thùy Dương và các em làm chứng về Chúa Jesus Christ cho nàng:

-Chị Dương nè, Chúa Jesus Christ yêu thương chị và Ngài đã chết thay cho chị trên thập tự giá. Ngày hôm nay Chúa đang mời gọi chị hãy đến với Ngài: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.” (Ma-thi-ơ 11:28). Khi chị đến cùng Chúa, chị sẽ nhận được sự cứu rỗi. “Kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu.” (Giăng 6:37). Cuộc đời chị sẽ thay đổi khi chị có Chúa Jesus làm chủ.

Trước khi rời khỏi căn nhà đặc biệt đó Thùy Dương còn được tặng một cuốn Tân Ước và vài quyển sách nhỏ giới thiệu về cuộc đời Chúa Jesus.

-Ngày mai chị nhớ ghé tới đây. Chúng em sẽ mua ủng hộ. Một nữ sinh nói.

-Vâng nếu các em nói như thế, chị sẽ ghé.

Một em nữ sinh rất chân tình tiễn chân Thùy Dương ra khỏi cổng, và nói:

-Em sẽ cầu nguyện cho linh hồn của chị. Xin Chúa ban phước cho chị và hai con của chị.

Rời khỏi ngôi nhà của ông truyền đạo Phi-líp Tráng, Thùy Dương thong thả ra về. Gánh đậu hũ cũng vừa hết. Đâu đó trên ngọn tre dọc bờ kênh những con chim sẻ kêu ríu rít như chúc mừng Thùy Dương hôm nay bán hàng hết sớm hơn mọi hôm. Trên đường về Thùy Dương suy nghĩ mông lung về những gì cô đã nghe được từ đám sinh viên trẻ tuổi kia.

Trong đêm đó Thùy Dương không ngủ được sau khi đọc xong quyển sách nhỏ giới thiệu về cuộc đời Chúa Jesus. Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời, cô đọc một quyển sách như vậy. Có một điều gì đó trong quyển sách làm tâm hồn cô bừng tỉnh. Sáng hôm sau cô thức dậy với một tâm trạng háo hức. Thùy Dương tự nói với chính mình: Hôm nay mình sẽ đến ngôi nhà hôm qua.

Với gánh hàng trên vai, Thùy Dương tiếp tục ra đi đơn độc trên con đường làng quen thuộc, bóng nàng phủ xuống bờ kênh với đòn gánh trên vai, hai đầu gánh lủng lẳng vò đậu hũ và ly chén. Nàng lại đến ngôi nhà hôm qua vào lúc 3 giờ chiều, vừa đúng lúc nhóm sinh viên nghỉ giải lao giữa buổi trong giờ học Kinh Thánh.

-Ồ, chào chị Dương, chị đến vừa lúc chúng em được nghỉ giải lao. Một em sinh viên cao giọng.

-Đến hẹn lại lên. Thùy Dương đáp lại với một nụ cười.

Các em sinh viên ở đây đang theo học một chương trình Kinh Thánh vào mùa Hè tại một hội thánh tư gia. Môn học các em đang học và thực hành là Môn Đồ Hóa. Thùy Dương đã đến trong hoàn cảnh đó và ngẫu nhiên cô ấy trở thành đối tượng thực tập cho nhóm sinh viên.

Vừa ăn đậu hũ, vừa trò chuyện, Thùy Dương bị cuốn vào những câu hỏi và giải thích của các em sinh viên về Phúc Âm của Chúa Jesus Christ. Trong lòng Thùy Dương bỗng dưng cảm nhận ra sự chân tình và yêu thương của mọi người, cô ấy hỏi:

-Tôi phải làm gì để được sự cứu rỗi?

Cả lớp học Kinh Thánh chờ đợi câu hỏi ấy từ lâu, và lớp trưởng Ngọc Bích trả lời:

-Hãy tin Chúa Jesus, thì chị và cả nhà chị sẽ được cứu.

-Tôi tin. Các em hãy hướng dẫn tôi.

Thùy Dương cầu nguyện tiếp nhận Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa theo lời hướng dẫn của Ngọc Bích. Cuộc đời của góa phụ trẻ tuổi thay đổi từ đây.

***

Hai năm sau.

Thùy Dương đi cùng với Hiệp Cút đến nhà ông truyền đạo Phi-líp Tráng. Lần này trên vai người góa phụ không còn gánh hàng rong. Ông truyền đạo mở cửa:

-Xin chào hai người, mời vào nhà.

Thùy Dương trình bày câu chuyện của mình: “Tôi đã làm chứng về Chúa Jesus Christ cho anh này, và anh ấy bằng lòng tin Chúa. Chúng tôi đến đây để nhờ thầy truyền đạo hướng dẫn anh ấy hội nhập với hội thánh”.

Thật tuyệt vời! Hiệp Cút học giáo lý báp tem và trở thành thành viên chính thức của hội thánh chỉ ba tuần sau đó.

Ông truyền đạo quản nhiệm trắc nghiệm những câu hỏi liên quan đến đức tin cá nhân của Hiệp Cút. Anh tân tín hữu này trả lời chân thành và trôi chảy. Hiệp Cút cũng đã từ bỏ được hình tượng, thuốc lá và rượu đế, vốn là những món không thể bỏ được trước đây của anh ta. Đáng mừng hơn, anh này còn quyết định dâng mình hầu việc Chúa.

Một cuộc hôn  nhân lần thứ hai dường như đã sẵn sàng chờ đợi Thùy Dương. Không bao lâu sau đó, Hiệp Cút và Thùy Dương trở thành một cặp đôi hoàn hảo trong Chúa. Bây giờ Hiệp là nhân sự truyền giáo của hội thánh, còn Thùy Dương cảm nhận là cuộc đời nàng còn nhiều lý do để sống và phấn đấu trong ơn Chúa. Hai vợ chồng này dự phần hầu việc Chúa với hội thánh địa phương tại Bình Hiệp. Cuộc sống của họ thật ý nghĩa biết bao!

                                                               MỸ LOAN 

 

74 lượt xem tại: http://songdaoonline.com/e2876-trai-tim-goa-phu-my-loan-bai-chon-dang-120-.html

THI THIÊN 23

clip_image001_0094

Lượt  ghi bài giảng của Ms Hội trưởng Nguyễn Đức Na cho Hội thánh Tin lành Liên hiệp Thới Tân 1, Cần thơ.

ĐỨC GIÊ-HÔ-VA LÀ ĐẤNG CHĂN GIỮ TÁC GIẢ

Thơ Đa-vít làm

1 Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi; tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì.

2 Ngài khiến tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi

Dẫn tôi đến mé nước bình tịnh.

3 Ngài bổ lại linh hồn tôi,

Dẫn tôi vào các lối công bình, vì cớ danh Ngài.

4 Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết,

Tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng tôi:

Cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi.

5 Chúa dọn bàn cho tôi

Trước mặt kẻ thù nghịch tôi;

Chúa xức dầu cho đầu tôi,

Chén tôi đầy tràn.

6 Quả thật, trọn đời tôi

Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi;

Tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va

Cho đến lâu dài. 

 

Đoạn Thi Thiên này chỉ có 6 câu của tác giả Đa-vit mà hầu hết con cái Chúa đã được nghe giảng nhiều lần, thậm chí còn đọc được thuộc lòng nữa.

Dầu vậy tôi được Chúa thúc dục chia xẻ lời Chúa TT 23 này cho anh chị em với 3 ý chính sau đây:
1. NGÀI BỔ LẠI LINH HỒN TÔI

Trước hết tác giả khẳng định mình là chiên của Chúa và chính Chúa là Đấng chăn giữ mình . Chúa dùng hình ảnh con chiên để gọi một con dân của Ngài. Hình ảnh bầy chiên để gọi hội thánh Ngài. “Hãy chăn Hội thánh của Đức-Chúa-Trời mà Ngài đã mua bằng chính huyết của mình.” Công vụ 20: 28 ( Be shepherds of the church of God which he bought with his own blood ). Bản  chất của con chiên là hiền lành, bản năng tự vệ của nó là chạy tránh các thú dữ. Bản chất phục vụ cho nhân quần xã hội rất cao. Chiên sẳn sàng để cho người ta hớt lông của nó theo định kỳ để chế tạo ra y phục ấm cho con người.

Chúa Jesus cũng đã xác định “Ta là Đấng chăn chiên hiền lành, ta biết   chiên ta và chiên ta biết  ta.” ( lu-ca 10:14) ” I am the good shepherd, I know my sheep and my sheep know me “

Chúa  bảo chiên của Ngài “Ai vả ngươi   má bên này  thì đưa luôn ma  bên kía. Ai lột áo ngoài của ngươi thì cũng đừng ngăn họ lấy luôn áo trong.( Lu-ca 6:29 ) .” If soneone strikes you on one cheek, turn to him the other also. If some one takes your cloak, do not stop him from taking your tunic ” ( NIV). Điều này nhắc nhở chiên của Chúa không gây gỗ, không  xung đột với ai, nhường nhịn không hơn thua. Vì  bản tính hiền lành nên Chính Chúa là Đấng chăn giữ bầy của Ngài.

Thức ăn của Chiên là cỏ xanh, vậy thức ăn của anh chị em là gì? – là lời Chúa. Sáng hôm nay chúng ta đang ăn trên một bải cỏ xanh tươi là Thi Thiên 23.

Ăn cỏ no nê, chiên phải uống nước trong. Ngài dẫn bầy chiên  Ngài đến mé nước bình tịnh, tức là nước trong, lắng đọng, không vẫn đục. Nước mà chúng ta uống vơi tư cách là chiên là nước nào?- Đức Thánh Linh . Khi chúng ta ăn nuốt lời Chúa , chúng ta cầu xin và để cho Đức Thánh Linh dạy dỗ, an ủi và thậm chí cáo trách để cho đời sống tâm linh của chúng ta trở nên tươi mới gắn kết bền chặc với Đấng chăn dắt chúng ta.
Khi chúng ta, chiên của Chúa, no nê sung mãn trong đời sống tâm linh với sự chăm sóc của Ngài thi dù cho chúng ta có đi trong trủng bóng chết, chúng ta cũng chẳng sợ tai hoạ nào. Và cho dù chúng ta đi trong trủng khóc lóc thì mưa sớm cũng phủ phước cho chúng ta ( TT 84:6 ).” As they pass through the Valley of  Baca, they make it a place of springs; the autumn rains also  cover it with pools ” ( NIV)

2. CHÉN TÔI ĐẦY TRÀN

Chúa không chỉ ” bổ lại linh hồn tôi.” tức là Chúa lo cho đời sống tâm linh của chúng ta mà Ngài cũng lo cho “chén” của chúng ta nữa. Chén ở đây tượng trưng cho cơm, áo, gao, tiền, tức là những nhu cầu vật chất cho đời sống thuôc thể nữa. Lời Chúa khẳng định với chúng ta rằng khi chúng ta nhận biết Đấng lấy vinh hiển và lòng  nhơn đức kêu gọi chúng ta thì Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi nhu cầu về đời sống thuôc linh và đời sống thuộc thể. “His devine power has given us everything we need for life and godliness through our knowledge of him who called us by his own  glory and goodness”. ( NIV II Peter 1:3)

Có một điều vô cùng quan trọng mà tôi muốn bày tỏ cho anh chị em.
Thứ tự mà anh chị em tìm kiếm mà phù hợp với sự dạy dỗ của kinh thánh thi anh chị em se đạt được: Đó là tìm kiếm điều thuộc linh trước, điều thuộc thể sau. Chính Chúa Jesus phán dạy chúng ta rằng trươc hết hãy tìm kiêm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, rồi thì Ngài sẽ ban cho anh chị em mọi điều ấy nữa. “But seek first his kingdom and his righteousness, and all these things will be given to you as well.”  (Luke 6:33 )
Tôi lấy đức tin và từng trải cuộc sống bảo đãm với anh chi em rằng anh chị em tìm kiếm theo thứ tự Chúa dạy thì chắc chắn sẽ được như vậy.

Nếu làm ngược lại, tức là tìm kiếm cho thuộc thể trước rồi thuộc linh sau thì chắc chắn không bao giờ thoả mãn được. Cụ thể làp  ngày nghỉ  Chúa bảo làm ngày thánh để lo cho đời sống tâm linh trước , nhưng có người đi tìm vật chất trong ngày thánh rồi chuyện tâm linh sẽ tính sau, thì không bao giờ no đủ cho cả đời sống tâm linh và vật chất được.

 Còn ai theo Chúa mà chỉ tìm kiếm và trông cậy về đời này mà thôi, thì trong cả mọi người, thì chúng ta là kẻ đáng thương hại hơn hết. 

 ” If only for this life we have hope in Christ, we are to be pittied more than all men.” Đáng thương, tội nghiệp cho hạng người như thế vì họ nhầm lẫn sự cứu chuộc và sự chăm sóc của Chúa đối với bầy chiên của Ngài.

3. CHÚA XỨC DẦU CHO ĐẦU TÔI

Khi một đời sống sung mãn cả về tâm linh lẫn thể xác,Chúa sẽ xức dầu để phuc sự Ngài. Xức dầu là dấu chỉ được Đức Chúa Trời sử dụng. Lu- ca khẳng định rằng Thần của Chúa  ngự trên  ta. Ngài xức dầu cho ta để giảng Tin lành cho người nghèo ” The Spirit of the Lord is on me, because he has anointed me to preach good news to the poor.” ( Luke 4:18 )

Quả thật một đời sống được sự chăn dắt của Chúa, được Chúa sử dụng cho công việc thánh của Ngài  thì không có gì phước hạnh cho bằng. Và chắc chắn sẽ ở trong nhà Chúa ngay ở trần thế nầy và trong nước đời đời của Ngài.

TTV Hướng Dương

 

ẢNH HUỞNG CỦA CƠ ĐỐC NHÂN

Những sử gia của Hội Thánh trên thế giới cho rằng có hai ảnh hưởng tích cực của Hội Thánh Hàn Quốc trên Cơ Đốc giáo thế giới, quý vị có biết hai điều đó là gì không ?

Thứ nhất là sự cầu nguyện vào buối sáng. Hiếm nơi nào trên thế giới có thể tìm thấy hình ảnh tín đồ dậy từ lúc bình minh để cầu nguyện. Nhưng tại Hàn Quốc thì nơi nơi đều có chương trình cầu nguyện buổi sáng. Hội Thánh Hàn Quốc ảnh hưởng tích cực trên Hội Thánh thế giới bằng đời sống cầu nguyện buổi Sáng.

Trên khắp thế giới, khó có thể tìm thấy những tín đồ dậy sớm cầu nguyện. Nhưng tại Hàn Quốc, cầu nguyện buổi sáng là một làn sóng đang dậy lên khắp nơi. Thông qua thì giờ cầu nguyện buổi sáng này, những lời cầu nguyện nài xin lên Đức Chúa Trời hằng sống sẽ dẫn đến sự chúc phước lạ lùng. Lòng sốt sắng cầu nguyện thông qua thì giờ cầu nguyện buổi sáng đang đóng vai trò xức dầu cho ngọn lửa cầu nguyện của Hội Thánh thế giới.

Thứ hai là KOSTA. Các nhà truyền giáo học của thế giới cho rằng không một nước nào trên thế giới mà lòng sốt sắng rao truyền Phúc âm ở cả trong nước và vươn tới du học sinh như Hàn Quốc. Khắp mọi nơi trên thế giới, khi hàng ngàn hàng vạn du học sinh bắt đầu nhóm lại, không chỉ du học sinh Hàn mà cả những người Hàn thế hệ 2 cũng bắt đầu nhóm lại. Họ nhóm lại cầu nguyện với ước mong Đức Chúa Trời sẽ hành động tại những khu vực họ sinh sống.

Năm 1986, 100 năm sau khi vị giáo sĩ đầu tiên mang Phúc âm đến mảnh đất này, vào một buổi sáng sớm Phục sinh năm 1885, tại Nhà dưỡng linh gần một cái hồ ở ngoại ô Washington, 250 sinh viên trẻ đã nhóm lại để chào đón sự ra đời của KOSTA.

Trong vòng 100 năm qua, Đức Chúa Trời đã ban cho hội thánh Hàn Quốc phước hạnh vô ngần thông qua chương trình cầu nguyện buổi sáng. Chúa đã cho HT Hàn quốc nếm trải những ân phúc lạ lùng mà các Hội Thánh khác trên thế giới không kinh nghiệm được. Trong ơn Chúa, HT Hàn quốc đã tổ chức được các trại bồi linh dành cho du học sinh – điều mà không một nước nào trên thế giới này có thể tưởng tượng được.

KOSTA được thành lập vào thời kỳ cực kỳ ảm đạm. Người ta tưởng rằng chỉ cần đánh đổ nhà độc tài duy tân, tức tổng thống Park Jung Hee, chỉ cần một nhà độc tài chết thì đất nước sẽ được dân chủ hóa ngay nhưng thực tế thì không phải như vậy. Bởi vì ngay sau khi Tổng thống Park Jung Hee bị ám sát, chính quyền của Chun Do Hwan – một kẻ tàn bạo hơn – lên nắm quyền. Thế hệ sinh viên vô cùng tuyệt vọng. Đó là thời kỳ mà vô số thanh niên tự thiêu. Chúng ta có thể lấy ngôn từ nào để diễn tả hết nỗi tuyệt vọng lúc bấy giờ ? Cứ như vậy, những người trẻ đã dần dần đánh mất niềm hy vọng. Đúng lúc ấy, Đức Chúa Trời đã dấy lên những đầy tớ của Ngài tại một buổi nhóm nhỏ tại ngoại ô Washington. Lúc ấy, chúng ta chưa hiểu hết ý nghĩa của buổi nhóm đó. Lúc ấy, chúng ta đã bắt đầu với một tấm lòng đơn sơ như vậy.

Thứ nhất, khải tượng của KOSTA, ấy là làm bùng lên lòng nhiệt thành ấy để cứu rỗi vô số những linh hồn hư mất, những linh hồn bị ruồng bỏ, những linh hồn cô độc, những linh hồn tự sát, những linh hồn sống không có Đức Chúa Trời, không có Chúa Giê-xu Christ. Đây chính là thập tự giá. Qua thập tự giá, chúng ta được cứu rỗi linh hồn và tội nhân được trở nên con cái Đức Chúa Trời.

Thứ hai, khải tượng thứ hai là phục vụ. “Bởi Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu-ca 19:10).

Vậy vai trò của KOSTA là gì ? vai trò của KOSTA là làm tròn đạo lý đức tin. Dù trong giới chính trị hay kinh tế hay văn hóa hay làm việc bất cứ việc gì, thành viên của KOSTA phải làm tròn nguyên tắc về niềm tin nơi Chúa Giê-xu, không phải vật lộn để rồi chỉ một mình ăn sung mặc sướng nhưng phải tin Chúa với mong ước “Bởi con, xin Chúa hãy chúc phước cho đất nước này ! Xin Chúa hãy chúc phước cho dân tộc này !”

Vai trò của Cơ Đốc nhân trong thời đại này là làm tròn đạo đức của một Cơ Đốc nhân. Làm tròn đạo đức của một người tin Chúa Giê-xu trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa…v.v. là rất quan trọng. Tức là, đạo lý đúng đắn của một Cơ Đốc nhân ấy là sống với tấm lòng khao khát vì mình mà cả dân tộc thay vì chỉ bản thân mình đều được phước.

Tiến xa hơn một bước, tại hội nghị của KOSTA tổ chức tại Nhật Bản năm nay, có tới 2000 du học sinh Hàn Quốc và 500 sinh viên Nhật Bản. Trong lịch sử Nhật bản, chưa bao giờ có hơn 300 du học sinh nhóm lại trong danh Chúa Giê-xu. Vậy mà khi mời, 500 sinh viên của Nhật đã nhóm riêng và khóc lóc cầu nguyện với Chúa “Nhật Bản cũng cần được Phúc âm. Nhật Bản cũng cần được Chúa Giê-xu làm chủ”. Nhưng KOSTA sẽ không dừng lại ở đó. Tôi cũng biết một tin vui là năm tới, sau khi KOSTA tại Mỹ kết thúc, du học sinh tại Trung Quốc cũng sẽ tổ chức chính thức một đại hội của riêng du học sinh tại Trung Quốc. Năm 1992 là năm đầu tiên tôi tham dự chương trình KOSTA. Tôi tin rằng cuộc gặp gỡ với KOSTA là ơn phước mà Đức Chúa Trời ban cho cuộc đời tôi. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng ơn phước ấy không phải là một sự ngẫu nhiên nhưng là sự đáp lời cầu nguyện. Những Mục sư thành lập KOSTA 18 năm trước đã thực sự gieo giống trong nước mắt. Họ không biết hạt giống ấy có lớn lên, có bị gió thổi bay đi hay không nhưng Chúa đã giúp họ trở về với những bó lúa trĩu nặng. Chưa hết, tôi tin rằng thông qua KOSTA, Chúa còn giúp họ gặt hái nhiều niềm vui hơn nữa.

LEE DONG WON (Theo Sự Thành Công Của Người Sống Ngay Thật)

Nguồn VietChristian.com

RA KHỎI XIỀNG XÍCH

 -Anh cần mấy tép?

-Tôi cần một tép xài đỡ.

-Đưa tiền đây, giá mỗi “cuốc” là 300 lít (300 nghìn đồng), miễn phí kim tiêm, rồi đi bộ đến gốc cây trước mặt, lật chiếc dép rách lên mà lấy.

-OK.

Nó đưa tiền rồi đi theo hướng dẫn của đứa con gái lấy một tép “hàng trắng” trên một con đường ở Quận 1, Sài Gòn. Mục sư Kiển hỏi nó:

-Tại sao em biết đứa con gái đó bán ma túy?

081014095954-317-998 Read more…

QUYỀN NĂNG CỦA CỨU CHÚA JESUS.

QUYỀN NĂNG CỦA CỨU CHÚA JESUS.

(  THE POWER OF SAVIOR JESUS )

I/Quyền Cai Trị Thế Gian Của Ma Quỷ.

Chúng ta được sự soi sáng của lời Chúa mà biết rằng ma quỷ mà là thế lực của Thế giới vô hình, cả thế giới này đều ở dưới quền trị của nó .
” we know that we are children of God and that the whole world is under the control of the evil one.” ( I John 5:19 NIV). Đoàn quân của ma quỷ mà sa tan là quỷ vương ơ các miền trên trời luôn muốn hãm hại, đem lại sự huỷ diệt, bất an, đau buồn và sự chết cho loài người.Với quyền lực vô hình ma quỷ nhốt một số người trong lao tù mà nó quản cai cả cuộc đời của người ấy.Nhà tù của nó được thiết lập nơi mồ mả, chốn hoan vu. Những con người mà nó đã nhốt vào nhà lao của nó thì hoàn toàn mất hết quyền tự chủ mà có một cuộc sống hoàn toàn bị Thế lực tối tăm này chi phối.
Ma quỷ là đoàn quân vô hình nhưng hiên diện khắp nơi trên Trần gian này để gây ra mọi loại tội ác và nô lệ. Các thần dữ này chính là những thiên sứ ngày xưa phạm tội và bị Đức Chúa Trời đày xuống thế gian này ( the fallen angels).Vì là Thiên sứ nên chúng là một giống loài được dựng nên khôn ngoan và có quyền lực vượt trội hơn con người.Muc đích của ma quỷ là chống cự lại Chúa, nó dụ dỗ, lôi kéo con người vào sự hư mất đời đời để chung cùng số phận với chúng là ở nơi lửa địa ngục.
Để cảnh tỉnh con cái Chúa, Về những mối hiểm hoạ có thể phá vở niềm tin, hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để đứng vững mà địch cùng mưu kế của ma quỷ. Vì chúng Ta đánh trận chẳng phải cùng thịt và huyết,bèn là cùng chủ quyền, cùng Thế lực, cùng vua chúa của Thế gian mờ tối này, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy.
” Put on the full armor of God, so that you can take your stand against the devil’s schemes. For our struggle is mot against flesh and blood, but against the rulers, against the authorities, against the power of this dark world and against the spiritual forces of evil in the heavenly realms.” ( Ephesians 6:11-12 ).

II/ Quyền Năng Của Cứu Chúa Jesus.

Mục đích Chúa Jesus đến thế gian là để phá huỷ công việc của ma quỷ.
” The reason the Son of God appeared was to destroy the devil’s work.
Chính Chúa Jesus phán với dân Giu đa rằng khi các ngươi nhận biết lẽ thật thì lẽ thật sẽ buông tha các ngươi.
” Then you will know the truth, and the truth will set you free.” ( John 8:32 )
Thật vậy Chúa Jesus phán Ta là đường đi là LẺ THẬT là sự sống là đường dẫn bất kỳ ai tin nhận Ngài đến với Đức Chúa Trời yêu thương, thánh khiết và công bình.
” I am the way and the truth and the life, no one  comes to the Father except through me.” ( John 14:6 ).

III/ Quyền Năng Được Thể Hiện.

Trong nhiều phép lạ Chúa Jesus đã làm khi Ngài thi hành chức vụ ở trần gian này thì có những phép lạ Ngài giải thoát cho những người bị ma quỷ chiếm hữu hoàn toàn trong cuộc đời Nô lệ trong lao tù của nó.
Kinh thánh chép lại câu chuyện Chúa Jesus đuổi quỷ cho một người ở nơi mồ mả và đồi núi,dẫu dùng xiềng sắt cũng chẳng ai cột trói được nữa, nhiều lần người này đã bẻ xích tháo cùm, ngày đêm kêu la lấy đá rạch cắt chính mình, người này ở nơi mồ mả và trên các đồi núi.
” When Jesus got out of the boat, a man with an evil spirit came from the tombs to meet him. This man lived in the tombs, and no-one could bind him any more, not even with a chain. For he had often been chained hand and foot, he tore the chains apart and broke the irons on his feet. No one was strong enough to subdue him. Night and days among the tombs and in the hills he would cry out and cut himself with stone.

Thật ngày nay chúng ta vẫn thấy những người bị quỷ ám như vậy. Nó có một sức mạnh phi thường để nhốt những người nó bắt phục trong nhà tù kiêng cố của có.

Nhưng quyền năng chủa Chúa có Thể phá bỏ những gông cùm chỉ với một tiếng phán ” hãy ra khỏi người nầy, you evil spirit.”

” Come out of this man, you evil spirit.”

Quỷ ám người này xin chúa nhập vào bày heo. Chúa cho phép và quỷ liền ra khỏi và nhập vào bầy heo và bầy heo đã nhảy xuống hồ và chết chìm ở đó

” send us among the pigs; allow us to go into them. He gave them permission, and the evil spirits came out and went into the pigs…rushed down the steep bank into the lake and were drowned ” (Mark 5: 2-13).

Qua câu chuyên đuổi quỷ này ta thấy Chúa Jesus kêu đích danh ” ác linh” ( evil spirit )khi đuổi nó. Ma quỷ là đứa tráo trở mạo danh hết đường chối cải, không chỗ ẩn núp.

Trong một trường hợp khác được chép trong Luca 4:31-37

Trong nhà hội có một người bị quỷ ám,một tà ma, cất tiếng la lên rằng ” hỡi Jesus Na xa ret, xin hãy đi tránh đi, tôi với Ngài có sự gì chăng? Ngài đến để diệt chúng tôi sao?” tôi biết Ngài là ai- Đấng Thánh của Đức Chúa Trời!

” in the synagogue there was a man possessed by a demon, an impure spirit. He cried out at the top if his voice ” Go away! What do you want with us , Jesus of Nazareth? Have you come to destroy us?” I know who you are- the Holy One of God.

Song Đức Chúa Jesus quở nặng ” hãy nín đi, hãy ra khỏi người này.” quỷ bèn vật ngã người này trước mặt đám Đông và không làm hại chi đến người.

” Then the demon  threw the man down before them all and came out without injuring him.”

Ta tự hỏi tại sao ma quỷ lại dám vào trong đền thờ, chỗ nhà hội, nơi giảng đạo?

Ma quỷ là kẻ vô hình nó đi khắp mọi nơi để rình mò và lừa phỉnh mọi người, không chừa chỗ nào, nhất là những nơi mà nó đánh hơi có mùi của tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, ghen ghét, thù hận,dâm dục, thần tượng trong lòng những con người cho dù những con người đó ở đâu, đền thờ hay nhà hội; dưới  bất cứ danh hiệu nào, tín đồ Chúa Jesus, chấp sự, trưởng lảo,kẻ chăn bầy, mục sư, hay truyền đạo .

Trong trường hợp ma quỷ kiện Gióp Chúa hỏi  Sa tan rằng: ngươi ở đâu đến? Sa tan thưa rằng: Tôi trải qua khắp đất và đi tới đi lui  trên đó.

” Sa tan answered the Lord, From roaming throughout the earth, going back and forth on it.” ( Job 1:7).

 

Tại sao những quỷ ám này cũng biết được những danh hiệu đặc biệt của Chúa Jesus?

Quỷ ám này gọi Chúa là Đấng Thánh ( The Holy One of God ) Đức Chú Trời là Đức Chúa Trời Chí cao ( the Most High ) như Thiên sứ trả lời cho mẹ Mary ( mẹ phần xác của Chúa ) :

” The Holy Spirit will come on you, and the power of the Most High will overshadow you. So the Holy One to be born will be called the Son of God”.

Ma quỷ biết điều này vì chính Chúa đã phán với nó rằng Ta sẽ làm cho

mầy cùng người nữ, giòng dõi mầy cùng giòng dõi người Nữ thù nghịch nhau. Người sẽ dày đạp đầu mầy còn mầy sẽ cắn gót chân người .

” Cursed are you above all the livestock and all the wild animals!

You will crawl on your belly and you will eat dust all days of your life.

And I will put enmity between you and the woman, and beteen your offspring and hers; he will crush your head and you will strike his heel.” ( Gen 3:14-15)

 

Ma quỷ biết rõ kinh thánh còn nhiều hơn một số tín đồ tin Chúa lâu năm. Trong Ma thi ơ 4, khi ma quỷ cán dỗ Chúa nó cũng dùng kinh thánh 3 lần để thuyết phục, gài bẩy ngài.Nhưng Ngài cũng dùng lời kinh thánh  để đắc thắng cám dỗ.

 

Chúng ta thấy Chúa đuổi quỷ để giải phóng những kẻ làm Nô lệ cho chúng nó.

Chúa Jesus biết con người nhận biết được Thế giới vật chất là do các giác quan ( senses ) cũng như phần tâm linh của linh hồn để tiếp giáp với Thế giới tâm linh nên Ngài bày tỏ quyền năng của Ngài trong sự chửa lành thị giác cho người mù (Mark 10:46-53)

Người mù kêu la xin Ngài chửa lành ” Jesus, Son of David, have mercy on me” (Luke 10:47).

Chúa phán Đức tin ngươi chửa lành ngươi, tức thì người được sáng mắt  và đi theo Ngài.

” Go” Jesus said ” your faith has healed you”. Immediately he received his light and followed Jesus along the road.”

 

Ngài cũng đuổi quỷ cho một đứa trẻ bị câm và điếc với quyền năng của Ngài. Ngài cũng kêu đích danh tên của nó và ra lệnh cho quỷ câm và điếc phải ra khỏi đứa trẻ nầy, đừng ám nó nữa. Quỷ bèn la lớn tiếng, vật đứa trẻ mạnh lắm mà ra khỏi .

He rebuked the impure spirit ” You deaf and mute spirit” he said ” I command you, come out of him and never enter him again.”

 

Thật Cứu Chúa Jesus Christ đã đến trong Thế gian để làm của lễ chuộc tội cho chúng ta và với tất cả quyền phép Ngài công bố sự tự do cho những tù nhân của ma quỷ, phục hồi sự sáng cho kẻ mù, giải phóng cho kẻ bị Hà hiếp.

” The Spirit of the Lord is on me, because he has anointed me to proclaim to the poor . He has sent me to proclaim freedom of the prisoners and recovery of sight for blind, to set the oppressed free.” ( Luke 4:18-19).

 

Có một câu chuyện ở nước Anh. Một người bán thịt ( butcher) quyết định đến nhà thờ để nghe muc sư giảng.Khi Về nhà vợ anh hỏi Anh rằng Anh có nhớ họ đã hát bài thánh ca nào không, có biết ai giảng lời Chúa không, Và giảng ở đoạn kinh thánh nào không .Anh bán thịt trả lời  rằng Anh không nhớ, không biết.Vợ Anh nói tiếp vậy thì Anh đi nhà thờ làm gì cho vô ích vậy. Anh bán thì trả lời cho vợ rằng: ” Tuy Anh không nhớ rõ những điều này, nhưng em sẽ thấy sự ích lợi, vì ngày mai khi anh đến tiệm, Anh sẽ đổi cái cân non của anh từ đó đến giờ chỉ có 14 ounces, để cân dối cho khách hàng là 1 pound. Anh sẽ dùng một cái cân đúng 16 ounces cho 1 pound .

Lẽ thật đã buông tha anh khỏi tội tham lam xuôi khiến Anh dối trá.

 

Chúa Jesus có quyền năng trong lời phán của Ngài; Chúa có quyền phép giải thoát chúng ta ra khỏi những ngục tù và những ràng buộc vô hình do ma quỷ bủa giăng.

Chúa là lẻ thật ( truth) sẽ ban cho chúng ta trải nghiệm được sự tự do hoàn toàn khi chúng ta thực sự kinh nghiệm được Ân điển cứu chuộc và quyền năng tuyệt đối của Ngài.

 

Pastor Nguyễn Đức Na

 

PHỤC VỤ THEO GƯƠNG CHÚA JESUS

PHỤC VỤ THEO GƯƠNG CHÚA JESUS
( Service followed The Lord Jesus’ example)

Chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ mà trở nên giống như loài người ( Philip 2:7)
Chúa Cứu Thế Jesus nhập thể không lấy hình một đế vương, một công hầu hay khanh tướng mà Ngài lấy hình tôi tớ.
Một tôi tớ ( servant ) thì phải mang tính chất phục vụ ( to serve ) và luôn luôn nhớ đến một sứ mạng phục vụ ( service )
Trong cựu ước rất nhiều lần sử dụng từ tôi tớ trong những trường hợp khác nhau nhưng tựu trưng vẫn với một ý nghĩa là Phuc vụ.
TT 116:16 ” Hỡi Đức Giê Hô va, tôi thật là tôi tớ Ngài, tôi là tôi tớ Ngài,con trai con đòi của Ngài, Ngài đã mở gông cùm cho con.”
” O Lord, I am truly your servants; I am your servant, the son of your maidservant ; you have freed me from my chains. ( NIV )
” Môi se, tôi tớ của Đức Giê Hô Va, qua đời tại đó trong đồng bằng
Ô áp”( Phuc 34:5).
And Moses the servant of the Lord died there in Moab. ( NIV).
Phaolo lô và Ti mô Thê, tôi tớ của Đức Chúa Jesus Christ, gởi cho hết thảy các thánh đồ trong Đức Chúa Jesus Christ, ở thành Phi líp, cùng cho các giám mục và các chấp sự.( Philip 1:1)
Paul and Timothe , servants of Christ Jesus,
To all saints in Christ Jesus at Philippi, together with the overseers and deacons. ( NIV).
Những đặc tính của một tôi tớ mà Cứu Chúa đã Thể hiện trọn vẹn trong quản đời phục vụ Thiên Chúa ở Trần gian này mà Ngài muốn tôi con Ngài noi theo:

1/ PHUC VỤ THA NHÂN ( serve others ).

Chúa Jesus đã khẳng định rằng Ngài đến Thế gian là để Phuc vụ tha nhân chứ không phải để người ta Phuc vụ mình.
” Just as the Son of Man did not come to be served, but to serve, and to give his life as a ransom for many”.( Matt 20:28 ).

Trước khi về lại Ngôi vị của Ngài với cha Ngài thì Chúa Jesus đã rửa chơn cho các môn đồ Ngài.
“After that, he pour water in a basin and began to wash his disciples’ feet, drying them with the towel that was wrapped around him” ( John 13:5 ).
Chúa cũng phán cùng họ rằng Chúa là Thầy, là Chúa mà còn rửa chơn cho họ nên họ cũng nên rửa chơn cho nhau và Chúa cũng phán rằng Ngài làm như vậy là để làm gương cho họ.
” You call me ” Teacher ” And “Lord” and rightly so, for that is what I am. Now that I, your Lord and Teacher, have washed your feet, you also should wash one another’s feet. I have set you an example that you should do as I have done for you. ( John 13: 14-15 , NIV ) .
Thật Chúa nêu gương cho chúng ta bằng hành động chứ không chỉ bằng lời phán dạy.Chúa cũng dạy tôi con Chúa Chớ có yêu thương bằng ” lời nói và lưởi, mà phải bằng việc làm và lẻ thật.
” Dear children, let us not love with words or tongue, but with actions and in truth. ( I John 3:18; NIV).

2/ Gương tiếp theo mà Chúa nêu cho chúng ta là TUÂN PHỤC.

( execute, obey).
Không có tinh thần vâng phục thì không thể làm tôi tớ được. Tuân phục đúng nghĩa là chấp hành mệnh lệnh và thi hành mệnh lênh, vâng, dạ mà không thi hành ý muốn của chủ thì không thể nói là vâng phục được. Nghe lời Chúa, hiểu lời Chúa mà không làm theo thì cũng ở trong phạm trù không vâng phục
Chúa Jesus làm gương cho chúng ta mà Kinh thánh có ghi chép rõ ràng trong Giăng 12:50 . Chúa biết mạng linh của Cha Ngài, cho nên những điều Chúa nói thì nói những điều Cha đã dặn.
” I know that his command leads to eternal life. So whatever I say is just what the Father told me to say” ( NIV).
Tuân phục cũng có nghĩa là vâng phục, vâng lời. Kinh thánh cũng cho chúng ta thấy sự vâng phục tuyệt đối của Ngài. Ngài vâng phục cho đến chết,thậm Chí chết trên cây thập tự .
” And being found in appearence as a man, he humbled himself and became obedient to death- even death on a cross! ( Philippians 2:8; NIV ).

Trong cuộc đời hầu việc Chúa, có những khó khăn, thử thách; nếu không có tinh thần TUÂN PHỤC thì dễ tẻ tách qua một ngả rẻ khác.Gương Giô-na cho ta thấy điều này. Chúa bảo đi Ni-ni-ve thì Giô na lại đi Ta-rê-si.Về phương diện địa lý thi 2 thành phố này nằm đối diện nhau trên một trục địa lý 180 độ, có nghĩa là Giôna đã làm ngược lại mệnh lệnh của Chúa 100%.

Chúa Jesus biết Ngài sẽ phải chịu đau đớn trên cây thập tự, Ngài vẫn cầu nguyện với cha Ngài trong tinh thần vâng phục. Xin cha cất chén này khỏi con,dầu vậy, xin ý cha được nên. Chớ không theo ý con. ( Lu ca 22:43)
“Father; If you are willing, take this cup from me.; Yet not my will, but yours be done” ( NIV).

3/ GƯƠNG HY SINH ( sacrifice).

Địa vị của Ngài là Đức Chúa Trời ngôi hai.Nơi ngự của Ngài là Thiên Quốc vinh hiển, nhưng Ngài không coi sự bình đẳng của mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giử, chính Ngài hy sinh, tự bỏ địa vi cao sang đó và đã Giáng thế ( Philip 2:6).
” Who, being in very nature God, did not consider equality with God something to be grasped.”( NIV) .
Không có sự hy sinh nào có thể so sánh với sự hy sinh mạng sống của con người.
Một gương hi sinh tuyệt đỉnh để chúng ta noi theo. Không dám hi sinh thì sự phục vụ Chúa của chúng ta không bao giờ đạt đến đỉnh cao, nếu không muốn nói là không thể hoàn thành chức phận mà Chúa đã kêu gọi anh em.
Một minh chứng trong thời đai này một chức viên trong Ban Điều Hành mà không thể hy sinh ngày mùng 5 Tết đi thăm sui gia mà bỏ họp cuộc họp BĐH đầu năm. Cũng không dám bỏ một ngày kỷ niệm hôn nhật 37 năm ( theo phong tục tập quán của người Âu- Mỹ thì người ta chỉ tổ chức Lễ kỷ niệm ngày hôn nhật 5 năm một lần sau Lễ Bạc “Silver Wedding” tức là vào 30,35,40,45,50,55 và 60 năm ngày cưới.) để tham dự kỳ họp định kỳ 2 tháng 1 lần của Ban ĐH đã lên lịch từ đầu năm.
Làm sao có thể tiếp tục chức vụ cao trọng trong một tinh thần vừa ích kỷ không dám hy sinh những chuyện nhỏ nhặc như vậy vừa tỏ ra tinh thần không tuân phục.
Với tinh thần noi gương Chúa, chúng ta hãy hy sinh thì giờ, tiền bạc, của cải, tài năng,sức lực để Phuc vụ Ngài
và chúng ta nhớ rằng ” công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ich đâu.”
” Therefore, my dear brothers, stand firm. Let nothing move you. Always give yourselves fully to the work of the Lord, because you know that your labour in the Lord is not in vain.” ( I Cor 15: 58 “.

Ngoài 3 đặc tính cần thiết một tôi tớ Chúa phải có mà chính Chúa của chúng ta đã làm gương .
Phao lô noi gương Chúa và cũng nhắc nhở những tôi tớ Chúa rằng hầu việc Chúa phải tự nguyện, vui lòng mà làm, không vì lợi dơ bẩn ( I Phioro 5:2).
“Be shepherds of God’s flock that is under your care, serving as overseers- not because you must, but because you are willing, as God wants you to be; not greedy for money, but eager to serve.”

Nguyện Chúa ban thêm sức cho tôi con của Ngài hầu cho ai nấy đều noi gương Cứu Chúa chúng ta trong khi đang hầu việc Ngài.

Mục sư Nguyễn Đức Na

BIẾT ĐẾM CÁC NGÀY TRÊN ĐẤT

 

 

mai-vang-mai-bon-sai-vuon-kieng-gia-re(1)

 

 

LÀM THẾ NÀO ĐỂ SỐNG ĐẸP LÒNG ĐỨC CHÚA TRỜI

 

Mỗi năm vào ngày sinh nhật của mình, tôi dành thời gian đầu tiên trong ngày để đọc câu Kinh Thánh:

 

Kìa, Chúa khiến ngày giờ tôi dài bằng bàn tay,
Và đời tôi như không không trước mặt Chúa;
Phải, mỗi người, dầu đứng vững, chỉ là hư không
(Thi thiên 39:5)

 

 

Tôi cho rằng nhắc nhở chính mình về sự thật này là một viêc cần làm. Nhưng sau đó Đức Chúa Trời khắc ghi một ấn tượng khác trong lòng tôi ở câu Kinh Thánh trước đó:

 

Hỡi Đức Giê-hô-va, xin cho tôi biết cuối cùng tôi,
Và số các ngày tôi là thể nào;
Xin cho tôi biết mình mỏng mảnh là bao.
(Thi thiên 39:4)

 

Trong chú thích tham khảo bên lề Kinh Thánh của tôi. Cụm từ biết mình mỏng mảnh là bao, tôi chú thích: Những thì giờ nào tôi có. Nói cách khác câu này được hiểu là: Lạy chúa, xin cho tôi biết những thì giờ nào tôi có. Bản Kinh Thánh The Living Bible dịch câu này: Lạy Chúa xin giúp con cách tổng kết thời gian của con trên trái đất này. Đó chính là những gì David đang cầu nguyện. Ông ta đang hỏi Đức Chúa Trời hãy cho ông biết số ngày của cuộc đời ông.

 

Bạn không cầu nguyện tương tự như thế sao? Tôi ước gì Chúa có thể cho tôi biết chính xác còn bao lâu nữa tôi sẽ ra đi khỏi thế giới này. Kay, con chỉ còn có 10 ngày. Con chỉ còn có 10 năm, hay thậm chí ngắn hơn: Con chỉ còn có 5 phút trên thế giới này. Đức Chúa Trời đang phát đi những tín hiệu cảnh báo chúng ta về thời gian. Chúng ta thực sự không có nhiều thời gian trên mặt đất này.

 

CÁC DẤU HIỆU CỦA NHỮNG NGÀY SAU CÙNG

 

Hãy mở ra trong 2 Phi-e-rơ chương 3 chúng ta sẽ được Chúa dạy bảo về tình hình của thế giới trong những ngày sau cùng. Lúc âý nhiều người sẽ mê ăn uống, sống theo tư dục của mình. Họ quên mất Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo nên các từng trời và mặt đất. Rồi chúng ta đọc thấy trong câu 11 và 12:

 

Vì mọi vật đều phải bị hủy diệt như thế, nên anh em càng phải sống cuộc đời thánh khiết và tin kính,  trong lúc nóng lòng trông đợi ngày của Đức Chúa Trời mau đến. Đó là Ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu đốt và hủy diệt, các nguyên tố sẽ bị tan chảy trong lửa!

 

Từ hủy diệt được dùng 2 lần trong phân đoạn này. Hiển nhiên là Đức Chúa Trời nhắc chúng ta biết rằng tất cả mọi thứ cuối cùng sẽ bị tiêu tan trong lửa. Không còn gì tồn tại mãi mãi chỉ trừ linh hồn chúng ta. Chỉ có những gì chúng ta làm cho Ngài – đó không phải là gỗ, cỏ khô, rơm rạ nhưng là vàng tinh khiết đã được thử nghiệm qua lửa sẽ còn lại đời đời. Đây chính là những gì Đức Chúa Trời đang cảnh báo.

 

Những thảm họa thiên nhiên cũng là một cảnh báo khác từ Đức Chúa Trời. Núi lửa phun, động đất, bão lớn, lụt lội, lở đất, những đám cháy lớn… nói lên một điều là con người bất lực không thể kiểm soát nổi chúng. Những điều đó cảnh báo cho chúng ta biết đây là những ngày sau cùng.

 

Tình hình kinh tế bấp bênh cũng là dấu hiệu của sự cảnh báo. Giá nhiên liệu đang ở mức cao nhất và không có dấu hiệu là sẽ bình ổn một mức giá hợp lý. Có phải gần đây bạn vừa mới mua một đôi giày? Tôi cho rằng nhiều bà mẹ có ba hay bốn đứa con cũng không dễ dàng gì mua cùng lúc giày đi học cho các cháu. Mọi thứ có vẻ khó khăn hơn trong những ngày sau rốt.

 

Chiến tranh đương nhiên là một dấu hiệu của thời kỳ cuối cùng. Đức Chúa Jesus phán:

 

Vì dân nầy sẽ nổi lên nghịch với dân khác, nước nọ chống đối nước kia; đói kém, động đất xảy ra ở nhiều nơi.
 Tất cả những điều nầy chỉ là khởi đầu của các cơn đau chuyển bụng
(Ma-thi-ơ 24:7-8)

 

Quân đội Hoa-Kỳ có mặt ở một số các quốc gia trên thế giới để giúp đỡ đồng minh và giữ gìn hòa bình. Y­-sơ-ra-ên thường xuyên đánh nhau với quân du kích Héc-bô-la ở Le-ba-non. Bắc Triều Tiên liên tục thử tên lửa hạt nhân ở miền duyên hải phía Tây đất nước họ. I-Ran bị nghi nghờ chương trình hạt nhân là để sản xuất vũ khí hạt nhân. Và đất nước này không che giấu ý định là sẽ hủy diệt cả Y-rơ-ra-ên và Hoa-Kỳ. Trong bối cảnh thế giới như vậy, bạn không thể không thấy là chúng ta đang ở trong thời kỳ sau cùng.

 

Đức Chúa Trời không bao giờ hủy diệt một xã hội mà Ngài lại không cảnh báo cho xã hội đó. Trong thời của Nô-Ê, những người cùng thời với ông đã nhìn thấy ông đóng tàu trong suốt thời gian trên một trăm năm. Cùng lúc đó Nô-ê giảng đạo công bình và báo động  rằng nước lụt sẽ đến. Ngày hôm nay cũng tương tự như thế. Đức Chúa Trời đang cảnh báo rằng sự hủy diệt đang đến rất gần.

 

ĐỨC CHÚA TRỜI MUỐN GÌ?

 

Trong 2 Phi-e-rơ 3 có một câu hỏi. Điều gì là quan trọng nhất cho Cơ đốc nhân trong những ngày sau cùng? Loại người nào mà bạn phải trở thành? Nói một cách khác thời gian chúng ta ở trên đất rất ngắn và Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải làm gì với số thời gian đó? Nếu tôi có 20 năm, vài tháng hay vài tuần, hoặc thậm chí là vài giờ còn ở lại trên đất này. Đức Chúa Trời muốn tôi phải làm gì trong khoảng thời gian đó?

 

Giả định là Chúa Jesus đến với Hội Thánh Ngài ngay bây giờ. Bạn muốn khi Ngài đến thì bạn đang làm gì? Bạn có muốn là bạn đang cầu nguyện? làm chứng? hay là bạn đang tắm cho em bé, nấu bữa ăn tối  hay làm việc trong văn phòng? Thái độ nào bạn có trong tấm lòng bạn?

 

Càng ngày càng có thêm nhiều lời tiên tri được ứng nghiệm trong những năm qua. Sự nhận thức rằng Đức Chúa Trời có thể trở lại bất cứ lúc nào đã khuấy động tôi đặt ra những câu hỏi này.  Và kể từ khi đọc đoạn Kinh Thánh 2 Phi-e-rơ 3, điều này trở nên sáng tỏ hơn cho tôi. Trước thực tế đó chúng ta phải siêng năng trong mục vụ, giữ gìn đời sống thánh khiết. Chúng ta phải có một nếp sống chuẩn mực để làm vui lòng Đức Chúa Trời. Nói một cách chính xác thì điều đó nghĩa là gì? Nó có nghĩa điều ưu tiên hàng đầu trong cuộc đời của chúng ta là sống để làm vui lòng Đức Chúa Trời.

 

Tôi được nghe một câu chuyện minh họa về thái độ này. Có một lần Ramona Jensen một nhà truyền giáo được mời đến nói chuyện với sinh viên của Trường Kinh Thánh Evangelical Sisterhood of Mary tại Darmstar, Đức. Vào lúc đó Ramona 28 tuổi. Khi cô đến, một người phụ nữ trạc 60 tuổi ra đón và yêu cầu được mang giúp hành lý của cô. Ramona lịch sự: “Ồ không tôi tự di chuyển hành lý được”. Nhưng người phụ nữ trả lời: “Tôi sẵn sàng giúp cô. Hãy để cho tôi làm”. Và thế là người chị em lớn tuổi này giúp Ramona mang hành lý đến phòng lễ tân của Trường. Và đang khi hai người cùng đi với nhau, người chị em này bắt đầu phỏng vấn Ramona về sở thích của cô ấy: “Ramona thích màu gì nhất? Loại hoa nào ưng ý nhất? Thích loại thức uống nào? Đâu là đoạn Kinh Thánh mà Ramona thích nhất?” Người chị em lớn tuổi giới thiệu với Ramona những người mà họ gặp bên ngoài hành lang. Ramona ghi tên mình vào sổ của phòng lễ tân và nói chuyện xã giao với những người mới quen. Sau đó cô được đưa về phòng. Khi Ramona bước vào phòng cô nhận thấy có một người nào đó đã vào phòng trước và chuẩn bị mọi thứ theo sở thích của cô. Màu của chiếc khăn tắm chính là màu cô ưa thích được chuẩn bị sẵn sàng móc lên giá đỡ trên tường. Một bình hoa trên bàn đúng là loại hoa mà cô thích. Bên cạnh bình hoa là loại nước uống cô thích- một bình trà vẫn còn đang bốc hơi. Và có cả một cái khung trên tường với một đoạn Kinh Thánh  viết bằng tay – đúng là đoạn Kinh Thánh cô thích. Nhưng sự việc vẫn chưa dừng lại ở đó. Khi cô đi xuống phòng ăn chuẩn bị ăn tối. Romona đã dễ dàng nhận ra chỗ ngồi của mình, chung quanh đĩa thức ăn của cô là những vòng hoa và sô-cô-la cô ưa thích. Và khi cô ngồi xuống chuẩn bị ăn thì những người trong phòng đứng dậy hát bài: “Cầu xin Chúa chúc phước cho bạn Ramona”.

Ramona đã rất phước hạnh trong suốt một tuần lễ ở đó. Trước khi cô ra đi, Ramona được tặng một quyển sách nhỏ. Và khi cô đọc nó trên phi cơ, Ramona nhận ra một điều: Cô được đối xử vô cùng lịch sự không phải vì cô là Ramona. Nhưng tất cả các diễn giả tới Trường Kinh Thánh đó đều được đối xử như thế. Ramona hiểu rằng họ đã làm điều đó để làm vui lòng Đức Chúa Trời .

 

LÀM VUI LÒNG ĐỨC CHÚA TRỜI

 

Làm vui lòng một người nào có nghĩa là làm cho người đó cảm thấy phấn khích, thỏa mãn, hài lòng. Khi mục đích của chúng ta là làm vui lòng Đức Chúa Trời chúng ta sẽ tổ chức kiểm soát các hành động của mình và đánh giá xem những hành động đó có làm vui lòng Đức Chúa Trời hay không? Hành động của chúng ta làm không phải chỉ vì vâng phục lời Chúa. Chúng ta làm điều đó phải là thái độ của tình yêu. Hai điều này có sự khác nhau rõ rệt. Nếu bạn có con cái, bạn biết là chúng có thể vâng phục bạn bằng cách dọn dẹp rác rưởi để khỏi bị la mắng, cùng lúc đó chúng vẫn tiếp tục vung vãi rác trên những lối đi khác. Rồi một buổi sáng kia bạn nhìn thấy rác được dọn sạch chỉ để làm vui lòng bạn. Bạn sẽ biết có sự khác biệt ở đó. Và Đức Chúa Trời cũng muốn như thế.

Đôi khi chúng ta có những ý tưởng lạ lẫm về những gì có thể làm Đức Chúa Trời vui lòng. Chúng ta không hiểu rằng ngay cả những việc nhỏ nhất nhưng nếu chúng ta trung tín thực hiện để làm vinh hiển danh Chúa thì vẫn làm Chúa vui lòng. Amy Carmichael, là người đã dành toàn bộ cuộc đời mình để phục vụ tại Ấn Độ, kể chuyện về một buổi tối đặc biệt tại một trại trẻ mồ côi mà cô đã thành lập. Vào trước giờ đi ngủ của đêm hôm đó vẫn còn có 5 em bé có nhu cầu thay tả lót, uống sữa, ăn thức ăn mềm và chăm sóc chúng. Một chị em đang trông nom chúng. Nhưng khi chuông nhà thờ reo báo hiệu giờ nhóm sắp đến. Người chị em này phải bỏ lại những đứa trẻ đang có nhu cầu chăm sóc để đến với buổi nhóm. Cô ấy nói: “Đã đến giờ tôi phải đi nhóm với Hội Thánh”. Và thế là Amy Carmichael phải ở lại với 5 em bé để phục vụ chúng. Cô biết có sự khác biệt giữa việc vâng phục nội qui và làm vui lòng Đức Chúa Trời. Làm một điều nào đó trong một thời điểm cấp bách chỉ để làm vui lòng Đức Chúa Trời chắc chắn khác với việc phải làm vì sự phân công của tổ chức.

 

Lần đầu tiên khi tôi bắt đầu hiểu sự khác biệt này. Tôi bắt đầu tự vấn: Tôi đang sống cho điều gì? Tôi đặt mọi điều phải đi qua một bộ lọc: Điều này có làm vui lòng Đức Chúa Trời hay không? Đây không phải là một khải thị mới cho bạn và tôi. Nó giống như một sự thay đổi tư duy, đó là toàn bộ đời sống của tôi, tôi muốn làm vui lòng Đức Chúa Trời. Bạn biết điều đó có nghĩa gì? Một ngày nào đó chúng ta thực sự muốn làm vui lòng Đức Chúa Trời và rồi một ngày khác chúng ta lại phàn nàn kêu ca vì buộc phải vâng phục.

 

Tôi tin rằng hầu hết chúng ta là những Cơ đốc nhân bất nhất. Tôi muốn nói rằng có lúc chúng ta vâng phục Lời Chúa và có lúc chúng ta bất phục. Rồi một ngày kia chúng ta khám phá một lẽ thật quan trọng về Đức Chúa Trời và mọi điều trong cuộc sống chúng ta xoay quanh lẽ thật này. Điều này đã đến với tôi khi tôi và Chuck khởi sự chức vụ hầu việc Chúa – mọi thứ đều là đức tin. Chúng tôi không có tiền bạc gì nhưng Đức Chúa Trời đã cung cấp mọi nhu cầu. Vào lúc đó tôi nghĩ đức tin là điều lớn nhất mà bạn phải có khi bước đi với Chúa. Vì vậy tôi thường kiểm tra mọi người tôi gặp xem họ có đức tin hay không? Họ có thể có những điều khác ngoài đức tin, nhưng với tôi những điều khác của họ là không thành vấn đề.

Rồi một ngày kia tôi khám phá tình yêu. Thế là tôi cho rằng đây là điều quan trọng nhất và những cái khác chỉ là thứ yếu. Và tôi bắt đầu thách đố mọi người xem họ có tình yêu hay không? Họ có yêu mến người khác? Họ có yêu mến Đức Chúa Trời?

Sau đó tôi khám phá về sự vâng phục. Và rồi cái chu kỳ này lại tiếp tục.

Sau đó tôi bắt đầu hiểu rằng đời sống Cơ đốc nhân giống như một cây cảnh bạn đem về nhà và bạn phải chăm sóc chúng. Bạn nói: Tôi biết rằng cái cây này cần nước hơn bất cứ một thứ gì khác. Và rồi sáng, trưa, chiều, tối bạn đều tưới nước cho nó. Và điều tệ hại nhất đã xảy ra: Nhiều cây bị chết vì bạn đã tưới quá nhiều nước.

Bây giờ bạn lại bước sang một nhận thức khác. Bạn nói: Tôi cho rằng cây này cần ánh sang. Vì vậy bạn đặt nó tại một nơi mà có nhiều ánh sáng nhất trong ngôi nhà của bạn. Ánh nắng mặt trời chói chang làm lá nó úa vàng và chẳng bao lâu nó thành ra một cây khô. Đến lúc này bạn nói: Đất. Cây này cần loại đất tốt.

 

Sự thật là cây của bạn cần tất cả những điều này: không khí, nước, ánh sáng và đất tốt. Nó không thể chỉ cần một yếu tố duy nhất và loại bỏ những yếu tố khác. Câu hỏi thực sự về cái cây đó là: Nó có mặt trong nhà bạn để làm gì? Đó chính là đem niềm vui thú đến cho bạn và cho những ai bước vào trong ngôi nhà của bạn. Mục đích của cái cây chính là làm đẹp cho ngôi nhà của bạn. Không ai đi mua một cây hoang dại, đầy bụi bặm, hôi hám về đặt ở giữa bàn trong phòng khách bao giờ.

 

VÌ SỰ THỎA LÒNG CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI

 

Tôi càng suy nghĩ về ý tưởng này thì Đức Chúa Trời càng gia tăng sức mạnh trong lòng tôi. Ngài xác nhận điều này trong tôi rất rõ ràng khi tôi tản bộ chung quanh căn nhà và hát vang bài Thánh ca ngợi khen Chúa: “Ngài thật xứng đáng để ca ngợi, Ngài đã sáng tạo nên muôn vật và ấy là vì sự vui thích của Ngài mà muôn vật đã được dựng nên”. Thình lình tôi nhận ra trong lời ca ấy có một thực tế sinh động: Tôi đã được dựng nên vì sự thỏa lòng của Đức Chúa Trời. Tôi dừng lại và suy gẫm về điều này. Trong suốt nhiều năm khi tuổi còn thơ ấu tôi luôn suy nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu Chúa đặt để tôi trong một gia đình cơ đốc? Đời sống tôi có thể đã hoàn toàn khác biệt. Nhưng Ngài đã có một kế hoạch khác cho tôi. Và kế hoạch ấy là đời sống tôi phải mang lại niềm vui thỏa cho Ngài. Đó quả thực là một ý tưởng sâu sắc: Tôi được dựng nên để làm vui lòng Đức Chúa Trời.

Và bạn cũng như tôi. Chúng ta được dựng nên để làm vui lòng Đức Chúa Trời. Tại sao lại như thế? Tại sao Chúa quyết định như thế? Tôi không biết. Và có thể chúng ta sẽ không bao giờ biết. Nhưng Lời Chúa bày tỏ rõ ràng là chúng ta được tạo dựng để làm vui lòng Ngài.

 

Tôi phấn chấn với sự mặc khải này, tôi quay về với phần Kinh Thánh trong Khải huyền 4:11 là ý tưởng chủ đạo của bài Thánh Ca. Tôi đọc lại câu này nhiều lần trong những bản dịch Kinh Thánh khác mà tôi đang có ở trong nhà. Tôi cảm biết tôi được soi sáng và chúc phước từ những lời này thật nhiều. Lời này trở nên sinh động trong kinh nghiệm cá nhân của tôi và tôi nhận thức sâu sắc là toàn bộ quãng thời gian còn lại của đời sống, tôi phải tập chú cho điều này. Đó là đường lối mà Đức Chúa Trời muốn tôi sống và nó phải là điều ưu tiên nhất trong tâm trí tôi.

 

Lạy Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con,
Chúa xứng đáng nhận vinh quang, danh dự và quyền năng,
Vì Chúa đã sáng tạo vạn vật,
Và vì sự vui thỏa của Ngài, mà vạn vật hiện hữu và được sáng tạo
.” Khải 4:11 (Bản Kinh Thánh KING JAMES VERSION)

 

Đó chính là sự thật từ buổi ban đầu. Vì sự vui lòng của Chúa mà Adam và Eve được tạo nên. Nhưng đáng tiếc họ đã chọn hướng đi làm vui lòng chính họ thay vì làm vui lòng Đức Chúa Trời. Hậu quả là mối tương giao của họ với Đức Chúa Trời bị sụp đổ từ buổi ban đầu. Tội lỗi  và đau khổ đương nhiên tháp tùng theo sau hệ quả này. Ngày hôm nay sự lựa chọn tương tự như thế cũng có trước mặt mỗi chúng ta. Nếu chúng ta chọn con đường làm vui lòng chính mình, khi ấy chúng ta sẽ đánh mất đi niềm vui thiên thượng trong mối tương giao với Đức Chúa Trời hằng sống.

Một sự xác nhận khác về Lẽ thật này lại đến, khi tôi đọc trong Phúc Âm Giăng 8:29. Chúa Jesus, một khuôn mẫu sống động  cho Lẽ thật này khi Ngài bày tỏ:

 

Và Đấng sai Ta lúc nào cũng ở với Ta; Ngài chẳng bao giờ bỏ Ta một mình, vì Ta luôn làm đẹp lòng Ngài.” Tôi hiểu Chúa Jesus theo đuổi mục đích luôn luôn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Và tôi không thể nào sống khác hơn cách mà Chúa Jesus đang sống.

 

Lần thứ ba lẽ thật này lại đến khi tôi đang đọc một quyển sách suy niệm Lời Chúa rất cổ xưa mà tôi để trên đầu giường. Ngày hôm nay nếu tôi muốn có những thông tin cập nhật để hiểu được Lời Chúa bày tỏ  trong những ngày sau cùng, thì chắc chắn là tôi sẽ không bao giờ tìm đọc những cuốn sách đã xuất bản cách đây một trăm năm. Nhưng thực tế này đã xảy ra khi tôi đang suy gẫm về chủ đề trên đây từ một quyển sách cũ, và nó đã truyền cảm hứng cho tôi. Tôi hỏi Chúa: Con có phải chia sẻ điều này không? Thư tín Cô-lô-se 3:23 nói:

Bất luận làm gì, hãy tận tâm mà làm, như làm cho Chúa, không phải làm cho người ta.

 

Lẽ thật này sáng tỏ trong tâm trí tôi một lần nữa. Tôi thưa với Chúa: Bất cứ điều gì con làm là để đẹp lòng Đức Chúa Trời. Con sẽ làm điều đó trong niềm vui được làm cho Chúa – vinh danh Ngài, không phải để vinh danh con người. Lời kết trong quyển sách mỏng suy niệm Lời Chúa đó là một bài bài thơ ngắn:

 

Hỡi Chúa là Vua, xin hãy dạy con.

Trong tất cả mọi sự.

Và mọi điều con làm.

Là để làm vui lòng Ngài.

 

KAY SMITH

(Tường Vi biên dịch) 

LINH HỒN VÀ THỂ XÁC (Soul and Body)

LINH HỒN VÀ THỂ XÁC.
Khi Thiên Chúa dựng nên loài người, Ngài chỉ dựng nên một người, đó là Adam. “Giê-Hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, Hà sinh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh” (Sáng- thế ký 2:7).
(The Lord God form the man from the dust of the ground and breathed into his nostrils the breath of life, and the man became a living being. NIV)

Như vậy ta biết chắc chắn rằng con người đầu tiên, tổ phụ của loài người, có 2 thành phần cấu thành: Linh hồn và thể xác (Soul and body).
Đức Chúa Trời khi tạo dựng nên loài người, Ngài chỉ dựng nên một người mà thôi. Đó là ý định của Ngài và có chủ đích.
Vả, hơi sống của Đức Chúa Trời dầu có dư dật, chỉ làm nên một người mà thôi. Nhưng vì sao chỉ làm một người? Ấy là vì tìm một giòng dõi thánh …(Ma-La-chi 2:15).
( Has not the Lord made them one? in flesh and spirit they are his. And why one? Because he was seeking godly off-spring…NIV)
Từ con người đầu tiên duy nhất đó, Ngài làm ra người nữ:
Giê-Hô-va Đức Chúa Trời làm cho A- Đam ngủ mê, bèn lấy một xương sườn, rồi lắp thịt thế vào. Giê-Hô-Va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi A-Đam làm nên một người nữ, đưa đến cùng A-Đam. A-Đam nói rằng: Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra. Người nầy sẽ đuoc gọi là người nữ, vì nó do nơi người nam mà có ( Sáng Thế Ký 2:21-23).
(So the Lord God caused the man to fall into a deep sleep; and while he was sleeping, he took one of the man’s rib and closed up the place with flesh.Then the Lord God made a woman from the rib he had taken out of the man, and he brought her to the man.
The man said ” This is now bone of my bones and flesh of my flesh; she shall be called woman, for she was taken out of man.” NIV)

Vì Ê-va ra từ A-Đam cho nên con người của Ê-Va bao gồm linh hồn và thể xác đều ra từ A-Đam.
Ý định của Đức Chúa Trời (Ngôi Cha) càng rõ hơn cho chúng ta:
Bởi vậy cho nên nguòi nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ trở nên một thịt” (Sáng Thế Ký 2:24).
(For this reason a man will leave his father and mother and he united to his wife, and they will becone one flesh.NIV)

Cả hai sẽ nên một thịt” không chỉ nói nên lẽ mầu nhiêm hôn nhân trong việc kết hợp hai thân xác mà còn còn chỉ về sự sự hình thành một thân vị mới cho loài người theo ý định của Đức Chúa Trời :
hãy sinh sản thêm nhiều làm cho đầy dẫy đất.” (Sáng Thế Ký 1:28)
(God blessed them and said to them ” be fruitful and increase in number; fill the earth and subdue it. NIV)
Dựa vào Kinh thánh và di truyền học ta biết rằng tất cả mọi người được sinh ra đều mang phần xác thịt của cha lẫn mẹ. Ngoại trừ Đúc Chúa Jesus Christ chỉ mang phần xác thịt của mẹ, vì Ngài không có cha phần xác thịt, nhưng phần linh hồn của Ngài thì ra từ cha, Đức Chúa Trời.
Kinh thánh gọi phần xác thịt ra từ mẹ là “dòng dõi người nữ” (Sáng Thế Ký 3:15). Vì phần xác thịt của Chúa Jesus Christ ra từ mẹ Mary còn linh hồn là Thiên Chúa, ra từ Thiên Chúa Ngôi Cha, nên Ngài không nhiễm tội như mọi người có linh hồn ra từ A-đam.
Qua lời Chúa chúng ta biết Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Tri và Toàn Năng.

Ngay khi tạo dựng nên loài người Ngài đã đã có một phương pháp để con Ngài nhập thế có cả phần hồn và phần xác như loài người chúng ta để cảm thông cho sự yếu đuối của loài người mà không nhiễm tội mà mang thần tính của cha Ngài là Đức Chúa Trời thánh khiết.

Chúng ta cũng biết rằng trong linh hồn (soul) của loài người có phần tâm linh (spirit) có khả năng tiếp giáp với thế giới thần linh. Tổ Phụ loài người đã phạm tội cùng Đức Chúa Trời nên phần tâm linh không còn khả năng tiếp xúc với Đức Chúa Trời Chí thánh mà chỉ tiếp giáp với thế giới tà linh mặc dù phần linh hồn vẫn còn sống động trong con người tội lỗi đó. Phần tâm linh (spirit) này được phục hồi ngay lập tức khi tiếp nhận Jesus Christ con Ngài làm Cứu Chúa cho chính riêng mình.
Cũng vậy,trong phần thể xác thì con người có 5 giác quan (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác) để tiếp xúc với thế giới vật chất .
Nói theo Thi Thiên 139, tôi ngợi khen Chúa vì tôi biết rõ lắm vì con người được tạo dựng nên một cách đáng sợ lạ lùng theo sự khôn ngoan vô cùng của Đấng Tạo Hoá, là Đức Chúa Trời quyền năng, là Cha đời đời đầy lòng thương xót. (Psalm 139: 13-14 .For he created my inmost being; you knit me together in my mother’s womb. I praise you because I am fearfully and wonderfully made, I know that full well. NIV).
Trong Gia cơ có đề cập đến sự quan hệ giửa xác và hồn “Vả xác chẳng có hồn thì chết , đức tin không có viêc làm cũng chết như vậy” (As the body without spirit is dead, so faith without deeds is dead.)

Chúng ta không thể nào hiểu hết những lẽ huyền nhiệm về loài người của chúng ta, cho đến khi chúng ta mặt đối mặt với Ngài trong Vương Quốc Vinh Hiển đời đời của Ngài.
Dầu vậy chúng ta hãy lấy thân thể cả thể xác và linh hồn mà làm sáng danh Đúc Chúa Trời (Therefore honor God with your body. I Corinthians 6:20).

Mục sư Nguyễn Đức Na

CHINH PHỤC MỘT SINH VIÊN CÁ BIỆT

Teacher with Students

John Powell, một giáo sư dạy thần học của trường đại học Loyola ở Chicago đã viết về một học sinh của ông tên là Tommy. “Khoảng mười hai năm trước, tôi đứng nhìn các sinh viên của mình xếp hàng vào lớp học môn “Thần đạo”. Đó cũng là ngày đầu tiên tôi gặp Tommy.
Tôi không tin được vào mắt mình. Anh ta đang đứng chải đầu, mái tóc vàng hoe, dài đến ngang lưng. Đó là lần đầu tiên tôi thấy một đứa con trai để tóc dài đến như vậy. Tôi nghĩ chắc kiểu tóc này là một mốt mới cũng nên. Tôi biết trong suy nghĩ của tôi, điều quan trọng không phải là cách bạn để tóc thế nào, mà là nó có ý nghĩa thế nào; nhưng lúc đó tôi chưa chuẩn bị tinh thần đón nhận những tư tưởng mới mẻ kiểu này nên cảm xúc của tôi cứ thể hiện ra. Tôi lập tức đánh chữ “Cá biệt” vào tên Tommy vì thật sự anh ta quả là rất cá biệt.
Tommy trở nên người “vô thần” tạm trú trong lớp thần đạo của tôi. Anh khăng khăng phản đối, cười nhạo và không chấp nhận khả năng rằng “có một Đấng, một Chúa yêu thương con người vô điều kiện”. Chúng tôi sống với nhau suốt một học kỳ trong hoà bình, mặc dù tôi phải công nhận anh ta là một nổi phiền muộn thật sự cho tôi.
Khi anh ta trở lại vào cuối khóa học và nộp bài thi cuối khoá, anh ta hỏi tôi bằng giọng pha chút giễu cợt, “Giáo sư có nghĩ rằng một ngày nào đó, em sẽ tìm thấy Chúa không?”
Tôi quyết định dùng một liệu pháp hơi sốc một chút. “Không”, tôi nói giọng chắc nịch.
“Ồ, em lại nghĩ rằng đó phải mục đích mà giáo sư muốn đạt được chứ.” Tôi để anh ta đi ra gần tới cửa lớp rồi nói giật lại, “Tommy! Tôi không nghĩ rằng anh sẽ tìm được Chúa, nhưng tôi tin chắc rằng Chúa sẽ tìm anh!”
Anh ta nhún vai rồi bước ra khỏi lớp, và cũng bước ra khỏi cuộc đời tôi.
Tôi cảm thấy một chút thất vọng mỗi khi nghĩ rằng anh ta đã không nhận ra được câu nói “thông minh” của tôi, “Chúa sẽ tìm anh!” (Ít ra là tôi tự nghĩ đó là câu nói thông minh.) Sau đó tôi nghe nói Tommy đã tốt nghiệp và điều đó cũng đủ làm cho tôi thấy dễ chịu.
Rồi có một tin buồn, tôi nghe rằng Tommy đã bị ung thư thời kỳ cuối. Trước khi tôi kiếm ra anh ta, anh đến tìm tôi. Khi anh bước vào văn phòng tôi, thân thể anh tiều tụy hẳn ra, mái tóc dài bây giờ rụng hết vì kết quả của những cuộc hóa trị. Nhưng đôi mắt anh sáng ngời, và giọng nói anh mạnh mẽ, tôi tin đây là lần đầu tiên anh như thế.
Tôi thốt lên, “Tommy, tôi vẫn thường nhắc đến anh. Tôi nghe anh bị bệnh phải không?”
“Ồ vâng, thưa giáo sư, em bệnh rất nặng. Em bị ung thư cả hai phổi. Chuyện này là chủ đề để mọi người bàn cả mấy tuần nay.”
Tôi hỏi, “Em có thể nói cho tôi nghe được không, Tommy?”
“Chắc chắn rồi, giáo sư muốn biết điều gì nào?” anh trả lời tôi.
“Em nghĩ thế nào về cuộc đời mới được hai mươi bốn tuổi và đang phải chết dần chết mòn?”
“Vâng thưa giáo sư, nhưng cũng có nhiều điều còn tệ hại hơn thế nữa.”
“Ví dụ?”
“Như là đang ở tuổi năm mươi và chẳng có một giá trị đích thực nào hay chẳng có một lý tưởng cho cuộc sống; chẳng hạn như ở tuổi năm mươi và suốt ngày nghĩ đến rượu chè, tán gái và chuyện kiếm tiền là mục đích “to nhất” của cuộc đời.”
Tôi bắt đầu dò tìm lại trong bộ nhớ của mình, tìm kiếm cái chữ “cá biệt” mà ngày nào tôi đã tặng cho Tommy. (Dường như người nào mà tôi đánh giá phẩm chất là “tệ”, rồi cố gắng loại bỏ ra, thì Chúa lại đem họ trở lại để dạy dỗ tôi.)
Tommy nói tiếp, “Nhưng điều khiến em đến gặp giáo sư là câu nói mà giáo sư nói với em vào bữa học cuối cùng.” (Anh ta đã nhớ điều đó!) “Em đã hỏi rằng giáo sư có nghĩ em sẽ tìm gặp được Chúa không, và câu trả lời “không” của giáo sư đã làm em thật sự rất ngạc nhiên. Rồi giáo sư nói, “Nhưng Chúa sẽ tìm anh!” Em nghĩ về điều đó rất nhiều, em cũng bỏ công sức nghiên cứu, tìm kiếm Chúa trong thời gian đó. (Ồ, câu nói “thông minh” của tôi. Anh ta đã nghĩ về nó rất nhiều!) Nhưng đến khi các bác sĩ cắt một khối u trong người em và bảo em đó là khối u ác tính, lúc đó em suy nghĩ thật sự nghiêm túc về vị trí của Chúa.
Rồi khi mầm ác tính lan ra các bộ phận khác của cơ thể, em đã thật sự đập gọi cửa thiên đàng. Nhưng Chúa không chịu bước ra. Thật ra, chẳng có gì xảy ra cả. Giáo sư có bao giờ cố hết sức để làm gì đó trong thời gian dài mà cuối cùng vẫn chẳng được gì không? Lúc đó mình sẽ mang tâm lý chán nản, chẳng muốn cố gắng nữa, rồi một ngày mình sẽ bỏ cuộc.
Thế là, một ngày nọ em thức dậy, em quyết định bỏ cuộc, thay vì quẳng thêm vài lời thỉnh cầu vô ích qua bức tường cao kia cho Chúa, Đấng mà chả biết chắc có thật hay không, em quyết định chẳng thèm quan tâm tới chuyện Thượng đế, chuyện đời sau, hay những chuyện giống vậy nữa… Em nghĩ thà để chút thời gian ít ỏi còn lại của đời mình để làm việc gì ích lợi hơn.
Em nhớ về giáo sư và lớp thần đạo, em nhớ một điều nữa mà giáo sư đã nói: “Nỗi buồn sâu sắc nhất là đi qua cuộc đời mà không có tình yêu thương. Nhưng còn có một nỗi buồn cũng ngang ngửa như vậy: đó là mình đi qua và rời thế giới này mà chưa kịp nói cho người mình thương rằng mình thương yêu họ”. Vì vậy, em bắt đầu thực hành việc đó với người khó nhất, đó chính là ba em.
Ba em đang đọc báo khi em tiến đến và mở lời, “Ba ơi…”
“Có chuyện gì thế?” ba vẫn chăm chú đọc báo trong lúc trả lời em.
“Ba ơi, con muốn nói chuyện với ba.”
“Được rồi, nói đi.”
“Con muốn nói là…nó rất quan trọng.”
Ông hạ tờ báo thấp xuống một chút, “Chuyện gì thế?”
“Ba ơi, con rất thương ba. Con chỉ muốn ba biết rằng con thương ba.”
Tom mỉm cười với tôi và kể với một vẻ mãn nguyện trên mặt, như thể có một niềm vui đang lan chảy, sưởi ấm trong lòng anh ta.
“Tờ báo trên tay ba rơi xuống sàn nhà. Ông đã làm hai điều mà em chưa từng thấy trước đây bao giờ. Ông khóc và ôm chầm lấy em. Hai cha con đã nói chuyện suốt đêm hôm đó cho đến tận sáng hôm sau, dù rằng sáng hôm sau ông phải đi làm. Cảm giác được gần gũi với ba thật tuyệt dịu làm sao, được nhìn thấy những giọt nước mắt yêu thương của ông, được ở trong vòng tay của ông, và được nghe ông nói rằng “ba thương con.”
Đối với mẹ và đứa em trai thì có phần dễ dàng hơn. Cả nhà đều khóc, ôm lấy nhau, và bắt đầu nói cho nhau nghe những tình cảm thật của mình. Cả nhà đã chia sẻ cho nhau tất cả những điều bí mật mà mình giữ kín bao năm qua. Em chỉ hối tiếc một điều là đã giữ kín tình cảm của mình quá lâu.
Và bây giờ em bắt đầu cởi mở với mọi người. Và cho đến một ngày, em nhìn lại và thấy rằng Chúa ở đó. Ngài đã không đến với em khi em cầu xin. Hình như Chúa làm mọi việc theo cách của Ngài và vào thời điểm mà Ngài đã định. Nhưng điều quan trọng là Ngài vẫn ở đó. Ngài đã tìm đến em. Giáo sư nói đúng, Ngài tìm đến em ngay cả khi em không còn tìm Ngài nữa.
Tôi thật sự kinh ngạc, “Tommy, tôi nghĩ em đang nói một điều rất quan trọng, quan trọng hơn cả điều em nhận ra. Đối với tôi, ít nhất là em đã công nhận rằng để tìm gặp Chúa, không phải xem Ngài như một tài sản của cá nhân mình, hay một người chuyên giải quyết những nan đề, hoặc là một Đấng an ủi nhất thời khi mình cần, mà bằng cách chính mình phải sống đời sống yêu thương. Phao lô có nói rằng “Đức Chúa Trời là sự yêu thương, ai ở trong sự yêu thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy.”
Tom, em có thể giúp tôi một việc không? Em biết không, khi em học trong lớp thầy năm đó, em là một gánh nặng cho thầy. Nhưng bây giờ, chính em đã làm cho thầy cảm thấy nhẹ nhàng. Em có thể đến lớp thần đạo mà thầy đang dạy và kể cho các sinh viên nghe hết thảy mọi điều mà em vừa kể cho thầy nghe không? Nếu như thầy kể cho họ nghe thì hiệu quả chỉ bằng một nửa so với chính em kể cho họ.
“Ồ….Em sẳn sàng kể cho giáo sư nghe, nhưng em không biết là em có sẵn sàng để kể cho lớp của giáo sư hay không?”
“Tom, hãy suy nghĩ về việc này. Khi nào em sẵn sàng, hãy báo cho thầy biết.”
Một vài ngày sau Tom gọi cho tôi và báo rằng anh đã sẵn sàng đến với các các sinh viên của tôi, rằng anh muốn làm việc đó cho Chúa và cho tôi. Chúng tôi đã lên lịch cho Tom. Tuy nhiên, cuối cùng Tom đã không kịp làm điều đó. Tom có một cuộc hẹn còn quan trọng hơn cả buổi nói chuyện trong lớp học của tôi.
Tất nhiên, cuộc đời của Tom không thật sự kết thúc bởi sự qua đời của cậu ta, nó chỉ là một thay đổi. Tom đã bước một bước dài từ niềm tin sang một khải tượng. Cậu ta đã tìm được cuộc sống đẹp hơn những gì mà mắt con người từng thấy, tai con người đã từng nghe và xa hơn cả sự hiểu biết của con người.
Trước khi Tom qua đời, chúng tôi nói chuyện với nhau lần cuối. “Em không thể làm chứng cho các sinh viên trong lớp của giáo sư,” Tom nói.
“Tôi hiểu, Tom.”
“Giáo sư có thể kể với họ giùm em được không? Hãy kể cho cả thế giới nghe giùm em, được không?”
“Tôi sẽ kể cho họ, Tom. Tôi sẽ cố gắng làm tốt nhất những gì có thể làm.”
Vì vậy, tôi xin cảm ơn tất cả các bạn đã kiên nhẫn nghe tôi làm chứng về câu chuyện này. Và đối với em, Tommy, dù em đang ở đâu trên thiên đàng thì hãy biết rằng “Tôi đã kể cho họ, Tommy… tôi đã làm tốt nhất những gì có thể làm.”

Câu hỏi suy gẫm
+ Bạn có cảm nhận được tình yêu thương mà Chúa dành cho bạn không? Bạn có bày tỏ tình yêu thương đó qua cách sống của bạn với mọi người không?

Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
I Giăng 4:16
“… Đức Chúa Trời tức là sự yêu thương, ai ở trong sự yêu thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy
Nguồn: VietBible

Post Navigation