Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “DƯỠNG LINH”

HÃY CHO TÔI CHỌN LỰA

2014_09_11_eu4mx7oqzvf (1)

1.

Sài Gòn đầu tháng mười vẫn còn những cơn mưa bất chợt, rồi sau đó mặt trời lại hiện ra như một cô gái dỗi hờn – sáng nắng chiều mưa. Đó là lúc Thu Huệ vui mừng xen lẫn một chút nôn nao làm thủ tục nhập học tại Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên trong mùa tựu trường năm trước.

Ngày Thu Huệ nhận giấy báo trúng tuyển Đại Học cả nhà vui mừng khôn xiết, mẹ nói với bố:

-Vậy là nó sẽ lên Sài Gòn học, tui và ông rán cày để có tiền gởi cho nó.

Bố mẹ Thu Huệ có một chiếc ca-nô ba lốc máy chở hàng nông sản buôn bán trên chợ nổi Cái Răng. Ở vùng sông nước miền Tây này mọi người gọi họ  là vợ chồng Năm Trái Cây. Họ nổi tiếng chịu thương chịu khó buôn bán ngược xuôi để nuôi con và cha mẹ già. Bố nghe như thế trả lời mẹ:

-Bà này nói lạ, chẳng lẽ mấy năm nay mình không rán cày sao?

-Mấy năm nay mình mới có rán một bây giờ phải rán gấp hai ông ạ.

Ngày Huệ lên đường về thành phố, nó ngơ ngác như một con nai vàng dẫm lên lá mùa Thu mà tâm hồn nghe rạo rực dưới mỗi bước chân đi. Xuống ở bến xe miền Tây, nó được xe trung chuyển của hãng Phương Trang đưa về Trường Đại Học. Những tòa nhà cao tầng ở khu trung tâm làm nó tròn xoe mắt. Đúng là thành phố ồn ào với “ngựạ xe như nước, áo quần như nêm”. Thu Huệ mặc chiếc quần Jean mới được chải cho bạc màu với chiếc áo sơ-mi vàng nhạt. Cô nữ sinh có làn da trắng, mái tóc ngắn phủ bờ vai, mũ lưỡi trai, kính cận trông rất xinh xắn đậm chất thiếu nữ miền Tây. Ca dao của vùng sông nước đã từng nhắc đến con gái Cần Thơ:

Phong Dinh có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp có nhiều giai nhân.

Giai  nhân bến Ninh Kiều xuất hiện ở phòng tiếp nhận sinh viên mới, một  nam sinh đang nhìn nàng với một ánh  mắt “hình sự”, rồi một giọng nói vang lên bên trong  nụ cười lém lỉnh:

-Xin chào tân sinh viên, tôi đến từ Tiền Giang ghi danh vào Khoa Toán, bạn học khoa nào?

-Tôi cũng ghi danh vào Khoa Toán.

Vậy là cùng miền Tây cả, Huệ nghĩ thầm anh chàng này có vẻ tinh nghịch quá. Nhìn cái mặt kênh kênh thế kia chắc là không coi ai ra gì, ấn tượng đầu tiên khó ưa thật.

Lớp Cử nhân Toán mà Thu Huệ theo học gồm bốn mươi tám sinh viên, nhưng chỉ có năm nữ sinh. Thu Huệ được các chàng trai bình chọn là hoa khôi của lớp. “Cô nàng đến từ miền Tây, rất xinh đẹp là bông hoa huệ của lớp mình, đứa nào cua được nàng thì bầu nó làm lớp trưởng”. Các nam sinh xôn xao bàn tán.

2.

Thu Huệ đã trải qua học kỳ một của năm thứ nhất. Trong học kỳ đó Quang Thành, chàng sinh viên quê ở Tiền Giang là một Cơ đốc nhân có vẻ như xích lại gần hơn với Thu Huệ. Chàng sinh viên này gởi tặng Tân Ước, truyền đạo đơn Huyền Nhiệm Đời Người cho cô bạn học. Một chiều thứ bảy kia Quang Thành mời Thu Huệ:

-Ngày mai chủ nhật, mời bạn đến  dự buổi sinh hoạt với hội thánh chúng tôi?

-Chúng tôi, anh nói là chúng tôi. Vậy các anh gồm những ai?

-Chúng tôi là hội thánh khôi phục (Recovery Church), còn gọi là hội thánh của Đức Chúa Trời tại Sài Gòn.

-Nhưng tôi không có đạo, đến chỗ của anh không tiện.

-Ồ không thành vấn đề, bạn hãy đến để cảm nhận gia đình hội thánh như thế nào.

Thế là lần đầu tiên Thu Huệ đến trong một buổi nhóm sáng Chủ nhật của hội thánh. Không khí chung ở đó là chân thành, vui vẻ, ồn ào. Mọi người nói “Amen, Ôi Chúa Jesus” rất rập ràng sau mỗi câu xướng lên của người hướng dẫn. Thu Huệ hơi ngỡ ngàng vì chưa bao giờ thấy một hình thức thờ phượng như vậy trong một căn hộ chung cư mà Quang Thành gọi là sinh hoạt hội thánh.

Sau khi nhóm xong Huệ nói với Thành:

-Phương cách sinh hoạt tôn giáo của bạn lạ lẫm quá, mình cứ tưởng đến nơi nhóm họp phải trang nghiêm giống như trong nhà thờ. Ai ngờ khác quá…

Không riêng gì Quang Thành tìm mọi cách thu hẹp cự ly với Thu Huệ mà trong lớp cũng có nhiều nam sinh khác muốn kết bạn với cô nữ sinh xinh đẹp này. Trong số đó phải kể đến Tuấn Minh, Hoàng Hải và Anh Tuấn. Cả ba sinh viên này có một thỏa thuận ngầm là phải cạnh tranh sòng phẳng để “câu” cô bạn học cùng lớp.

Anh Tuấn là một tín hữu sinh hoạt ở nhà thờ Tin Lành trên đường Trần Hưng Đạo. Chàng sinh viên này cũng rất muốn mời Thu Huệ cùng đi nhóm tại nhà thờ với mình. Thu Huệ ngẫu nhiên trở nên một nữ sinh được chăm sóc bởi một số nam sinh cùng lớp. Đúng là con gái xinh đẹp có khác!

Hoàng Hải và Tuấn Minh đến từ miền Trung, cả hai chàng trai này đều hút thuốc lá và để tóc dài. Chính điều này đã làm cho họ bị mất điểm trong đôi mắt của Thu Huệ, vì cô nàng vốn không chịu được mùi khói thuốc. Xem ra cả hai khó có cơ hội đánh bại Quang Thành và Anh Tuấn trong “cuộc chiến tình yêu” này.

Gia đình của Thu Huệ không có đạo, từ bao đời nay chỉ thờ cúng ông bà giống như nhiều gia đình khác. Bây giờ Thu Huệ lên thành phố học tập trong một môi trường mới, cô nàng cũng muốn tìm hiểu những sinh hoạt khác nhau của các bạn bè trong lớp. Đời sinh viên xa nhà nếu có tham gia vào một câu lạc bộ nào đó thì có lẽ cuộc sống cũng bớt đơn điệu. Thu Huệ thầm nghĩ.

Anh Tuấn thuộc mẫu người khô khan, ít biểu lộ cảm xúc ra bên ngoài, trong tâm trí của anh thường ôm đồm những bài toán bên cạnh những sinh hoạt đời thường. Nhưng chàng trai này cũng thường suy nghĩ đến Thu Huệ, “nếu mình quen được bạn ấy thì hay quá”. Anh Tuấn thả hồn mơ mộng theo từng cơn gió nhẹ xao động những hàng cây sân trường mỗi khi nhìn thấy nàng sinh viên tha thướt đi qua.

Biết Thu Huệ là người chưa có đạo, Anh Tuấn đến nhà sách Khám Phá ở đường Phan Đăng Lưu tìm mua quyển “Người Việt Nam Với Đạo Tin Lành” của Dương Hữu Khiêm gởi tặng cô bạn học.

“Cũng là sách của Tin Lành?” Thu Huệ tự nói với chính mình, chỉ mới tuần trước Quang Thành gởi tặng Lời Thánh Phấn Hưng Buổi Sáng của Watman Nee. Vậy là trong ngôi trường này có hai chàng trai Cơ đốc theo đuổi mình. Chọn ai bây giờ, không thể chọn cả hai –  bạn bè sẽ nói mình bắt cá hai tay. Minh Tú, cô bạn ngồi chung bàn đã từng nhắc nhở phải cảnh giác khi đi chơi bên ngoài với các bạn học khác phái đó sao. Trong lòng Thu Huệ thoáng lên những suy tư…
3.

Anh Tuấn thuyết phục mãi, cuối cùng Thu Huệ nhận lời đến nhà thờ Tin Lành trên đường Trần Hưng Đạo vào một chiều Chủ nhật trong buổi nhóm của Ban thanh niên. Sau phần hát các ca khúc thờ phượng và cầu nguyện, một người đàn ông trung niên đứng lên giảng luận Lời Chúa.

Thu Huệ chăm chú lắng nghe, đó là lần đầu tiên trong đời cô nữ sinh này được nghe câu chuyện Người Con Trai Hoang Đàng trong Lu-ca chương 15 được giảng luận một cách mạch lạc. Với chất giọng truyền cảm thầy truyền đạo đã chinh phục người nghe ngồi bên dưới. Trong số những người hiện diện cũng có sáu thân hữu được các bạn bè trong nhà thờ  mời đến. Không khí và quang cảnh của phòng nhóm vừa trang nghiêm mà cũng vừa thân thiện làm cho Thu Huệ cảm thấy thích thú. “Nơi đây có vẻ giống thánh đường trong tâm trí của mình”. Cô nữ sinh thầm nghĩ.

Sau giờ nhóm mọi người được mời ở lại uống cà phê, nước giải khát và nhâm nhi các loại bánh kẹo. Anh Tuấn hỏi chuyện cô bạn học:

-Bạn thấy thế nào?

-Cám ơn Tuấn, mình thấy rất tốt khi nghe phần giảng luận Kinh Thánh chiều nay.

-Vậy để mình giới thiệu với Thu Huệ thầy truyền đạo  Đặng Văn Thiên Ân, phụ trách công tác thanh niên sẽ giải thích thêm và mời bạn cầu nguyện tin Chúa.

Thu Huệ còn đang phân vân thì thầy truyền đạo đứng gần bên đã xen vào câu chuyện của họ:

-Hôm nay Anh Tuấn có bạn mới, tôi sẽ rất hân hạnh được làm quen với em. Tôi tên là Thiên Ân – quê ở Vĩnh Long.

-Ồ, vậy là quê thầy ở miền Tây, em cũng miền Tây nhà ở bến Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

Thầy Thiên Ân nói chuyện thêm với Thu Huệ về Phúc Âm của Chúa Jesus Christ, và nữ sinh viên được Linh của Chúa cảm động nên bằng lòng cầu nguyện tin Chúa. Thật là một tin vui cho mọi người trong buổi nhóm, và khỏi phải nói Anh Tuấn vô cùng phấn khởi khi thấy điều này.

Tuần lễ sau đó Thu Huệ cho Anh Tuấn biết là thực ra khi nghe thầy truyền đạo giảng luận Kinh Thánh thì trong lòng cô đã muốn cầu nguyện tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa rồi chứ không cần chờ đợi đến giờ giải lao sau đó.  Giờ đây trong lớp học đã có ba sinh viên là Cơ đốc nhân. Và có vẻ như Thu Huệ sẵn sàng đi nhóm thường xuyên ở nhà thờ Tin Lành – Quận 1 của thành phố. Những tuần lễ tiếp sau đó Thu Huệ đã học giáo lý và nhận thánh lễ báp-tem tại đây.
4.

Trong một lần đi chơi ngoài trời của lớp cử nhân Toán tại Khu du lịch Văn Thánh, ba sinh viên cơ đốc gặp nhau. Quang Thành lên tiếng:

-Hôm nay là một cơ hội tốt để chúng mình có thể trao đổi với nhau  những vấn đề đời sống đức tin của sinh viên chúng ta.

-Bạn nói rất hay. Chúng ta sẽ trao đổi về vấn đề gì? Anh Tuấn hỏi.

Vì là “tân binh” so với những “cựu binh” trong làng Cơ đốc nên Thu Huệ chủ yếu ngồi lắng nghe hai người bạn học tán gẫu với nhau về chủ đề đời sống tâm linh. Quang Thành nhấn mạnh rằng chỉ có hội thánh Đức Chúa Trời – hàm ý hội thánh khôi phục mà anh đang tham gia là đúng Kinh Thánh, còn tất cả những giáo phái khác của Cơ đốc giáo đều sai trật từ trong căn bản của Lời Chúa. Theo lời Thành thì chỉ có hai người trên thế giới đáng được gọi là sứ đồ và giáo sư trong thời hiện đại là Watman Nee (Nghê Thác Thanh) và Witness Lee (Lý Thường Thụ). Còn những người khác không ai có thể sánh bằng.

Dĩ nhiên lập luận này của Quang Thành bị Anh Tuấn phản đối quyết liệt. Anh Tuấn cho rằng đã tới thế kỷ 21 rồi mà Thành vẫn còn bị mê hoặc bằng những tác phẩm của hai tác giả trên. Theo Anh Tuấn thì không có một hệ phái hay một tập thể Cơ đốc nào được đánh giá là số một hoặc là siêu đẳng vượt lên trên tất cả các tổ chức Cơ đốc khác. Hôm nay là thời kỳ trăm hoa đua nở, và trong vườn của Chúa không chỉ có một bông hoa. Các hội thánh thuộc nhiều hệ phái Cơ đốc cùng lớn lên, phát triển và cùng tồn tại cho tới ngày những người thuộc về thân thể Đấng Christ được Chúa cất lên trên không trung để gặp Ngài.

Hai chàng trai có hai quan điểm khác nhau, xem ra trong vấn đề này họ không tìm ra được tiếng nói chung. Cuối cùng Thu Huệ lên tiếng:

-Tôi là người mới so với các bạn, tôi không ủng hộ quan điểm của ai cả, tôi chỉ theo Lời Chúa và Đức Thánh Linh là Đấng đang nội trú bên trong tôi. Nhưng có vẻ như cả hai người đều cũng nói giống như tôi tức là các bạn đều theo Lời Chúa và theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Thế thì hãy để cho tôi chọn lựa một nơi thờ phượng mà phù hợp với nhận thức của tôi. Mỗi người đều có thể nhận được sự trưởng thành đức tin từ nơi  mình được nuôi dưỡng. Tôi chọn nhà thờ Tin Lành để gắn bó trong sinh hoạt thuộc linh, nhưng tôi cũng tôn trọng yêu thương mọi anh chị em tín hữu từ các phòng nhóm khác của thành phố này. Chúng ta có lẽ nên học tập với nhau một điều căn bản, đó là tôn trọng sự khác biệt. Nhưng có một điều đáng mừng là chúng ta vẫn còn một mẫu số chung: Chúa Jesus Christ.

Câu chuyện của ba bạn sinh viên có vẻ giống truyện dài nhiều tập. Họ chỉ mới ở những tập đầu tiên. Còn những tập tiếp theo thì cũng mênh mông như “cánh đồng bất tận” ở miền Tây sông nước.

Thu Huệ đã tìm thấy cho mình một hướng đi. Nghỉ Hè năm nay trở về quê không biết điều gì đang chờ đợi cô nàng ở phía trước. ..
5.

Ngồi trên xe Phương Trang về Cần Thơ  trong kỳ nghỉ Hè của năm thứ nhất, nhìn quang cảnh hai bên đường cao tốc Sài Gòn –Trung Lương khi xe lao qua vùn vụt Thu Huệ  lan man suy nghĩ về những gì xảy ra trong năm đầu tiên ở trường Đại Học. Xe dừng lại nghỉ ở Trạm dừng chân Cái Bè hai mươi phút, Thu Huệ đến quày café mua một ly ngồi tán gẫu với các hành khách cùng quê. Chuyến xe đò chất lượng cao tiếp tục vượt hai cây cầu dây văng Mỹ Thuận và Cần Thơ về bến Ninh Kiều. Tây Đô đây rồi, lần này về quê Thu Huệ sẽ chuẩn bị thưa với bố mẹ câu chuyện đức tin của mình. Không biết bố mẹ sẽ phản ứng thế nào nếu biết mình tin Chúa? Trong lòng cô sinh viên không ngớt băn khoăn. Xuống ở bến xe, Thu Huệ được ta-xi trung chuyển của hãng xe đưa về nhà, bé My nhìn thấy chị la lớn:

-Các anh chị ơi, làng nước ơi chị Huệ về đây nè!

Bố mẹ còn ở trên chợ nổi Cái Răng buôn bán đến chiều tối mới về. Ở nhà chỉ có ba đứa em gồm hai trai một gái. Chúng nó nhìn Thu Huệ trong bộ cánh mới với cặp mắt tò mò và một chút ngạc nhiên:

-Chị Huệ từ Sài Gòn về đẹp thật, không giống hồi chị còn học lớp 12 ở đây. Cậu em lên tiếng.

-Ờ, thì hồi đó chị cũng đẹp mà!

-Gớm, chị này mèo khen mèo dài đuôi.

Các chị em cùng cười thoải mái, vui vẻ.

Sau bữa cơm tối Thu Huệ thưa chuyện với bố mẹ:

-Con đã tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa và tham gia sinh hoạt đạo tại nhà thờ Tin Lành. Sau khi tin Chúa con đã trải nghiệm sự bình an trong tâm hồn và một niềm vui trào dâng. Tại sao con tin Chúa? Con xin nói với bố mẹ những lý do sau đây…..Thu Huệ trình bày rõ ràng từng lý do, rồi cuối cùng kêu gọi bố mẹ tin nhận Chúa Jesus.

Thu Huệ nói xong, bố mẹ lặng yên, sau vài phút bố lên tiếng:

-Vậy là con theo đạo Tin Lành, cái này bố mẹ có muốn ngăn cản con cũng không được. Nhưng bố đã có ý rồi. Bố mẹ sẽ không theo đạo của con, bố mẹ chỉ theo truyền thống gia đình. Ông bà mình ngày xưa như thế nào bây giờ mình như thế ấy. Bỏ việc thờ cúng ông bà như những người theo Tin lành là bố không thể chấp nhận được. Thôi thì con cứ đi con đường của con, còn bố mẹ nhứt định không thể theo con được.

Không khí trong căn nhà bỗng trở nên ngột ngạt sau câu chuyện. Bố hoàn toàn thất vọng với cô con gái mà ông rất mực yêu thương. Còn mẹ thì im lặng nghĩ suy…. Thu Huệ cố giấu đi những giọt nước mắt chực chờ tuôn ra. Lạy Chúa Jesus con phải làm gì bây giờ? Thu Huệ dâng lên lời cầu nguyện từ trái tim nóng bỏng.

Có thể nào sau khi tin Chúa giữa mình và bố mẹ sẽ có sự cách biệt? Làm sao để tháo gỡ điều đó? Những câu hỏi  chợt hiện ra trong tâm trí cô gái mười chín tuổi.

Mùa Hè rồi cũng qua, gạt đi những giọt nước mắt buồn, Thu Huệ chia tay bố mẹ và các em lên xe về lại khung trời Đại Học. “Chúa Jesus ôi, Ngài biết tình huống con đang đối diện, Ngài sẽ giải cứu con ra khỏi hoàn cảnh này – là hoàn cảnh mà bố mẹ và con chưa có sự cảm thông. Ngài biết lúc nào và bằng cách nào”. Thu Huệ dâng lên lời cầu nguyện và tiếp tục nghĩ suy: có lẽ mình sẽ thêm sự cầu thay cho linh hồn của bố mẹ và các em. Không dễ gì họ có thể nhanh chóng tiếp nhận Phúc Âm cứu rỗi, nhưng lời hứa của Chúa là khi một người tin cả nhà được cứu. Vì vậy hỡi Chúa của con, xin làm thành điều Ngài đã hứa trên cuộc đời con.

Về đến thành phố, trở lại phòng trọ trên đường Nguyễn Trãi, Thu Huệ mở Tân Ước, những lời dạy của Chúa Jesus hiện ra một cách tình cờ:

Chớ tưởng rằng ta đến để đem sự bình an cho thế gian. Ta đến không phải đem sự bình an, mà là đem gươm giáo.  Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia;  và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình.  Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta;  ai không vác cây thập tự mình mà theo ta, thì cũng chẳng đáng cho ta.  Ai gìn giữ sự sống mình, thì sẽ mất; còn ai vì cớ ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được. (Ma-thi-ơ 10: 34-39).

Có thể nào, giữa mình và bố mẹ sẽ phân ly trong đời sống tinh thần? Đoạn Kinh Thánh này sẽ ứng nghiệm trong cuộc đời mình sao? Lạy Chúa Jesus xin cứu những người thân yêu trong gia đình của con. Con không muốn sự cứu rỗi chỉ cho riêng mình nhưng cũng cho bố mẹ và các em nữa. Chúa Jesus ơi, Ngài chắc thấu hiểu hoàn cảnh của con. Thu Huệ miên man suy nghĩ.

Niên học mới 2014 bắt đầu và những thử thách đang còn ở phía trước. “Bất luận điều gì  xảy ra thì Chúa Jesus luôn là sự chọn lựa,  nguồn sống và hy vọng của con”. Cô nữ sinh cầu nguyện.

TƯỜNG VI 

 Nguồn: http://songdaoonline.com/e3159-hay-cho-toi-chon-lua-tuong-vi-bai-chon-dang-226-.html

GIÔ-SÉP LÀ AI?

2014_09_05_k6bk4qiros4

 

ÔNG HOÀNG CỦA NHỮNG GIẤC MƠ

Giô-sép khoác vào người chiếc áo dài xinh đẹp mà người cha Gia-cốp ban tặng. Chiếc áo kẻ sọc, rực rỡ đầy màu sắc vừa vặn phủ kín cổ tay và mắt cá chân chàng thiếu niên mười bảy tuổi. Nó là niềm mơ ước của nhiều thanh thiếu niên đương thời. Khi Giô-sép mặc áo vào các anh em khác trong gia đình không ganh tị mới là chuyện lạ. “Thằng này được cha yêu nên nó mới nhận được đặc ân đó.” Người anh cả lên tiếng.
Có tiếng xì xầm từ những huynh đệ khác: “Nhìn cái mặt nó sao mà đáng ghét thế, chúng ta phải làm một cái gì đi chứ? – Được rồi chúng ta sẽ cho nó biết thế nào là lễ độ”. Các anh em trong nhà đang tìm cách trừ khử Giô-sép cho bỏ ghét. Những ý tưởng trong lòng họ cứ thế phát triển thành tội giết người hồi nào không hay.
Gia-cốp có mười hai người con trai được sinh ra từ bốn người vợ gồm hai chị em Lê-a, Ra-chên và hai cô hầu gái của hai người này. Giô-sép mà mẹ là Ra-chên là đứa con thứ mười một của Gia-cốp. Gia-cốp có Giô-sép khi tuổi đã cao, nên đương nhiên ông yêu thương cậu con trai này nhiều hơn những đứa khác. Chính điều này đã góp phần tạo nên xung đột giữa vòng các con của ông. Giô-sép cũng đi chăn cừu cùng với các anh của mình. Vốn có bản tính ngay thẳng nên Giô-sép thường mách lại cho cha những chuyện xấu của các anh trong lúc ở ngoài đồng. Từ một lúc nào đó Giô-sép trở thành mật báo viên cho cha, và không khó lắm để các anh cùng cha khác mẹ của Giô-sép nhận ra cây đinh trong mắt họ: “Thằng này chuyên rình mò chuyện của chúng ta để báo lại cho cha, phải tống khứ nó thôi.” Các anh của Giô-sép nuôi ý tưởng đó.

Một ngày kia, Giô-sép nằm mơ và thuật lại giấc mơ cho các anh: Chúng ta đang ở ngoài đồng trong mùa thu hoạch lúa mì. Bó lúa của em đứng thẳng lên trong khi bó lúa của các anh cúi mọp xuống xung quanh bó lúa của em.
Các anh của Giô-sép tức giận: Vậy có nghĩa là mày sẽ làm vua cai trị chúng ta sao. Từ giấc mơ này, hố sâu ngăn cách và lòng ghen ghét của các anh đối cùng Giô-sép càng lớn hơn nữa.
Chưa dừng lại ở đó, Giô-sép có một giấc mơ thứ hai. Cậu ta cũng thuật lại cho anh và cha mình: Tôi thấy mặt trời mặt trăng và mười một ngôi sao khác cúi lạy tôi.
Lúc này thì Gia-cốp lên tiếng: Thằng này nói nhảm, có thể nào ta, mẹ và các anh của mày đều cúi lạy mày sao?
Các anh của Giô-sép tức lộn ruột trước giấc mơ cao ngạo của cậu em trai. Nhưng Gia-cốp bỗng trở nên ưu tư trước sự hiện thấy của Giô-sép: Có thể nào nó sẽ là người lãnh đạo trong tương lai?
Những giấc mơ đẹp đôi khi lại mang tới tai họa. Giô-sép chuẩn bị nếm đòn từ các anh.

Một ngày đẹp trời kia, Gia-cốp sai Giô-sép ra đồng để xem tình hình chăn cừu của các con: Con hãy xuống thăm các anh con đang chăn cừu ở đồng cỏ Sê-chem xem thử có bình yên không rồi trở về báo cáo cho cha.
Giô-sép mặc chiếc áo dài kẻ sọc, sắc màu rực rỡ lên đường dưới ánh nắng ban mai. Lang thang trên cánh đồng rộng lớn từ thung lũng Hếp-rôn đến Sê-chêm, Giô-sép bị lạc đường. Có người thấy Giô-sép bèn hỏi:
– Cậu đi tìm ai?
– Tôi đi tìm các anh tôi đang chăn cừu, ông có thấy họ ở đâu không?

Người đàn ông chỉ về hướng Đô-than và nói:
– Tôi nghe các anh cậu nói chuyện với nhau, và biết họ đi về hướng đó.

Giô-sép tiếp tục đi theo lời hướng dẫn của người đàn ông. Các anh nhìn thấy Giô-sép từ đàng xa, và họ nhanh chóng hội ý với nhau để trừ khử cậu em trai. ..
Giô-sép đến gần các anh thì bất ngờ bị họ tấn công, trấn lột, lấy đi chiếc áo dài xinh đẹp và ném Giô-sép vào một hố sâu không có nước. “Xin các anh đừng giết em, làm ơn đi”. Tiếng kêu khóc thảm thiết của Giô-sép từ dưới hố thẳm vọng lên, nhưng các anh giả vờ không nghe thấy. Thật là một bi kịch cho tình huynh đệ!

Khi nhìn thấy một đoàn lái buôn Mi-đi-an đi ngang qua, các anh em gian ác này kéo Giô-sép lên khỏi hố rồi bán cho họ lấy hai mươi miếng bạc.
Từ đây cuộc đời của Giô-sép bước qua một giai đoạn khác. Các lái buôn mang Giô-sép đến Ai-cập bán cho gia đình của Phô-ti-pha, một sĩ quan chỉ huy đội cận vệ hoàng cung. Tại đây Giô-sép được ơn trước mặt Chúa toàn năng, nên mọi việc chàng làm đều thành công hơn cả mong đợi. Thế là từ một tên nô lệ sai vặt ngoài đồng chàng trai này được cất nhắc lên làm quản gia của Phô-ti-pha. Lúc này Giô-sép là một thanh niên với khuôn mặt sáng sủa, đẹp trai, thân thể cường tráng lọt vào tầm ngắm của vợ Phô-ti-pha. Khi chồng đi vắng, bà chủ Phô-ti-pha “đá lông nheo” đưa tình ong bướm cùng quản gia: “Này, chàng tuổi trẻ đẹp trai, hãy vào phòng riêng với ta.”
Giô-sép phản ứng rất nhanh: “Thưa phu nhân, xin bà hãy tha cho tôi. Tôi không thể phạm tội đại ác dường ấy với Đấng tối cao và với chủ nhân của mình”. Giô-sép có thần minh của Thiên Chúa ở cùng nên trong mọi ý tưởng và hành động, chàng trai này đều quang minh chính trực. Vợ Phô-ti-pha không bỏ cuộc, bà suy tính một kế hoạch nham hiểm hơn… Một hôm nọ nhân lúc chồng không có ở nhà, các gia nhân đang làm việc bên ngoài, Giô-sép đi vào nhà để làm công việc của một quản gia thì bị thiếu phụ sung mãn này bắt lấy: “Giô-sép của ta, hôm nay anh không được từ chối. Chúng ta hãy lên giường…”. Lửa tình đang rừng rực cháy trong thân thể bà chủ đang độ tuổi hồi xuân. Giô-sép vội vàng quay đầu bỏ chạy ra khỏi nhà. Bà chủ Phô-ti-pha nắm lấy chéo áo Giô-sép. Không còn cách nào khác, chàng quản gia đẹp trai tuột áo ngoài cắm đầu phóng chạy như tránh lửa địa ngục. Bấy giờ bà chủ ra đòn: “Bớ làng nước hãy lại mà coi, thằng nô lệ Do Thái định cưỡng hiếp ta, ta chống cự và lấy được áo choàng của nó đây.”
Bị vợ Phô-ti-pha vu cáo quấy rối tình dục, Giô-sép phải vào tù sau đó. Con đường đi của anh thật lắm nhiêu khê! Công lý ở đâu trong những hoàn cảnh này?
Thế nhưng những nghịch cảnh ở đời thường mang lại những trải nghiệm và ơn phước lớn lao cho người của Đức Chúa Trời. Hoạn nạn được sử dụng như một chiếc xe thầm lặng chở Giô-sép lên đài vinh quang!

Nhờ có Thiên Chúa phù trợ, Giô-sép được ơn trước mặt viên cai ngục và các bạn tù. Viên cai ngục bèn cử Giô-sép làm trợ lý cai quản các tù nhân. Sau đó có hai viên quan của hoàng cung là quan dâng rượu và quan làm bánh cũng bị tống giam vào tù vì đã làm cho vua Pha-ra-ôn nổi giận. Trong tù hai ông này nằm mơ với những giấc mơ khác nhau khiến họ bối rối. Giô-sép là người quản lý họ lúc đó bèn hỏi: “Các ông có việc gì mà trông lo lắng thế?” Hai viên quan trả lời chúng tôi có những chiêm bao khác nhau trong đêm qua, nhưng không ai giải thích được. Nghe vậy Giô-sép bảo họ: “Thiên Chúa là Đấng có thể giải thích các chiêm bao, các ông hãy thuật lại cho tôi nghe.” Quan dâng rượu liền kể lại: “Trong chiêm bao, tôi thấy một gốc nho ở trước mặt tôi; gốc nho đó lại có ba nhành. Dường như nhành đã nẩy chồi, trổ bông, chùm có trái chín. Tay tôi đương cầm cái chén của Pha-ra-ôn; tôi hái nho, ép lấy nước, rồi dâng lên vua Pha-ra-ôn”. Giô-sép giải thích: “Ý nghĩa chiêm bao đó là thể nầy: Ba nhành nho tức là ba ngày. Trong ba ngày nữa, Pha-ra-ôn sẽ tha quan ra khỏi ngục, phục chức lại, quan sẽ dâng cái chén của Pha-ra-ôn vào tay người như cũ, như khi còn làm quan tửu chánh”.

Đến lượt quan làm bánh cũng trình bày giấc mơ của mình: “Tôi đội ba giỏ bánh trắng trên đầu; trong giỏ cao hơn hết, có đủ món vật thực của thợ làm bánh hấp cho Pha-ra-ôn; chim đáp vào giỏ trên đầu tôi ăn các món đó”. Giô-sép cắt nghĩa: “Ý nghĩa chiêm bao ba giỏ tức là ba ngày. Trong ba ngày nữa Pha-ra-ôn sẽ xử trảm quan”.

Sau đó ba ngày, những lời giải thích của Giô-sép trở thành hiện thực: viên quan dâng rượu được phục chức trở lại, còn quan làm bánh phải chịu tử hình.
Tri thức của Giô-sép đến từ Đấng toàn năng. Những điều con người không thể hiểu được đều nằm trong mưu luận của Thiên Chúa. Chính Ngài ban cho Giô-sép lời giải thích đúng đến từng chi tiết hai giấc mơ của hai con người với những số phận khác nhau.

Hai năm sau Pha-ra-ôn cũng nằm mơ, nhà vua thấy mình đứng bên bờ sông. Từ dưới sông đi lên bảy con bò mập và tốt, ăn cỏ trong bưng. Rồi nầy bảy con bò khác xấu, gầy guộc, ở dưới sông đi theo lên sau, đến đứng gần các con bò trước trên bờ sông. Bảy con bò xấu, gầy guộc nuốt bảy con bò mập tốt.
Nhà vua thức giấc trước điềm chiêm bao rồi tiếp tục ngủ thì thấy một giấc mơ khác: Bảy gié lúa chắc, tốt tươi mọc chung trên một cộng rạ. Kế đó bảy gié lúa khác lép và bị gió đông thổi háp, mọc theo bảy gié lúa kia. Bảy gié lúa lép nuốt bảy gié lúa chắc.

Sáng hôm sau Pha-ra-ôn triệu tập các học giả và thuật sĩ tài giỏi nhất của hoàng cung thuật lại điềm chiêm bao và yêu cầu họ giải thích. Tất cả đều bó tay, lắc đầu ngơ ngác! Bấy giờ quan tửu chánh nhớ lại câu chuyện của mình hai năm trước ở trong tù được chàng thanh niên Do Thái giải thích giấc mơ. Viên quan này tấu trình lên Pha-ra-ôn: “Muôn tâu bệ hạ, tôi biết một người là trợ lý cho viên sĩ quan cai ngục có thể giải thích chiêm bao của bệ hạ, vì chính anh ta đã từng giải thích giấc mơ của tôi và viên quan làm bánh đúng đến kinh ngạc. Lẽ ra tôi đã giới thiệu duyên cớ, nguyện vọng của anh ta với bệ hạ vào lúc đó…”
Thế là từ trong nhà ngục Giô-sép được thay quần áo mới, cạo râu tươm tất đi vào hoàng cung để giải thích giấc mộng của vua Pha-ra-ôn. Giô-sép, nhà thông thái trẻ tuổi nhờ ơn Chúa mà hiểu được ý nghĩa những giấc mơ khiêm tốn trước mặt vua: “Bản thân tôi không thể giải thích giấc mơ của vua, nhưng Thiên Chúa toàn tri có thể”.

Đấng tối cao có thể sử dụng nhiều phương cách khác nhau (trong đó có những giấc mơ) để bày tỏ đường lối của Ngài trong mọi thời đại. Sự giải thích các chiêm bao thuộc về Chúa qua người phát ngôn của Ngài.

Sau khi nhà vua thuật lại chiêm bao của mình, Giô-sép được thần của Chúa bày tỏ liền giải thích:
– Hai điềm chiêm bao của bệ hạ thấy đó đồng một nghĩa mà thôi; Đức Chúa Trời mách cho bệ hạ biết trước những việc Ngài sẽ làm. Bảy con bò mập tốt tức là bảy năm; bảy gié lúa chắc đó cũng là bảy năm. Ấy chỉ đồng một điềm chiêm bao vậy. Bảy con bò xấu gầy guộc lên theo sau bảy con bò kia, và bảy gié lúa lép bị gió đông thổi háp là hình ảnh về bảy năm đói kém. Đức Chúa Trời cho bệ hạ thấy những việc Ngài sẽ làm. Nầy, trong khắp xứ Ai-cập sẽ có bảy năm được mùa dư dật. Nhưng bảy năm đó lại liền tiếp bảy năm đói kém; dân bổn xứ đều sẽ quên sự dư dật đó, và ách đói kém sẽ làm cho toàn xứ hao mòn. Và vì sự đói kém liên tiếp nầy lớn quá, nên thiên hạ chẳng còn thấy chi về sự dư dật đó nữa. Nếu điềm chiêm bao xảy đến hai lần cho bệ hạ, ấy bởi Đức Chúa Trời đã quyết định điều đó rồi, và Ngài nhanh chóng làm cho thành vậy. Bây giờ bệ hạ khá chọn một người thông minh, tài trí lập lên làm đầu trong đất nước Ai-cập, cùng lập các ủy viên trong xứ, để góp một phần năm số lượng lương thực thâu vào trong bảy năm được mùa dư dật đó. Họ hãy thâu góp hết thảy các loại lương thực, ngũ cốc, lúa mì trong bảy năm được mùa để dành trong các thành. Các lương thực nầy phải dự bị sẵn chuẩn bị cho bảy năm đói kém tiếp theo sẽ đến trong khắp đất nước.

Thật lạ lùng! Lời giải thích từ Giô-sép đã khiến cho vua Pha-ra-ôn và cả triều thần tâm phục khẩu phục. Nhà vua bèn lập Giô-sép lên làm tể tướng đương triều để điều hành mọi công việc quốc gia. Vua Pha-ra-ôn ra chiếu chỉ: “Vì Đức Chúa Trời tỏ cho ngươi biết mọi việc nầy, thì chẳng còn ai được thông minh, uyên bác như ngươi nữa. Vậy ngươi sẽ lên cai trị nhà trẫm; hết thảy dân sự của trẫm đều sẽ vâng theo lời ngươi. Trẫm lớn hơn ngươi chỉ vì ngự ngôi vua mà thôi.” Vua cởi chiếc nhẫn trong tay đeo vào tay Giô-sép, truyền mặc áo vải gai mịn, và đeo vòng vàng vào cổ người; rồi truyền cho lên ngồi xe sau xe vua, có người đi trước hô rằng: Hãy quì xuống! Giô-sép được lập lên cầm quyền cả đất nước Ai-cập theo một cách hoành tráng như thế. Pha-ra-ôn cũng ban đặc quyền cho Giô-sép: “Ta là Pha-ra-ôn, nhưng nếu không có pháp lệnh của ngươi, thì trong cả xứ Ai-cập không có ai giơ tay đưa chân lên được.”

Một tù nhân Do Thái trở thành thành thủ tướng đế quốc Ai-cập rộng lớn, thay mặt vua để điều hành đất nước, đặc biệt là chuẩn bị tích trữ nguồn lương thực đối phó với nạn đói trong tương lai. Có bức tranh nào ngoạn mục hơn! Đó chỉ có thể là chương trình của Thiên Chúa trên cuộc đời Giô-sép.

***

Hai mươi năm sau, kể từ ngày “ông hoàng của những giấc mơ” bị quăng xuống hố. Giờ đây Giô-sép đã là nhân vật quan trọng thứ hai trong triều đình Ai-cập và nạn đói đang diễn ra trên khắp đế quốc sau bảy năm được mùa dư dật đúng như giấc mơ của Pha-ra-ôn.

Gia-cốp và gia đình ở Ca-na-an cũng lâm vào tình huống thừa chết thiếu sống. “Ta nghe dưới xứ Ai-cập có lúa bán; các con hãy xuống đó mua lúa hầu cho chúng ta được bảo tồn sự sống.” Gia-cốp bảo các con trai.
Mười người anh cùng cha khác mẹ của Giô-sép lên đường tìm kiếm nguồn lương thực từ Ai-cập. Bên-gia-min, người em ruột cùng cha mẹ của Giô sép không được tháp tùng vì Gia-cốp sợ có điều gì bất trắc xảy ra với đứa con út mà ông rất mực thương yêu sau khi Giô-sép – con trai áp út được báo cáo đã bị thú dữ ăn thịt tại Đô-than với vết tích còn để lại là chiếc áo dài nhiều màu vấy máu.

Các anh em nhà Giô-sép từ Ca-na-an lên đường tìm đến Ai-cập. Họ gặp quan tể tướng và đồng loạt quì xuống xin vị quan rủ lòng thương xót bán lương thực cho. Giô-sép nhận ra họ là anh em của mình nhưng giả vờ không biết, còn các anh thì hoàn toàn không thể ngờ “thằng nằm mộng” ngày xưa giờ đây đã là một nhà cai trị tầm cỡ của Ai-cập. Ngài thủ tướng quyết định phải làm một phép thử để xem sau hai mươi năm tâm tính của các anh mình có thay đổi gì không. Giô-sép hỏi bằng tiếng Ai-cập được phiên dịch qua tiếng Hê-bơ-rơ:
– Các anh từ đâu tới?
– Thưa ngài chúng tôi đến từ Ca-na-an.
– Các anh chính là mật thám đến đây phá hoại đất nước này. Giô-sép đang diễn kịch trước các anh mình mà họ nào có biết. Giấc mơ thứ nhất của hai mươi năm trước đây đã thành hiện thực. “Bó lúa của em đứng thẳng lên trong khi bó lúa của các anh cúi mọp xuống xung quanh bó lúa của em”. Ngài thủ tướng biết Đức Chúa Trời đã ban cho mình một giấc mơ vĩ đại. Còn các anh của ngài thì nổi giận vì giấc mơ ấy. Thế nhưng giờ đây các anh của Giô-sép cúi mọp xuống trước em mình giống như hình ảnh trong chiêm bao năm xưa. Cuộc đời thật kỳ lạ! Oái ăm thay, đứa em mà họ đã từng bán đứng sang Ai-cập lấy hai mươi miếng bạc, giờ đây đã trở thành người lãnh đạo một quốc gia rộng lớn. Thay vì tính sổ với các anh mình về chuyện năm xưa, tấm lòng của ngài thủ tướng bao dung tựa biển khơi. Giô-sép giấu đi cảm xúc thật của mình để rồi sau đó bày tỏ sự hào phóng với các anh. Họ nhận được đặc ân khi ngài thủ tướng chỉ giả vờ trừng phạt bằng cách giam lỏng họ trong ba ngày với cáo buộc làm gián điệp, rồi thì số lương thực cần thiết mà họ muốn đã được ban tặng miễn phí. Nhưng Giô-sép cũng phát đi một thông điệp rõ ràng: “Bằng mọi cách các anh phải đem đứa em út (Bên-gia-min) tới đây cho ta gặp để chứng minh các anh không phải là gián điệp”. Giô-sép đang âm thầm lên một kế hoạch cho gia đình thân yêu của mình. Tạm thời Si-mê-ôn, một trong các người anh của Giô-sép bị giữ lại Ai-cập để làm con tin trước khi Bên-gia-min được đem tới.

Các con của Gia-cốp trở về Ca-na-an với đầy đủ lương thực được cấp ban từ các kho của ngài thủ tướng. Giô-sép cũng bí mật trả lại tiền mua lương thực cho các anh trong những bao tải của họ. Họ về đến quê nhà trình bày mọi diễn tiến của chuyến đi cho cha già Gia-cốp.
Gia-cốp không vui vì ông đã phải mất đi Si-mê-ôn để nhận được số lương thực này. Ông đã bị mất Giô-sép trước đây, còn bây giờ thì thêm một đứa con nữa phải ở lại xứ người làm con tin. Tấm lòng của ông thêm sầu não.
Nạn đói chỉ mới đến cuối năm thứ hai trên vùng đất Ca-na-an và lúc này số lương thực đem về từ Ai-cập cũng đã hết. Các anh của Giô-sép chuẩn bị lên đường sang Ai-cập lần nữa để mua thêm lương thực. Nhưng nếu đi lần này thì họ phải dẫn theo Bên-gia-min, vì ngài thủ tướng đã yêu cầu nếu không có Bên-gia-min đi cùng, họ sẽ không thấy được mặt ngài, và dĩ nhiên không có hy vọng nào cho việc mua được số lương thực cần thiết.
Các anh của Giô-sép thuyết phục mãi Gia-cốp để xin cho Bên-gia-min tháp tùng theo đáp ứng yêu cầu của Giô-sép. Gia-cốp lúc đầu không chịu, nhưng cuối cùng phải chấp nhận rủi ro để Bên-gia-min cùng đi với các anh nó vì không còn cách nào khác.

Vượt qua những cánh đồng, đồi núi, sa mạc hoang vu các anh của Giô-sép lại lên đường về phương Nam xuôi xuống Ai-cập tìm nguồn sống. Lần hội ngộ này của họ với ngài thủ tướng Ai-cập sẽ đi vào lịch sử!

Sau khi tiếp đãi trọng thể các anh em mình như những vị khách VIP, Giô-sép giăng bẫy tìm cách bắt Bên-gia-min ở lại Ai-cập. Muốn có tang chứng vật chứng để buộc tội cậu em út trong đoàn, các gia nhân của Giô-sép đã bí mật đặt vào trong thùng lương thực của Bên-gia-min cái ly bằng bạc quí giá. Phương cách xưa cũ này xem ra vẫn còn hiệu nghiệm trong mọi thời đại!
Câu chuyện tiếp diễn với việc Bên-gia-min bị kết tội ăn cắp chiếc ly bạc khi đang trên đường trở về. Theo pháp lệnh của ngài thủ tướng cậu em này phải bị giữ lại Ai-cập. Nếu tâm tính các con của Gia-cốp vẫn như trước đây thì rất có thể họ sẽ bỏ mặc Bên-gia-min, giống như họ đã từng bán đứng Giô-sép trước đây.
Nhưng sau hai mươi năm tấm lòng các anh em của Giô-sép đã có một sự chuyển biến rõ rệt. Họ thực lòng thương người cha già Gia-cốp và đứa em út cùng cha khác mẹ Bên-gia-min. Họ không muốn làm cho Gia-cốp tổn thương thêm nữa. Dường như họ đã học được bài học yêu thương sau chừng ấy năm!
Các anh của Giô-sép vô cùng bối rối trước tình huống cậu em út bị cáo buộc tội ăn cắp. Họ tìm mọi cách phân trần, lý giải xin ngài thủ tướng tha cho đứa em dại dột. Giu-đa với khả năng ăn nói lưu loát, đứng ra trình bày duyên cớ:
– Thưa ngài thủ tướng, tình thế của gia đình chúng tôi hiện nay như thế này: Cha thương em út tôi vô cùng đến đỗi hai linh hồn khắng khít nhau; nếu bây giờ, khi tôi trở về với cha tôi, mà không có em út chắc người sẽ chết. Khi ấy vô hình trung chính chúng tôi đã làm cho cha qua đời mà không thể nhắm mắt được. Vì tôi đã bảo đảm với cha trước khi lên đường sang Ai-cập lần này: Nếu con không đem em về cho cha, thì sẽ đắc tội lớn với cha. Vậy bây giờ, xin cho tôi ở lại làm nô lệ thế cho Bên-gia-min, đặng nó tháp tùng về với các anh. Vì nếu cậu út này không theo về, làm sao tôi dám về gặp cha tôi? Tôi có thể nào nhìn thấy cha già của tôi sẽ sụp đổ ư? Xin ngài hãy rủ lòng thương xót chúng tôi….
Khi Giu-đa nói xong tấm lòng của Giô-sép như tan ra từng mảnh. “Tôi chính là Giô-sép, em của các anh đây…”. Lúc này ngài thủ tướng thốt ra bằng tiếng Hê-bơ-rơ.

Nước mắt chảy ngọt ngào trên đôi gò má của Giô-sép. Có cảnh tượng nào bi hùng đến vậy! Qua phép thử của mình Giô-sép nhận ra các anh em giờ đây đã là một tập thể yêu thương gắn kết chặt chẽ với nhau, họ sẵn sàng hi sinh cho nhau!

Màn kịch kết thúc, Giô-sép làm cho các anh bàng hoàng, khiếp sợ không nói nên lời! Ru-bên, người anh cả lấy tay dụi mắt: Đây là thật hay mình đang mơ!

“Các anh đã bán tôi qua Ai-cập. Bây giờ, đừng sầu não và cũng đừng tiếc chi về điều đó. Vì để giữ gìn sự sống các anh, nên Đức Chúa Trời đã sai tôi đến đây trước các anh. Kìa hai năm rồi trong xứ đã bị đói kém, và còn năm năm nữa sẽ không có cày cấy, gặt hái chi được hết. Đức Chúa Trời cho tôi đến đây trước, đặng làm cho các anh còn nối dòng trên mặt đất, và nương một sự giải cứu lớn đặng giữ gìn sự sống cho anh em. Không phải các anh sai tôi đến đây đâu, ấy là Đức Chúa Trời. Ngài đặt tôi làm cố vấn cao cấp cho Pha-ra-ôn, cai quản cả nhà người, và cai trị khắp xứ Ai-cập.” Ngài thủ tướng giải thích rõ ràng câu chuyện của mình cho các anh em.
Vua Pha-ra-ôn biết được Giô-sép đã gặp lại các anh em trong gia đình đến từ Ca-na-an. Nhà vua hào phóng ban cho họ và gia đình Gia-cốp những ân huệ sau đó. Thế là cuộc hội ngộ lần này đã mở đường cho Gia-cốp và con cháu, hậu duệ của ông di chuyển đến vùng đất Gô-sen – một nơi màu mỡ tốt tươi thuộc châu thổ sông Nin của Ai-cập rất thuận lợi cho việc chăn nuôi gia súc.

Giô-sép nhìn cuộc đời “lên voi xuống chó” của mình dưới lăng kính của Đấng toàn năng, ngài thủ tướng trấn an các anh khi họ sợ sẽ bị Giô-sép trừng phạt sau khi cha qua đời:
“Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại làm điều tốt nhất cho tôi qua tay của các anh, hầu cứu sự sống nhiều người, y như đã xảy đến ngày nay, và bảo tồn sự sống của toàn thể dân sự. Vậy đừng sợ gì cả (đừng bao giờ có ý tưởng rằng tôi sẽ tính sổ với các anh), tôi sẽ cấp dưỡng các anh và con cái các anh.”

Giô-sép – “ông hoàng của những giấc mơ” sống đến cuối đời hưởng thọ một trăm mười tuổi, trong đó có tám mươi năm phục vụ tha nhân. Cuộc đời ông như một ống dẫn kỳ diệu mang nguồn phước của Thiên Chúa đến cho tuyển dân và mọi người. Giô-sép minh họa rõ ràng hình ảnh của Chúa Cứu Thế trong Tân Ước. Trải qua mọi nghịch cảnh rồi lên tới đỉnh vinh quang, phẩm chất tuyệt vời của Giô-sép chiếu sáng như đuốc trong một thế giới đầy rủi ro và biến động.

TƯỜNG VI

Nguồn: http://songdaoonline.com/e3140-ong-hoang-cua-nhung-giac-mo-tuong-vi-bai-chon-dang-215-.html

SỰ NỔI DẬY VÀ SỤP ĐỔ CỦA TÔN GIÁO BA-BY-LÔN

Babyon tôn giáo bị thiêu hủy
 
Ngay sau khi Đức Chúa Trời thiết lập Kế hoạch Cứu Rỗi Vĩ Đại của Ngài trong Sáng thế ký 3:15, thế giới đã được chia thành hai nhóm và việc đó tiếp tục cho đến ngày nay. Hai nhóm này là con cái của Đức Chúa Trời và con cái của Satan (I Giăng 3:10).  Cuộc chiến thuộc linh giữa hai nhóm sẽ tiếp tục cho đến kết thúc thời đại này.
Tôn giáo của Satan khởi sự với tôn giáo Ba-by-lôn. Nó được sinh ra và ảnh hưởng nhiều tôn giáo thế giới, và bây giờ, nó tiếp tục tồn tại trong Phong Trào Thời Đại Mới và Chủ Nghĩa Đa Nguyên Tôn Giáo. Đặc biệt, Đa Nguyên Tôn Giáo là tôn giáo Ba-by-lôn cuối cùng, như chính Chúa Giê-xu nói tiên tri độ 2.000 năm trước (Math. 24:4-5,24). “Khi ấy, nếu có ai nói với các ngươi: Kìa Đấng Christ ở đây, hay là: ở đó (Đấng Christ trong Ấn giáo hoặc Phật giáo), thì đừng tin. Vì nhiều Christ giả và tiên tri giả (những nhà lãnh đạo dạy Đa Nguyên Tôn Giáo) sẽ dấy lên, làm những dấu lớn, phép lạ (ảnh hưởng của họ sẽ rất lớn) nếu có thể được thì họ cũng đến dỗ dành chính những người được chọn”. Chúa Giê-xu đang nói với chúng ta Đa Nguyên tôn Giáo sẽ xuất hiện ngay trước khi Chúa tái lâm, và ngay cả một số Cơ-Đốc nhân là những người đã được tiền định cho sự cứu rỗi và đang sống đời sống đức tin sẽ bị cám dỗ và có thể vấp ngã.


Chúa Giê-xu cho Sứ đồ Giăng thấy trong sách Khải huyền rằng phong trào Đa Nguyên Tôn Giáo nầy sẽ xuất hiện trước khi Chúa Giê-xu tái lâm. “Tôi nhìn xem, thấy một con ngựa bạch. Người cỡi ngựa có một cái cung; có kẻ ban cho người một cái mão triều thiên, và người đi như kẻ đã thắng lại đến đâu cũng thắng” (Khải. 6:2). Con ngựa bạch nguyên gốc là ngựa của Chúa Jê-sus, Vua  muôn vua, sẽ cỡi khi Ngài trở lại (Khải. 19:11). Tuy nhiên, lời tiên tri ở đây cho thấy người cỡi ngựa cải trang như Chúa Jesus sẽ cỡi ngựa bạch giống một vị vua với uy quyền. Hắn sẽ thi hành sức mạnh ảnh hưởng trên thế giới và cám dỗ nhiều con cái của Đức Chúa Trời, cố bắt lấy họ.
Theo lời tiên tri này, sau cuộc Cải Chánh (1517), Đa Nguyên Tôn Giáo chịu ảnh hưởng bởi Thời Đại Ánh Sáng (thế kỷ thứ 18-19) bắt đầu xuất hiện trong Cơ-Đốc giáo. Nhưng bản chất thật của nó là tôn giáo thuộc Satan, bao gồm tinh thần của Tôn giáo Ba-by-lôn như nó vốn có. Hơn nữa, nó làm phai lạt Tin Lành của Chúa Jesus ở trong Cơ-Đốc giáo, pha trộn nó với các tôn giáo khác để khiến nó hợp lý hấp dẫn. Đó là lý do Đa Nguyên Tôn Giáo có ảnh hưởng lớn hơn và quyền lực phá họai lớn hơn bất cứ quyền lực nào. Ngày nay nó được thấy rõ ràng hơn bất cứ lúc nào trong 2.000 năm qua, trong lịch sử Cơ-Đốc giáo.
Trong Khải huyền chương 17 và 18, Đa Nguyên Tôn Giáo được xem như “Đại Dâm Phụ”, “Ba-by-lôn Lớn” và “Mẹ của các kỵ nữ”. Lời tiên tri cũng nói Phong Trào này sẽ bị yếu đi và thình lình bị hủy diệt vào đầu ba năm rưỡi Đại Nạn, trước khi Chúa Giê-xu đến trên đất. Khải 14;8, “Lại có một thiên sứ khác, là vị thứ hai, tiếp theo mà nói rằng: “Ba-by-lôn lớn kia đã đổ rồi, đổ rồi, vì nó khiến cho muôn dân uống rượu phẫn nộ do sự dâm loạn của nó.” Khải 17: 16, “Mười cái sừng và con thú ngươi đã thấy đó đều sẽ ghen ghét dâm phụ kia, khiến nó đơn độc loã lồ, ăn thịt nó, và thiêu sạch nó trong lửa”.
Đại khái Tôn giáo Ba-by-lon tôn giáo đã đóng vai trò tôn giáo mẹ sanh ra tất cả các tôn giáo thế giới. Trong kỳ tận thế, tất cả tôn giáo thế giới sẽ tập trung lại thành một tôn giáo, đó là, Đa Nguyên Tôn Giáo. Khi kỳ cuối cùng đến, tôn giáo giả dối  nầy sẽ bị hủy diệt. Bây giờ chúng ta sẽ xem xét chủ đề này xa hơn dựa trên Kinh thánh.
Babylon tôn giáo bị diệt vào dầu đại nạn, còn Babylon chính trị bị chìm xuống biển vào cuối đại nạn. Khải 18:21 chép, “Có một thiên sứ mạnh mẽ lấy một hòn đá như cối xay lớn quăng xuống biển, mà rằng: “Thành lớn Ba- by-lôn cũng sẽ bị quăng mạnh xuống như vậy, hẳn chẳng hề thấy nó nữa”
Từ sự sa Ngã của A-đam đến Đa Nguyên Tôn Giáo
Khi A-đam sa ngã, Giê-hô-va Đức Chúa Trời, tức là, Chúa Giê-xu, tuyên bố với con rắn Satan, con rồng rằng: “Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người” (Sáng 3:15). Ở đây, “dòng dõi ngươi” chỉ về dòng dõi Satan.
Sáng Thế ký 3:15 liên quan đến Kế Hoạch Cứu Rỗi Vĩ Đại của Đức Chúa trời. Con rắn cắn gót chân Dòng Dõi Người Nữ biểu thì sự kiện về thập tự giá. Thêm nữa, Dòng Dõi Người Nữ giày đạp đầu con rắn biểu thị rằng Chúa Giê-xu sẽ đổ Huyết quý báu của Ngài trên thập tự giá, hoàn thành chức vụ Cứu Rỗi của Ngài, và Satan sẽ bị đánh bại và bị diệt đời đời (Khải. 20:10). Như vậy, Sáng thế ký 3:15 là Kế Hoạch Cứu Rỗi Vĩ Đại của Đức Chúa Trời tam nhất để cứu nhân loại (Sáng. 2: 9, 17; 3: 6) khỏi sự rủa sả của sự chết vì ăn trái của cây biết điều thiện và điều ác. Kế hoạch nầy dạy Mục Đích Sáng Tạo cho tuyển dân của Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá, đã được công bố trước Sự Sáng tạo. Kết quả, câu Kinh Thánh nầy hoạt động như xương sống của toàn bộ Kinh Thánh.
Một phân đoạn Kinh Thánh khác liên hệ Kế Hoạch Cứu Rỗi của Đức Chúa Trời là Giao ước Áp-ra-ham. Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã tuyển chọn đặc biệt và kêu gọi Áp-ra-ham(2166 TC), và Đức Chúa Trời lập giao ước với Áp-ra-ham rằng ông sẽ trở thành nguồn phước (Sáng. 12:2-3); 18:18; 22:18; 26:4; 28:14). Ở đây, Giao ước là một lời hứa Đức Chúa Trời đơn phương lập với một tạo vật không có khả năng và điều kiện thực hiện lời hứa. Danh từ giao ước trong Hi-bá-lai văn có một hiệu lực ràng buộc pháp lý mạnh.
Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã giao ước với Áp-ra-ham, “các chỉ tôc nơi thế giới sẽ nhờ ngươi mà được phước”. Ở đây tiếng Hi-bá dùng cho “các chi tộc” (các nước)  là Goim, có nghĩa “các Dân ngoại ngoài người Do thái”. Như thế, đây là Giao ước mà Chúa Jesus Christ sẽ đến thế giới này như dòng dõi của Áp-ra-ham (Luca 2:32; Esai. 9:1; 42:6), và Ngài sẽ đem Sự Cứu Rỗi cho hết thảy Dân ngoại. Áp-ra-ham và dòng dõi của ông là những khí dụng được chọn trong lịch sử loài người để chứng minh Mục Đích Sáng Tạo của Đức Chúa Trời.
Từ những phân đoạn Kinh thánh này, Mục Đích Sáng Tạo (Ês. 43:7,21), Sáng thế ký 3:15 và Giao ước Áp-ra-ham (Sáng 12:2-3) là xương sống của toàn bộ Kinh thánh. Tất cả những câu chuyện của Cựu và Tân Ước cuối cùng tập trung vào sự kiện Huyết quý báu của Con Đức Chúa Trời đổ ra trên thập tự giá và việc rao giảng Tin Lành cho các dân. Vì vậy, việc Chúa Giê-xu được nhục hóa, bị đóng đinh trên thập tự giá, đổ Huyết quý báu của Ngài, sự phục sinh và Thăng Thiên của Ngài, tất cả phải xảy ra vì Mục đích Sáng Tạo.
Chúa Giê-xu, Dòng Dõi Người Nữ được thành nhục thể trên đất theo dòng dõi khởi từ A-đam và tiếp tục qua Nô-ê, Áp-ra-ham, v.v… (Sáng. 5:1-31; 11:10-26; Math. 1:17). Chúa Giê-xu đã thành nhục thể trên đất. Chúa Giê-xu đã hoàn thành chức vụ Cứu Rỗi của Ngài trên thập tự giá (Giăng 19:30). Những người tin Chân Lý nầy sẽ được tha thứ  tội lỗi của họ và họ sẽ hưởng đặc ân với tình trạng hợp pháp mới, được thay đổi từ con cái của Satan thành con cái của Đức Chúa Trời (Giăng 1:12: 3:16; 5:24). Họ sẽ ở trong chương trình huấn luyện để vâng theo Mục Đích Sáng tạo. Suốt thời kỳ huấn luyện, cuộc chiến giữa con cái Người Nữ với con cái Satan sẽ tiếp diễn.
Có một số con cái Satan trong thế giới này (I Giăng 3:10), và họ bị buộc phục vụ Satan, “chúa đời nầy” (II Cor.4:4). Hệ thống Tôn Giáo thuộc Satan đầu tiên được thành lập trên đất là Tôn Giáo Ba-by-lôn, do Nim-rốt khởi xướng. Thần mặt trời Nim-rốt, nữ thần mặt trăng Semiramis và thần sao Tham-mu, ba thần nầy được truyền bá khắp thế giới và họ được phát triển qua nhiều tên và hình thức khác nhau.
Các tôn giáo thế giới chúng ta biết rất rõ, như Ấn giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Phật giáo, Hồi giáo, đạo Sikh, v.v… thuộc loại tôn giáo cao cấp, với giáo lý và tổ chức có hệ thống. Mặt khác, từ lúc ban sơ, đạo Shaman với những hoạt động như đầu thai, chiêm tinh, lên đồng và trừ tà là phổ biến. Hoặc người ta theo thuyết tâm linh, thờ thần đá, thần cây, thần công, v.v…
Vào thế kỷ thứ 20, một phong trào thắp lên tia sáng mới trong trải nghiệm thuộc linh của những tôn giáo này. Qua hiện tượng siêu nhiên, như trải nghiệm thần bí, bị linh nhập, mặc khải, dị tượng, thuốc lắc, đối thoại với một linh, v.v…, phong trào này chủ đích kéo khả năng con người đến một mức độ thần thánh. Đó là Phong Trào Thời Đại Mới hiện thời đang tràn ra khắp thế giới. phong trào này tin rằng con người có thể trở thành thần, và qua việc áp dụng các phương pháp luyện linh khác nhau như yoga, thiền, khổ tu, nhịn ăn, v.v…, nó dụ người ta bước vào những trải nghiệm thần bí. Nó thực sự là một phiên bản tôn giáo hiện đại.
Khi thế giới bị tác động bởi phong Trào Thời Đại MỚi giống như vậy, Đa Nguyên Tôn giáo xuất hiện bên trong Cơ-Đốc giáo Đa Nguyên tôn giáo là dòng chảy chính của Tôn giáo Ba-by-lôn. Tất cả các tôn giáo thế giới và các tà giáo Cơ-Đốc đang mô phỏng theo mô hình khổng lồ của Đa Nguyên Tôn Giáo nầy. Những người theo Đa Nguyên Tôn Giáo tuyên bố rằng vì tất cả các tôn giáo và hệ thống niềm tin đều có Chúa Giê-xu, mặc dù khác nhau, nên mọi người sẽ được cứu rỗi bất chấp tôn giáo của họ.
Vì tư tưởng này, họ nhấn mạnh rằng, khi truyền giáo và giảng đạo, Cơ-Đốc nhân không nên nhấn mạnh đến sự qui đạo. Đa Nguyên Tôn Giáo, thay vì làm chứng Chúa Giê-xu là Cứu Chúa và là Chúa, họ tập trung vào những hoạt động phi Cơ-Đốc và từ đó loại trừ Chúa Giê-xu. Những hoạt động như vậy bao gồm những mục vụ cứu trợ, phong trào hòa bình, mục vụ cải cách xã hội, các hoạt động NGO, v.v.. Họ tập trung sự tấn công của họ vào thần học Chúa Giê-xu là Cứu Chúa và là Chúa, và không có con đường cứu rỗi nào khác ngoài việc tin Chúa Jesus, giáo lý Cơ- Đốc về Tam Vị Nhất Thể và sự nhận biết Chúa Jesus – Thần tánh của ngài, Nhân tánh của Ngài, sự phục sinh thân thể của Chúa Giê-xu, địa vị của Ngài trong Vương Quốc hầu đến, v.v.. Qua việc làm như vậy, họ cố gắng làm loãng đi, làm sai lệch, và chuyển đổi bản chất của Tin lành.
Đây là những lực lượng xấu nhất và mạnh nhất thuộc Satan vào thời tận thế chống lại Mục Đích Sáng tạo và Kế Hoạch Cứu Rỗi Vĩ  Đại của Đức Chúa Trời. Phong trào nầy sẽ xuất hiện trước khi Chúa Giê-xu Christ tái lâm (Math. 24:4-5, 23-28; Khải. 6:1-2). Ngày nay, lời tiên tri của Chúa Giê-xu đã trở nên thực tế. Thí dụ, theo Đa Nguyên tôn Giáo, Dalai Latma, lãnh tụ tối cao của Phật giáo Tây Tạng sẽ là một đầytớ của Đức Chúa Trời, và cùng một cách, những lãnh đạo của các tôn giáo thế giới sẽ thật là đầy tớ của Đức Chúa Trời. Trong thực tế, Giáo hội Công Giáo La Mã đang đưa Dalai Latma làm thánh, và các thần học gia Tin lành tự do cũng đồng ý như vậy.
Chúa Giê-xu nói tiên tri rằng các tiên tri giả nầy sẽ xuất hiện và làm những dấu kỳ và phép lạ lừa dối ngay cả người được chọn– nếu có thể được. Nói cách khác, ngay cả những người đã được định làm con cái đức Chúa trời trước khi  được hình thành trong long mẹ (Thi. 139:16; Giê. 1:5; Công vụ 9:15; Rô. 8:29; Gal. 1:15; I Phi 1;2) có thể bị lừa dối và ngã vào Đa Nguyên Tôn Giáo. Thật ra, những Cơ-Đốc nhân sa ngã nầy là những xác chết thuộc linh, Đó là lý do Chúa Giê-xu phán, “nơi nào có xác chết, thì những chim ó sẽ nhóm lại” (Math. 24:28). Một lần nữa, họ là kẻ chết thuộc linh và cho dù học có thể ở trong Hội thánh thì họ là con cái của Satan, là những người bị hư hoại.
Đa Nguyên tôn Giáo sẽ là dấu hiệu đe dọa lớn nhất của thời tận thế trước khi Chúa Giê-xu tái lâm. Nhưng tất cả các tôn giáo và các lực lượng thuộc Satan không phải là vạn năng và cũng không thể độc lập với Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa. Nếu không được phép từ Đức Chúa trời Toàn Năng, chúng không thể bắt đầu hành động theo ý riêng của chúng (Gióp 1:6-12; 2-6). Tất cả bọn chúng đều ở dưới uy quyền của Đức Chúa Trời và ở trong tay của Đức Chúa Trời.
 Thomas Hwang

Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Hòa Bình

Sau Vatican II, thế giới Cơ- Đốc đã thay đổi nghiêm trọng. Virus thần học Đa Nguyên Tôn Giáo bắt đầu tác động toàn bộ thế giới Cơ-Đốc. WCC và Giáo hội Công giáo La Mã làm việc tích cực tay trong tay để khởi sự đối thoại tương tác niềm tin với các tôn giáo khác vì hòa bình thế giới.
Là một phần của toan tính như vậy, Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Hòa Bình được tổ chức tại Đại Giáo đường St. Mary of Angles ở Assisi, Italy, ngày 27 tháng Mười  năm 1986. Trong buổi nhóm cầu nguyện nầy, Dalai Latma, lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng, Tổng Giám Mục Canterbury, lãnh đạo của Giáo hội Anh quốc và Khối Liên Hiệp khắp Thế Giới, Tổng Giám mục Chánh Tống giáo Hi Lạp và những người khác, đã tham dự và cầu nguyện, kiêng ăn cho hòa bình thế giới. Ghi lại sự kiện này, các hãng thông tấn đại chúng quốc tế ca ngợi sự kiện này– những chương trình và tin tức đầy hi vọng của đài truyền thanh và truyền hình khắp thế giới báo rằng hòa bình thế giới sẽ đến không lâu. Do đó, phong trào của Đa Nguyên Tôn Giáo dần dần đạt được quyền lực.
Mười sáu năm sau Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa Bình lần thứ nhất, ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Hòa bình lần thứ hai diễn ra một lần nữa tại cùng một địa điểm nhưng thực chất ở một diện lớn hơn nhiều. Có sự tham dự của mười bảy đại diện từ các nhà thờ Chánh Thống giáo (Chánh Thống giáo phương Đông, Chánh thống giáo Đông phương, Chánh Thống giáo A-si-ri, Chánh Thống giáo Nga, Chánh Thống giáo Coptic Ai Cập, Chánh Thống giáo Ê-thi-ô-bi, v.v…), mười bốn đại diện từ Anh giáo và các Hội thánh Tin lành, ba mươi từ Hồi giáo, mười Ra-bi từ Do thái giáo, cũng có những nhà lãnh đạo từ Phật giáo, đạo Tenrikyo, thần Đạo, đạo Bahai, Jain giáo, đạo Sikh, Ấn giáo, Bái hỏa giáo, Khổng giáo, và các tôn giáo dân gian truyền thống Phi Châu.
Sau buổi họp cầu nguyện, phong trào dành cho đối thoại tương tác niềm tin với các tôn giáo khác và cầu nguyện cho hòa bình được tiến hành tích cực hơn khắp thế giới. Gần đây vào ngày 27 tháng Mười năm 2011, một sự kiện quan trọng kỷ niệm năm thứ 25 ngày thế giới cầu nguyện cho hòa bình được diễn ra cùng địa điểm ở Assisi, Italy. Giáo hoàng Benedict XVI, người lãnh đạo tối cao các tôn giáo thế giới bảo trợ từ độ năm mươi quốc gia họp lại và kiêng ăn cầu nguyện với các thần và các linh họ phục vụ.
Những người tham dự trong buổi họp gồm có Tổng giám mục Anh giáo, Giáo Trưởng Bartholomew I phụ trách Đại Kết của Giáo hội Chánh Thống Hi Lạp, một đại diện của Chánh Thống giáo Nga cùng với 8 linh mục địa phương, một hồng y từ Chánh Thống giáo Cyprus, một hồng y từ Giáo hội Chánh thống Coptic, một đại diện của Giáo hội Lutheran, David Rosen, là cố vấn về Những Công Tác Tương Tác Tôn giáo cho Ra-bi Trưởng của Y-sơ-ra-ên, Olav Fykse Tveit, là Tổng Thơ Ký của WCC, đại diện của Chánh Thống giáo Nga, tổng thơ ký của Hội Nghị Quốc tế về các Trưởng Hồi Giáo, Setri Nyomi là tổng thơ ký của Liên Hiệp Các Hội thánh Cải cách Thế Giới, chủ tịch của Hiệp Hội Lão giáo từ Hongkong, chủ tịch của Hiệp Hội Khổng giáo từ Nam Hàn, hai địa diện Thần giáo từ Nhật Bản, bốn mươi tám đại diện Hồi giáo, các đại diện của các tôn giáo dân gian từ Phi Châu, Mỹ Châu và Á Châu, năm đại diện Ấn giáo, ba đại diện của Jain giáo, năm đại diện của đạo Sikh, một đại diện của Bái Hỏa giáo, một đại diện của đạo Bahai, sáu mươi bảy đại diện Phật giáo từ mười một quốc gia Phật giáo, năm người vô thần và v.v…. Tất cả những người tham dự đồng ý rằng họ phải tiếp tục tổ chức những buổi họp cầu nguyện như vậy trong tương lai.
Những người này xuất hiện bên ngoài là những người từ thiện nhân đạo, mỗi người sở hữu một tấm lòng yêu thương toàn thể nhân loại đáng khâm phục. Đó là lý do hầu hết những người nam và nữ có tôn giáo đều cảm thông với Đa Nguyên Tôn Giáo. Chúa Giê-xu nói tiên tri rằng vào thời cuối cùng sẽ có những kẻ lừa dối với con cái Đức Chúa Trời bằng cách tuyên bố Chúa Jesus ở đây hay là ở đó (Math. 24:23-27). Lời tiên tri nầy thật sự đang diễn ra bây giờ trong thời đại của chúng ta.
 Đối thoại Tương Tác Niềm tin
Khi Trụ Sở của Giáo hội Công giáo La Mã, Vatican, triệu tập Ngày Thế giới cầu nguyện cho Hòa Bình, đồng lúc giáo hội cố gắng họp với những người lãnh đạo hai tôn giáo, Hồi giáo và Do thái giáo, những tôn giáo có mối liên hệ rắc rối, để hòa giải với họ. Năm 1986, trong một nỗ lực làm mới lại mối liên hệ với người Do thái, lần thứ nhất trong lịch sử, Giáo hoàng John Paul II của Giáo hội Công giáo La Mã đã thăm viếng một nhà hội Do thái giáo và ban sứ điệp hòa giải.
Nắm lấy cơ hội này, cuối cùng Giáo hoàng thăm Y-sơ-ra-ên vào tháng ba năm 2000. Ông thăm đài Kỷ Niệm Diệt Chủng và công khai hóa lập trường chính thức của giáo hội Công giáo La Mã không thừa nhận chủ nghĩa chống Do thái. Rồi Giáo hoàng cầu nguyện tại Bức Tường than khóc ở Giê-ru-sa-lem: “Nguyện tội lỗi của Giáo hội Công giáo La Mã chống lại người Do thái trong 1.500 năm qua được tha thứ, đặc biệt những tội Giáo Hội Công giáo kết ước chống lại người Do thái trong Chiến Dịch Thập Tự quân (1096 ~ 1291 SC.). Chúng con muốn kết ước chính chúng con với tình anh em chân thật cùng người Do thái.”
Giáo hoàng John Paul II cũng đến với Hồi giáo để hòa giải. Năm 1995, ông thăm viếng Morocco, một quốc gia Hồi giáo ở Bắc Phi, và nói với người Hồi giáo ở đó: “Vì chúng ta tin Đức Chúa Trời giống nhau, chúng ta là một.” Sau đó vào tháng ba năm 2000 khi ông đang phát biểu tại Đài Kỷ niệm Diệt Chủng ở Y-sơ-ra-ên, ông cũng gởi một sứ điệp cho những nhà lãnh đạo Hồi giáo xin sự tha thứ về những tội lỗi của các Thập Tự Chinh (1096~1291 SC.).
Vào tháng Tư năm 2001, Giáo hoàng John Paul II đã thăm Đền thờ Ummayad ở Damascus, Sy-ri, một trong đền thời Hồi giáo xưa nhất. Tại đó ông nhấn mạnh rằng cả hai tôn giáo đều tin một Đức Chúa Trời và họ có nhiều điều chung, như các tiên tri, Chúa Giê-xu, Ma-ri, Giê-ra-sa-lem, và tin sự sống sau khi chết. Vì thế, họ là những người đồng công trong thuộc linh”, và họ nên hiểu nhau, cùng làm việc cho hòa bình thế giới.
Giáo hội Công giáo La mã muốn hiệp nhất tất cả các tôn giáo trên thế giới thành một thực thể dựa trên thần học Đa Nguyên Tôn Giáo như đã công bố trong Vatican II. Hi vọng về một điều không tưởng được thể hiện trên đất, họ đã tiếp tục tích cực hoạt động trong phong trào hòa bình thế giới cùng với các giáo hội là những thành viên của WCC.
Công nhận sự góp phần của Giáo hoàng John Paul II của Giáo hội Công giáo La Mã đối với hòa bình thế giới, nhiều nhà lãnh đạo tối cao của thế giới, bao gồm chính vua và hoàng tử, ba mươi tám tổng thống, ba phó tổng thống, mười bảy thủ tướng, mười bảy thủ tướng, mười ngoại trưởng, sáu bộ trưởng, Tổng Thơ Ký Liên Đoàn Á-Rập, Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc, Ra-bi Trưởng của Do thái giáo, Hồng y của Anh giáo, Giáo trưởng Chánh Thống giáo Hi Lạp, Giáo trưởng Chánh Thống giáo Nga, Giáo trưởng Chánh Thống giáo Ê-thi-ô-bi, đại diện của Ấn giáo và Hồi giáo, v.v… tham dự tang lễ của ông vào tháng Tư 2005. Đây là một thí dụ cho thấy cách Đa Nguyên Tôn Giáo phổ biến trên toàn cầu. Bây giờ sự phổ biến của Đa Nguyên Tôn Giáo vượt ra ngoài lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn bản, tôn giáo và chủng tộc. Điều này đơn giản cho thấy cách con người trên thế giới bị Đa Nguyên Tôn Giáo lừa dối cách dễ dàng.
Người kế thừa Giáo hoàng John Paul II là Giáo hoàng Benedict XVI tái xác nhận mục tiêu của người tiền nhiệm của ông. Ông đã thăm Đền thờ Xanh của Hồi Giáo ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ từ ngày 20 đến 30 tháng 11 năm 2006 và nhấn mạnh tinh thần đồng công của cả hai tôn giáo.
Những hoạt động tích cực như vậy bởi các hệ phái tự do hoàn toàn chống lại những sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu là Con Đường Cứu Rỗi duy nhất. Chỉ có Chúa Giê-xu là Sự sống và Hi vọng thật. Các Cơ-Đốc nhân không được theo đuổi hòa bình thế tục của thế giới. Hơn nữa, chúng ta giảng Chúa Giê-xu là con đường duy nhất của sự sống, để cứu những người đã được Đức Chúa Trời định sẵn  nhận sự cứu rỗi và được sự sống đời đời trong Vương quốc của Đức Chúa trời. Đây là Đại Mạng Lịnh mà các Cơ-Đốc nhân đã được Chúa Giê-xu ban cho (Math. 28:19; Công vụ 1:8).
Những nhóm tự do, bao gồm Giáo hội Công giáo La Mã, đã không quan tâm đến mạng lịnh này và đã tiếp tục tiến hành những hoạt động chống Cơ-Đốc, tìm kiếm hòa bình thế tục của thế giới. Trái với sự tranh luận của họ, Chúa Giê-xu tiên tri rằng sẽ phải chịu đau đớn, không phải hòa bình trong thời tận thế (Math. 24;6-13). Chúa Giê-xu phán rằng hiện tượng xã hội và thiên nhiên sẽ xảy ra trước khi Chúa tái lâm không phải là hòa bình mà là chiến tranh, đói kém và động đất, cùng với việc cá Cơ-Đốc nhân bị thế giới này bắt bớ.
Trong những năm tới, phong trào đại kết vì sự hiệp nhất của các tôn giáo thế giới và phong trào hòa bình thế giới sẽ được khuếch trương do Vatican lãnh đạo. Họ sẽ truyền bá nhanh chóng những sứ điệp giả dối và đáng ghê tởm. Loại hòa bình thế giới họ biện luận nhìn có vẻ đúng hoàn toàn theo quan điểm của con người, nhưng chúng ta phải biết rằng đây là con đường dẫn tới sự hủy diệt đời đời. Như đã được nói tiên tri thành trì Ba-by-lôn lớn sẽ bị hủy diệt chỉ trong một giờ (Khải. 18:10), chúng ta cần phải khôn ngoan để không bị lừa dối bởi những lời dối trá của họ.
 Sự Đáp Ứng của Các Hệ Phái  Tin lành: Liên Hiệp Tin Lành Thế Giới (WEA)
Để chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do, những hệ phái Tin lành từng chia rẽ trong lịch sử đã bắt đầu kết sức lại vào thế kỷ thứ 19. Vào năm 1846. Lần đầu tiên, những nhà lãnh đạo Tin Lành đã họp nhau ở London.Ở đó, họ hình thành Liên Hiệp Tin Lành (EA) chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa tự do đang lớn mạnh từng ngày. Sau đó họ đã thường xuyên gặp nhau để thảo luận những biện pháp đối phó, và thực hiện, họ thành lập những văn phòng chi nhánh Liên Hiệp Tin Lành trong các vùng khác. Dần dần, nhiều ngành được thành lập ở Canada(1849), rồi ở Thụy Điển và Đức (1847),ở Ấn Độ (1849), Thổ Nhĩ Kỳ (1855), ở Mỹ (1867), v.v…
EA tổ chức những hội nghị quốc tế cứ bốn đến sáu năm một lần – ở London (1851), Berlin (1857), Geneva(1861), Amsterdam (1867), New York(1873), Basel (1879), Copenhagen(18840, Florence (1891), và một lần nữa ở London (1896, 1907 và 1912). Hội nghị London năm 1912 là lần cuối vì sự bùng nổ Thế Chiến I (1914~1918), buộc họ ngưng hội nghị quốc tế. Rồi sau đó, với sự bùng nổ Thế Chiến II (1927~1945)khiến cho tiến độ thuộc linh trì trệ, EA mất phương hướng tương lai của mình.
Về sau, khi các nhóm tự do thành lập WCC năm 1948, tình trạng trở nên khẩn cấp cho các Hội thánh Tin lành hiệp nhất và đáp trả với nó. Họ mang vấn đề sức sống mới cần cho những buổi nhóm giảng tin Lành. Cuối cùng, năm 1951, chín mươi mốt nhà lãnh đạo Tin Lành đại diện hai mươi mốt quốc gia họp lại tại Hòa Lan, thành lập Hội Thông Công Tin Lành Thế Giới (WEF).Hầu hết các nhà lãnh đạo từ Anh quốc(như John R. W. Scott, Jack Dain), Mỹ(như Elwin Wright, Clyde Taylor, Waldron Scott) và Canada (như Dennis Clark) nắm vài trò cột trụ. John Scott và Jack Dain của nước Anh đã phác họa “mục đích chính” với ba phương tiện :1) Đẩy mạnh Tin Lành (vâng theo Đại Mạng Lịnh của Chúa Jesus), 2) Binh vực và củng cố Tin lành (ngăn Tin Lành khỏi bị hư hoại), 3) Thông Công các hệ phái Tin Lành.
Chín năm trước khi WEF được thành lập năm 1951, các Hội thánh Tin Lành ở Mỹ đã vấp phải làn sóng mạnh mẽ của chủ nghĩa tự do. Vì vậy, họ thành lập Hiệp Hội Tin lành Quốc Gia(NAE – National association of Evanggelicals) năm 1942. Với NAE đóng vai trò quan trọng, họ tìm cách kiểm tra nguồn gốc ảnh hưởng tự do từ Âu Châu, và họ khởi sự hiệp nhất các nhóm Tin lành trong sự thông công. Kết quả, NAE sản sinh nhiều nhà lãnh đạo của WEF được thành lập năm 1951. Bây giờ, nước Mỹ trở thành lực lượng lèo lái phong trào Tin Lành Thế Giới.
Nhưng thật sự, ảnh hưởng của WEF không đủ lớn để sánh với WCC. Lý do khó hiệp nhất những Hội Thánh Tin Lành, vì mỗi hội có một sự khác biệt giáo lý sâu sắc. Họ không có khả năng ngăn chặn làn sóng của chủ nghĩa tự do, đặc biệt từ các Hội thánh Anh quốc và Đức đang xuống cấp.
Năm 1982, WEF thay đổi danh xưng sang Liên Hiệp Tin Lành Thế Giới(WEA). Sau đó, những nhà lãnh đạo từ Mỹ như David Howard và rồi Gary Edmonds nắm giữ vị trí giám đốc quốc tế. Về sau, Jun Vence của Phi-luật-tân, một người Á Châu, giữ vai trò giám đốc quốc tế từ năm 1992 đến 2001. Năm 2012, giám đốc quốc tế là Geoff Tunocliffe, một người Canada, đã giữ trọn vị trí từ 2005. Thành viên của WEA ước độ 460 triệu Cơ-Đốc nhân thuộc 100 Hội thánh các hệ phái từ 128 quốc gia và tổ chức truyền giáo.
Ảnh hưởng chính trị và kinh tế của WEA có thể yếu hơn WCC. Một trong những lý do là vì hầu hết lãnh đạo các hệ phái truyền thống trên thế giớiChánh Thống giáo phương Đông, Chánh Thống giáo Đông phương, hầu hết Hội Thánh Lutheran, hầu hết các hệ phái Bap-tít, v.v…) là thành viên của WCC, và Giáo hội Công giáo La Mã, đại diện 52% Cơ-Đốc nhân trên thế giới. Những người cộng tác với WCC là một thành viên hiệp hội, cho dù họ không phải là thành viên chính thức.
Liên kết sức mạnh giũa các hệ phái Tin Lành chống lại các khuynh hướng tự do và tín đồ Đa Nguyên Tôn Giáo đang mỗi ngày bành trướng là điều hết sức quan trọng. Chúng ta là Cơ-Đốc nhân phải hiểu biết đầy đủ bản chất thực và những nguy hiểm của Đa Nguyên Tôn Giáo, phải trang bị Lời của Đức Chúa Trời, nổ lực hết sức để truyền bá Tin Lành chân thật.
Thomas Hwang (Nguồn gốc các tôn giáo).

CẦU NGUYỆN PHỤC HƯNG – bài 2

10647146_848112475208155_3313068979001063699_n

(Hình minh họa)

NHÌN RA THẾ GIỚI

Showbiz Hàn Quốc – 30 vụ tự sát trong 9 năm vừa qua.

Sau sự kiện nam diễn viên Woo Bong Sik treo cổ tự vẫn, dư luận trong nước và quốc tế đã dấy lên một điều nghi ngờ, làng giải trí xứ Hàn liệu có phải đang chịu đựng một “lời nguyền” khi chỉ trong vòng 9 năm đã có tới 30 ngôi sao tự vẫn?

Theo Sina, ngày 9/3 vừa qua, cảnh sát tại Seoul đã xác nhận việc nam diễn viên Woo Bong Sik, 42 tuổi treo cổ tự vẫn tại nhà riêng. Ngay lập tức, người dân xứ kim chi trở nên hoang mang khi chỉ mới đầu năm 2014 đã có thêm một ngôi sao giải trí tự vẫn.

Đây không phải lần đầu tiên công chúng xứ Hàn cảm thấy sốc trước hiện tượng nổi cộm này. Trước đó đã có hàng loạt ngôi sao đình đám chọn cái chết để giải thoát bản thân khỏi những trầm cảm trong cuộc sống và công việc.

CÓ CÒN MỘT LỐI THOÁT NÀO KHÔNG?

 

KINH THÁNH NỀN TẢNG: 1 Các Vua 19:1-4

1 A-háp thuật lại cho Giê-sa-bên mọi điều Ê-li đã làm, và người đã dùng gươm giết hết thảy tiên-tri Ba-anh làm sao. 2 Giê-sa-bên sai một sứ-giả đến Ê-li mà nói rằng: Nếu ngày mai trong giờ nầy, ta không xử mạng-sống ngươi như mạng-sống của một người trong chúng nó, nguyện các thần đãi ta cách nặng-nề.
3 Vì vậy, Ê-li sợ-hãi, đứng dậy chạy đi đặng cứu mạng-sống mình. Đến tại Bê-e-Sê-ba, thuộc về Giu-đa, người để tôi-tớ mình lại đó. 4 Còn người vào đồng vắng, đường đi ước một ngày, đến ngồi dưới cây giếng-giêng, xin chết mà rằng: Ôi Đức Giê-hô-va! Đã đủ rồi. Hãy cất lấy mạng-sống tôi, vì tôi không hơn gì các tổ-phụ tôi.

Charles Whittlesey là anh hùng của mọi anh hùng. Người lãnh đạo của “Tiểu Đoàn Mất Tích” trong Thế Chiến I, ông nhận Huân Chương Danh Dự cho lòng dũng cảm khi đơn vị bị mắc kẹt phía sau biên giới kẻ thù. Khi Khu Mộ Chiến Sĩ Vô Danh được hoàn thành, Charles được chọn làm người hộ tống cho người lính đầu tiên yên nghỉ tại đó. Hai tuần sau, người ta cho rằng ông đã tự tử bằng cách nhảy xuống giữa biển khơi từ trên thuyền du ngoạn.
Giống như Ê-li (I Các. 19:1-7), Charles mạnh mẽ trước đám đông nhưng trong những giây phút tĩnh lặng, ông chìm đắm trong tuyệt vọng. Con người ngày nay thường xuyên đối diện với những vấn đề lớn hơn mức họ có thể xử lý. Đôi khi sự mệt mỏi gây nên sự tuyệt vọng tạm thời giống như tình cảnh của Ê-li. Ông góp phần trong chiến thắng vĩ đại trước các tiên tri của Ba-anh (18:20-40), nhưng sau đó ông lo sợ cho mạng sống mình và chạy vào đồng vắng (19:1-3). Nhưng có nhiều điều còn hơn cả tuyệt vọng và tạm thời. Đó là lý do buộc chúng ta phải nói về chứng trầm cảm cách thẳng thắn và cảm thông.
Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sự hiện diện của Ngài trong những hoàn cảnh đen tối nhất, ban năng lực giúp chúng ta đối diện với chúng. Khi kêu cầu để nhận được sự giúp đỡ – từ người khác và từ Chúa- thì đó có thể là giờ phút mạnh mẽ nhất trong cuộc đời chúng ta.

CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, xin ban cho chúng con sự chân thật để thừa nhận với nhau rằng đôi khi cuộc đời nhận chìm chúng con. Xin ban cho chúng con sự can đảm để giúp đỡ những người khác tìm thấy sự giúp đỡ – và tìm kiếm nó khi chúng con cần nó.

Niềm hy vọng đến cho chúng ta với sự giúp đỡ từ Chúa và từ những người khác.

 

Nguồn: http://vietnamese-odb.org

CẦU NGUYỆN PHỤC HƯNG BUỔI SÁNG – bài 1

CẦU NGUYỆN PHỤC HƯNG BUỔI SÁNG là chương trình cầu nguyện hằng ngày vào mỗi buổi sáng cho các nhân sự của Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam, và mở rộng ra cho tất cả mọi cơ đốc nhân được Ban Điều Hành thống nhất thông qua vào ngày 27 tháng 8 năm 2014.

10015050_846224925396910_3731446693567792237_n

(Hình mang tính biểu tượng)

– PHỤC HƯNG LÀ GÌ?

– Là Trở Về Với Lời Chúa- theo định nghĩa của một nhà truyền đạo.

KINH THÁNH NỀN TẢNG:

Phải ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, hầu cho họ, là kẻ vẫn gièm chê anh em như người gian ác, đã thấy việc lành anh em, thì đến ngày Chúa thăm viếng, họ ngợi khen Đức Chúa Trời. (1 Phi-e-rơ 2:12)

NHÌN RA THẾ GIỚI: Nhà báo James Foley đã bị bắt cóc khi đang tác nghiệp tại Syria hồi năm 2012.
Phiến quân Nhà nước Hồi giáo (IS) đã đăng video ghi lại cảnh hành hình nhà báo Mỹ James Foley trên youtube trong tuần qua.
Công ty của Foley trước đó cho biết các tay súng đã đòi 132 triệu đôla tiền chuộc để đổi lấy sự tự do của ông.
Giám đốc điều hành của tờ Global Post, ông Philip Balboni, nói yêu cầu tiền chuộc được phiến quân Islamic State (IS) đưa ra lần đầu tiên hồi năm ngoái.
Foley bị bắt cóc hồi tháng 11 năm 2012 và đoạn video ghi lại cảnh hành hình ông vừa được IS công bố. Đó là đoạn video clip làm chấn động những người yêu tự do trên khắp thế giới.

Là cơ đốc nhân bạn suy nghĩ gì về dòng tin trên đây?

——–
DƯỠNG LINH BUỔI SÁNG:

Trong quyển The Hobbit của J. R. R. Tolkien, thuật sĩ Gandalf giải thích lý do chọn Bilbo để cùng những người lùn khác chống kẻ thù. Ông nói “Samuran tin chỉ có một sức mạnh to lớn mới có thể chống lại cái xấu, nhưng tôi nhận thấy những hành động nhỏ bé mỗi ngày của người bình thường mới khiến điều xấu phải lánh xa. Những hành động nhỏ bé của  lòng tử tế và tình yêu.”
Đó cũng là điều Chúa dạy. Cảnh báo về thời kỳ đen tối, Ngài nhắc rằng bởi chính Ngài chúng ta là “ánh sáng cho thế gian” (Mat. 5:14) và những việc tốt của chúng ta sẽ là sức mạnh chống lại cái xấu để Đức Chúa Trời vinh hiển (c.16). Và Phi-e-rơ viết cho những Cơ Đốc nhân đang dối diện với bắt bớ dữ dội, bảo họ phải sống để những người cáo buộc họ “thấy được việc lành của anh em và tôn vinh Đức Chúa Trời” (I Phi. 2:12).
Đây là lực lượng không thể bị bóng tối khuất phục–lực lượng của những hành động yêu thương và nhân từ được làm trong danh Chúa Giê-xu. Đó là con cái của Đức Chúa Trời, là người đưa luôn má bên kia, đi thêm vài dặm đường, tha thứ và thậm chí yêu thương kẻ thù nghịch, là người có sức mạnh chống lại cái xấu. Vậy, hãy tìm kiếm cơ hội đặc ân để bày tỏ những hành động yêu thương ngay hôm nay để đem ánh sáng của Đấng Chirst cho người khác.

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết sự ngu muội của việc lấy ác trả ác. Nguyện con thật biết ơn Ngài về những hành động yêu thương và nhân ái mà Ngài đã tỏ cho con hầu cho con cũng tìm cách để chia sẻ những việc lành với những người khác trong tinh thần vui mừng!

Hãy thắp sáng thế giới của bạn bằng một hành động nhân từ.

 

Nguồn: vietnamese-odb.org

 

KHẢI THỊ và KHẢI TƯỢNG.

joseph
KHẢI THỊ và KHẢI TƯỢNG. 
( Revelation and Vision)

 Khải thị cũng còn gọi là khải huyền đồng nghĩa với mặc khải,  nhưng khác nghĩa với khải tượng (tầm nhìn, sự hiện thấy). Khải thị ra từ động tiếng Anh “reveal” có nghĩa là bởi quyền năng thiên thượng tiết lộ điều bí mật, kín dấu ; truyền đạt một ý tưởng ( mặc khải). Trong Kinh thánh dùng rất nhiều lần  từ này để chỉ các tiên tri của Đức Chúa Trời bày tỏ ý muốn của Ngài cho  cá nhân như Áp-ra-ham, cho Y-sơ- ra-ê dân sự Ngài, cho chính tiên tri của Ngài như trong trường hợp tiên tri Ê-li.

Ngoài mặc khải, Đức Chúa Trời còn dùng những khải tượng (vision), sự hiện thấy có thể là một dị tượng ẩn chứa một sự huyền bí trong đó như trường hợp những con thú trong chiêm bao của Đa-ni-ên.
Châm Ngôn 29:18 chép,” Where there is no REVELATION, the people cast off restraint; but blessed is he who keeps the law”. Câu nầy có ý là   khải thị và luật pháp  chi phối đời sống người tín đồ. “nơi nào không có lời Chúa thì dân chúng đâm ra phóng túng, nhưng ai vâng lời dạy dỗ sẽ đượ tôn trọng” ( bản dịch phổ thông).

 

Mặc khải trong tâm linh, khải tượng trong tâm trí, trong tâm hồn. Trong sách Mathio 16 và 17 Chúa Jesus phân biệt mặc khải và khải tượng như sau- Chúa nói cùng Phi-e-rơ : “Si-môn, con Giô-na ơi, ngươi có phước đó, vì chẳng phải thịt và huyết bày tỏ điều ấy cho ngươi đâu; bèn là Cha ta ở trên trời vậy”.

      ” blessed are you, Simon son of Jonah, for this was not REVEALED to you by man, but by my Father in heaven”.
      Sáu ngày sau đó, Chúa đem ba môn đồ, trong đó có Phiero lên núi cao. Ngài hoá hinh  trước mặt họ, và có Môi-se và Ê-li hiện ra nói chuyện với Ngài. Cả cảnh tượng đó là khải tượng cho Phi-r-rơ. Đang khi xuống núi, Chúa dặn họ, “Chớ thuật lại dị tượng ấy cho ai cả, cho đến khi Con người từ kẻ chết sống lại.”  Danh từ “dị tượng đây là “khải tượng, là sự hiện thấy” trong tâm trí.

 

  • Những người chấp hành mặc khải của Đức Chúa Trời:

 Vào thời Nô-ê chưa có mưa, dân chúng chưa biết mưa là gì cả ( Sáng  2). Nhưng khi Đức Chúa Trời ban khải thị cho Nô-ê về mưa gió, lũ lụt sẽ đến trên địa cầu, ông tin. Thơ Hê-bơ-rơ 11:7 chép, “Bởi đức tin Nô-ê được Chúa mách bảo về những điều chưa thấy, động lòng kính sợ mà sắm sửa một chiếc tàu để cứu nhà mình; bởi đó người định tội cho thế giới, và trở nên kẻ thừa kế sự công nghĩa theo đức tin”. “Những điều chưa thấy” đây là mưa gió, bão lụt. Nhưng Nô-ê đã nhìn thấy mưa, lũ lụt . Nô-ê còn rao giảng về cơn lũ lụt sẽ là sự phán xét của Đức Chúa Trời cho dân chúng thời đại ông, có lẽ suốt gần 120 năm. Phi-e-rơ gọi ông là Thầy giảng đạo sự công bình (2 Phiero 2:5).

Vì Nô ê tin vào khải thi Chúa cho nên Ngài cho Ông một khải tượng về một con tàu để được cứu trong trận đại hồng thuỷ sẽ xảy ra mặc dù chưa biết vào lúc nào.

Sáng thế ký 6:22; 7:5, 9, 16, tất cả bốn lần chép, “Nô ê làm các điều nầy y như lời Đức Chúa Trời đã phán dặn”. Bốn câu nầy  nói lên rằng Nô-ê tuân theo một cách trọn vẹn trong viêc thực  hiện khải tượng Chúa ban cho mình .

Sách Xuất hành 24 đến 32 chép việc Đức Chúa Trời kêu Môi-se lên núi Sinai sống trước mặt Ngài trong 40 ngày đêm. Ngài ban khải tượng cho ông mọi chi tiết về sự xây đựng đền tạm trong đồng văng. 

. Cụm từ “y như Đức Giê-hô-va đã truyền lịnh” xuất hiện 19 lần trong các chương 38, 29 và 40 sách Xuất  cũng nói lên rằng  chính Ông là người lảnh đạo đã hướng dẫn mọi người cùng thực hiện khải tượng một cách nghiêm túc.

 

  • Những người ngăn trở hoặc thưc hiện khải tượng theo ý riêng.

 Đức Chúa Trời nhiều lần hiện ra cùng Abraham, ban cho ông nhiều mặc khải về dòng dõi của ông. Sáng thế ký 13: 15 và 17: 8 chép, “Vì cả xứ nào ngươi thấy, ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi đời đời.–Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ Ca-na-an, làm cơ nghiệp đời đời”. Dòng dõi nầy, trước nhất  là Y-sác, để sinh ra dân tộc Israel. Ý nghĩa thứ hai là Đấng Christ (Galati 3:16), dòng dõi Abraham vì Mathio 1:1 chép, “Gia phổ của Jêsus Christ, con Đa-vít và con Áp-ra-ham”.

 Sau khi vào ở trong xứ 10 năm, Abraham không thấy Sara sinh con, nên ông đã thuc hiện mặc khải theo ý riêng. Ông đã chấp nhận Aga là giải pháp của vợ ông làm cho mặc khải sớm ứng nghiệm.Kết quả Abraham rơi vào tình trạng tối tăm. Đức Chúa Trời ẩn mặt với ông trải 13 năm, không khải thị cho ông gì cả. Đó là hậu quả của những người muốn thưc hiện khải thị của Đức Chúa Trời bằng phương cách của con người.

Đang khi mang thai, Rê-be-ca cầu hỏi Chúa. Chúa ban cho bà sự khải thị. Kinh thánh chép, “Nhưng vì thai đôi làm cho đụng nhau trong bụng, thì nàng nói rằng: Nếu quả thật vậy, cớ sao điều nầy xảy đến làm chi? Đoạn, nàng đi hỏi Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va phán rằng: Hai nước hiện ở trong bụng ngươi, và hai thứ dân sẽ do lòng ngươi mà ra; dân nầy mạnh hơn dân kia, và đứa lớn phải phục đứa nhỏ” (Sáng 25: 22-13). Rê- bê-ca giữ trong lòng mãi 15 hay 20 năm sau, khi Gia-cốp khôn lớn bà mới kể lại cho Gia-cốp biết. Nhưng hai mẹ con không tin cậy lời Chúa nói, không chờ đợi mặc khải ứng nghiệm mà lại đồng lõa, âm mưu bảo vệ quyền thừa kế của Gia cốp mà Đức Chúa Trời thiết lập, theo cách gian xảo, quỉ quyệt của mình.

Đó là vết xe đổ của rất nhiều tôi tớ, con dân Chúa. Họ được ban cho mặc khải thiên thượng như tiên tri Balaam, vua Sau-lơ, như Gia cơ , em Chúa, như Đê ma v..v.. Rất tiếc họ đưa bàn tay xác thịt thưc hiện khải tượng của Đức Chúa Trời. Họ dùng các phương pháp gian ác, bất nghĩa, quỉ quyệt để thực hiện mặc khải của Đức Chúa Trời cho dù có gây tổn hại hay giày đạp bất cứ ai trên đường đi tới của họ. Cuối cùng mặc khải của Đức Chúa Trời phải ứng nghiệm, nhưng các “tôi tớ”  bất nghĩa, bất pháp đó không thoát khỏi sự hình phạt đích đáng của Chúa.

 Về Giô-sép Cựu ước, Kinh thánh chép, “Giô-sép có nằm chiêm bao, thuật lại cho các anh mình nghe; họ càng thêm ganh ghét nữa.  Người nói rằng: Tôi có điềm chiêm bao, xin các anh hãy nghe tôi thuật:  Chúng ta đương ở ngoài đồng bó lúa, nầy bó lúa tôi đứng dựng lên, còn bó lúa của các anh đều đến ở chung quanh, sấp mình xuống trước bó lúa tôi. 8 Các anh người bèn đáp rằng: Vậy, mầy sẽ cai trị chúng ta sao? mầy sẽ hành quyền trên chúng ta sao? Họ càng ganh ghét hơn nữa, vì điềm chiêm bao và lời nói của chàng”.

 Giô-sép lại nằm chiêm bao nữa, thuật cùng các anh mình rằng: Tôi còn có một điềm chiêm bao nữa: Nầy mặt trời, mặt trăng, và mười một ngôi sao đều sấp mình xuống trước mặt tôi!  Chàng thuật chiêm bao đó lại cho cha và các anh mình nghe; nhưng cha chàng quở mà hỏi rằng: Điềm chiêm bao của mầy đó có nghĩa chi? Có phải tao, mẹ, và các anh mầy đều phải đến sấp mình xuống đất trước mặt mầy chăng?  Các anh lấy làm ganh ghét chàng; còn cha lại ghi nhớ lấy điều đó” (Sáng 37: 5-11). 

Giô-sép là người có tính thật thà, mà cả cuộc đời của Ông đã nói lên điều đó, đã chân thành thuật lại những mặc khải mà Chúa đã ban cho mình. 

 Những gian truân vô cùng khốc liệt  trong cuộc đời Joseph do lòng ganh tỵ của người ruột thịt hay do sự thù hằng vu oan vì không cãm dỗ được Joseph từ người đàn bà tà dâm tưởng chừng như phá đổ khải tượng mà ông đã nhận được đích thực từ Chúa. Joseph một lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời mình và khải tượng đã hoàn thành một cách thần thượng.

Joseph chắc chắn biết được mặc khải của Đức-Chúa-Trời cho tổ phụ mình ( Sáng 15).

Trước khi qua đời, Đức Chúa Trời đã khải thị cho Giô-sép về cuộc xuất hành sau nầy của Israel ra khỏi Ê-díp-tô để trở về đất hứa.  Giô sép nói, “Kế, Giô-sép nói cùng các anh em rằng: Em sẽ chết, nhưng Đức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em thật; đem các anh em về xứ mà Ngài đã thề hứa cùng Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Giô-sép biểu các con trai của Y-sơ-ra-ên thề mà rằng: Quả thật, Đức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em; anh em hãy dời hài cốt tôi ra khỏi xứ nầy (Sáng 50:24,25)

Những người nhận lảnh Khải thị và thực hiện khải tượng một cách trung thành và hết lòng thì có đời sống tươi mới và sung mãn trong sự thờ phượng và hầu việc Ngài.

Đó là lý do mà tất cả chúng ta đều ước ao được sự mặc khải và có khải tượng từ thiên thượng.

 Đặc biệt là những người hầu viêc  Chúa thì phải có khải tượng, nếu không thi như Phao lô đã nói chẳng qua là ” chạy bá vơ hoặc đánh gió” mà thôi.

 I Corinhto 14:26 chép, “Anh em ơi, vậy, phải thể nào? Khi nhóm lại, thì mỗi người trong anh em, ai có thi thiên,  ai có sự dạy dỗ, ai có sự khải thị, ai có tiếng lạ, ai có thông dịch: hãy làm mọi sự cho được gây dựng” (theo bản Hi lạp).

 Động từ “có” xuất hiện 5 lần trong câu nầy. Động từ nầy ở thì hiện tại năng động. Người tham gia nhóm họp có thể hoặc phải có một trong 5 điều đó theo cách cá nhân. Rồi câu 30 nói thêm, “Song nếu có kẻ khác ngồi đó được sự khải thị thì người đương nói trước phải nín lặng”. Con dân Chúa nhóm với tính cách hỗ tương san sẽ lời Chúa. Một số người nào đó có thể góp phần điều tươi mới trong lòng mình cho buổi nhóm.

Ngay trong bài cầu nguyện chung ,sự mặc khải ” Nước cha được đên ” chúng ta đọc một cách vô hồn như con vẹt. Nếu đọc ê a như để tụng kinh hạy đọc gấp rút như thi ăn nhanh cả hai đều vô nghĩa. Vậy chúng ta nên đọc bài cầu nguyên chung như thế nào để Lời  và những mặc khải  đi vào tâm linh của chúng ta.

Nói chung mọi sinh hoạt hội thánh phải thực hiện cho mọi người với tư cách là một người sẳn sàng để nhận một khải thị hay một khải tượng cho riêng mình qua lời Chúa, qua lời cầu nguyện và lời ca ngợi.Tránh những hình thức phô trương khoe khoan, những công thức khô khan làm khô cằng tâm linh của con cái Chúa.

 Sứ đồ Phao-lô muốn dân Chúa đem sự mặc khải trực tiếp, sự khải thị tươi mới vào buổi nhóm hội thánh. Đừng đem mặc khải quá hạn như ma na đã qua đêm vào trong buổi thờ phượng Chúa.

 

 Nguyện xin Chúa cho mỗi con dân, tôi tớ Chúa “có lòng đơn sơ như trẻ thơ” để nhận được khải thị mới và một khải tượng kèm theo những ân tứ để sống cho Ngài. Theo Lu ca 10:21

 ” At that time Jesus, full of joy through the Holy Spirit, said ” Praise you, Father, Lord of heaven and earth, because you have hidden these things from the wise and learned, and REVEALED them to little children. Yes, Father, for this was your good pleasure”( NIV).

” Bấy giờ Chúa Jesus mừng rở trong Thánh Linh. Ngài nói,” Thưa cha, con ca ngợi Cha là Chúa của trời đất, vì Cha đã giấu những điều nầy khỏi những người khôn ngoan thông sáng mà bày tỏ cho những người có lòng đơn sơ như trẻ thơ. Vâng, thưa Cha vì đó là điều Ngài muốn” ( Bản phổ thông).

 

Mục sư Nguyễn Đức Na

 

 

Lời than khóc của Sứ đồ Phao-lô

Tôi tâm đắc với lời tâm tình và chia xẻ của mục sư Lê Minh Đạt. Xin chuyển tiếp đến tôi con của Chúa để suy gẫm.
MS JosephNa Nguyễn
Sáng cuối tuần, mình chở Gấu và con trai (7 tuổi) đi ăn sáng.
 
Đang ăn sáng, thì con trai đòi mẹ mua cá trứng về chiên ăn. Mẹ hẹn chiều sẽ mua. Con trai nằng nặc đòi, vừa đòi vừa khóc, nói bằng giọng nhão nhẹt, sao hôm bữa mẹ hứa sẽ mua. Mẹ giải thích rằng đang bận công việc, chưa mua được, chiều mua đồ siêu thị nhiều thứ sẽ mua cá trứng luôn. Thế nhưng con trai vẫn tiếp tục khóc, nước mắt chảy thành dòng, nhắc đi nhắc lại rằng mẹ đã hứa với con sao mẹ chưa mua cá trứng, con thèm ăn cá trứng, con muốn ăn cá trứng. Mình bực quá nạt mấy tiếng thì con trai mới thôi.
 
Mình vừa tiếp tục bữa sáng, vừa suy nghĩ. Hình ảnh của con trai giống như nhiều Cơ đốc nhân ngày nay. Họ nằng nặc đòi Chúa thực hiện những gì Chúa đã hứa, nằng nặc đòi như một đứa trẻ, nhưng không xem lại mình đã sống đẹp lòng Chúa chưa. Họ vin vào những lời hứa trong Kinh Thánh như thể buộc Chúa phải có trách nhiệm đáp ứng những đòi hỏi của họ. Họ quên rằng những lời hứa của Chúa trong Kinh Thánh đều có những điều kiện. Họ không thực hiện những nghĩa vụ về phía họ, nhưng lại muốn (và mè nheo!) Chúa phải thực hiện lời hứa của Ngài. Họ cho rằng khi họ lấy đức tin công bố ra thành lời những gì họ muốn, thì Chúa sẽ đáp ứng lời công bố đó, vì đó là lời Ngài đã hứa. Đối với họ, Chúa trở thành ông Bụt, hoặc là ông thần đèn, có nghĩa vụ phải đáp ứng những yêu cầu, những đòi hỏi, những mong muốn của họ. Họ chỉ cần “lấy đức tin công bố.”
 
Nếu sứ đồ Phao-lô sống lại ngày nay và dạy những gì ông đã dạy trong Tân Ước, có lẽ nhiều người sẽ cho rằng ông lạc hậu. Ông dạy rằng Cơ đốc nhân phải thờ phượng Chúa bằng cả cuộc sống mình, đừng bắt chước thói đời thế gian, đổi mới nếp sống và giá trị sống như là biểu hiện của đổi mới con người bề trong, thì lúc đó mới kinh nghiệm sự tốt lành của Chúa (Rô-ma 12:1-2). Ngày nay thì người ta quá chú trọng rằng thờ phượng là hát, hát là thờ phượng. Vì thế có cảnh một người khi hát thì phiêu phiêu, ngất ngây như thể đang đắm chìm trong sự thăm viếng của Chúa, nhưng khi hết giờ hát đến giờ giảng luận thì cũng chính người đó lấy điện thoại ra nhắn tin hoặc lướt Facebook. Ngay ở trong Hội Thánh, thì đối với họ Lời Chúa vẫn không hấp dẫn bằng Facebook.
 
Ngày nay, nếu sứ đồ Phao-lô giảng dạy, những người theo phong trào Lời Đức Tin (Word of Faith movement) sẽ cười nhạo rằng ông là văn tự, là truyền thống. Phao-lô dạy rằng khi con cái Chúa gặp nan đề thì cầu nguyện.
 
“Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ.” (Ê-phê-sô 6:18).
 
“Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời.” (Phi-líp 4:6).
 
Phong trào Lời Đức Tin thì chủ trương rằng phải công bố ra thành lời những điều mình muốn, rồi Chúa sẽ làm thành những điều ấy. Họ trưng ra những lời hứa của Chúa như một đứa trẻ con ăn vạ cha mẹ mình, bắt cha mẹ phải đáp ứng những điều nó muốn. Như một đứa trẻ không giữ những “điều kiện” về phía mình, như chăm ngoan, học giỏi, vệ sinh, siêng năng, lễ phép, hiếu thảo, nhưng nó nhất mực nằng nì cha mẹ thực hiện lời hứa với nó.
 
Cách đây 30 năm, Cơ đốc nhân tại Việt Nam lo ngại với sự bắt bớ, nhưng cũng có người đã thấy trước rằng, khi sự bắt bớ dịu đi thì cũng đáng lo không kém. Bởi khi đó, những sự dạy dỗ lệch lạc, những tà giáo sẽ du nhập vào Việt Nam cách dễ dàng. Nó sẽ làm cho Cơ đốc giáo bị vẩn đục, và Hội Thánh mất quyền phép. Nỗi lo đó ngày nay đã trở thành sự thật.
 
Hội Thánh ngày nay giàu hơn, đủ phương tiện hơn, nhiều chương trình và tiết mục hơn, nhưng lại ít đi những tấm lòng, những cuộc đời được thay đổi. Hội Thánh ít quyền phép hơn. Nhưng không sao. Đội ngũ lãnh đạo trong Hội Thánh có thể tự tạo được không khí thuộc linh, thiêng liêng trong buổi nhóm bằng âm nhạc và đèn chiếu như vũ trường, cộng với diễn giả khoa tay múa chân nói về sự chữa lành và thịnh vượng. Khi sự kích thích cảm xúc lan truyền từ người này sang người khác trong buổi nhóm, họ gọi đó là “Chúa thăm viếng.” Hội Thánh trong thời Công vụ các sứ đồ đã thay đổi được thế giới vô tín vì đặc tính yêu thương, ban cho. Hội Thánh ngày nay thì chỉ có “quyền phép” trong buổi nhóm – tôi đóng ngoặc kép chữ quyền phép. Các sứ đồ ngày xưa xả thân suốt đời để giảng Tin Lành Cứu Rỗi. Nhiều diễn giả Tin Lành Thịnh Vượng ngày nay thì tham lam vô độ, nhiều người phải ra tòa vì thâm lạm hàng chục triệu đô-la. Mới tuần trước, ở Brasil vừa khánh thành một đền thờ của một mục sư Tin Lành Thịnh Vượng trị giá 300 triệu đô-la, có lẽ đắt tiền nhất thế giới, ở đó người ta xem ông như một vị thần. Ông tự hào rằng đền thờ này có thể thay thế cho đền thờ của Salomon ngày xưa. Gần Việt Nam hơn là Singapore, nhiều thanh niên trong một Hội Thánh nọ quay video clip tôn sùng vị mục sư Tin Lành Thịnh Vượng như một vị thánh, dù rằng ông đang bị truy tố hình sự vì thâm lạm tài chính, lấy tiền ngân quỹ để chắp cánh cho tiếng hát của vợ mình.
 
Hội Thánh ngày nay ít tôn cao Lời Chúa hơn. Nhưng không sao. Đã có những diễn giả khoa tay múa chân kích động hội chúng, cộng với những sứ điệp mà đám đông luôn luôn muốn nghe, như: chữa lành, giàu có, thành công. Khi bạn có hai yếu tố này, bạn có thể khiến bất cứ đám đông nào cũng phát cuồng.
 
Bạn nghe được lời than khóc của sứ đồ Phao-lô không?
 
“Hỡi anh em, hãy bắt chước tôi, lại xem những kẻ ăn ở theo mẫu mực mà anh em thấy trong chúng tôi. Vì tôi đã thường nói điều nầy cho anh em, nay tôi lại khóc mà nói nữa: lắm người có cách ăn ở như là kẻ thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ. Sự cuối cùng của họ là hư mất; họ lấy bụng mình làm chúa mình, và lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển, chỉ tư tưởng về các việc thế gian mà thôi.” (Phi-líp 3:17-19).
 
Thân ái,
LMĐ.
 

MỘT LỜI NÓI DỐI TỰ NHIÊN

kotickliar

 

(hình mang tính minh họa)

Hùng năm nay 5 tuổi. Nó có thể chạy nhảy, đi chơi một mình trong xóm không cần người lớn chăm sóc.

Một buổi trưa hè oi ả ở miền Nam. Hùng ra khỏi nhà ngồi dưới bóng mát một bụi tre. Read more…

KẺ BÁCH HẠI HỘI THÁNH

2014_06_01_qd37vodpman

Là một người Do Thái thuộc chi phái Bên-gia-min, nhưng Sau-lơ được sinh ra trong một gia đình trung lưu ở thành phố Tạt-sơ (ngày nay thuộc Thổ nhĩ kỳ). Đây là một thành phố thuộc đế quốc La Mã, vì vậy Sau-lơ có quốc tịch Rô-ma. Lớn lên Sau-lơ được gia đình gởi về Giê-ru-sa-lem và học tập với thầy tế lễ cả Ga-ma-li-ên. Tuy dáng người thấp bé nhưng Sau-lơ cực kỳ thông minh, chàng trai này nhanh chóng lĩnh hội tất cả những tinh hoa của Do Thái Giáo và trở thành một trong những hạt giống xuất sắc của phái Pha-ri-si. Ngoài ra Sau-lơ còn được trang bị những tri thức cao nhất của nền văn hóa Hy lạp và La tinh. Anh ta là một thanh niên sốt sắng và nóng cháy theo truyền thống của giáo hội đương thời, có khả năng đọc thuộc lòng bộ Kinh Thánh Cựu Ước, được xem như  một ngôi sao đang lên của giáo hội truyền thống. Khi sứ đồ Ê-tiên bị ném đá, trở thành người tử đạo đầu tiên của hội thánh vào năm 34 thì Sau-lơ đứng ở phía sau hậu trường im lặng quan sát và khoan khoái mỉm cười, hài lòng về việc này.

Khi theo dõi những hoạt động của Chúa Jesus và các sứ đồ trong hơn ba năm ở xứ Pha-lét-tin, Sau-lơ đã âm thầm lên một kế hoạch để chống lại Chúa Jesus và các môn đệ của Ngài. “Đây là một nhóm nguy hiểm cho nền tảng của Do Thái Giáo. Ta phải vận động các trưởng tế để xin một lệnh truy nã đối với bọn chúng”. Sau-lơ đã nghĩ về Chúa Jesus và những người theo Ngài theo cách đó.

Năm 30 Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá. Sau-lơ nghĩ rằng đạo của Chúa rồi cũng sẽ lụi tàn theo năm tháng. Nhưng khác với mong đợi của Sau-lơ, từ tầng trên của một ngôi nhà tại Giê-ru-sa-lem, Phúc Âm của Chúa Jesus Christ đã bùng nổ ra khắp  thế giới.

Hội thánh trong những ngày đầu tiên đã lan ra nhanh chóng sau khi sứ đồ Phi-e-rơ giảng một sứ điệp nẩy lửa trong ngày lễ Ngũ tuần và sau đó Ê-tiên tuận đạo. Sau-lơ cùng với đám tùy tùng của mình đã đến một số ngôi nhà của những người qui đạo trấn áp và tống giam họ vào tù. Ông ta trở thành một trong những kẻ đầu tiên bắt bớ  hội thánh thời các sứ đồ.

Sau một hội nghị đặc biệt của các thầy tế lễ để tìm mọi cách tiêu diệt hội thánh đầu tiên từ trong trứng nước, Sau-lơ đã nhận được một chỉ thị qua một lá thư của thầy tế lễ thượng phẩm tại kinh thành Giê-ru-sa-lem:

“Anh có toàn quyền để truy nã tất cả những kẻ nào tuyên xưng danh Jesus”. Bằng cách đó, các thầy tế lễ đầy quyền uy đã trao cho Sau-lơ một  nhiệm vụ: Bắt và giải về Giê-ru-sa-lem tất cả những ai theo Jesus, người Na-xa-rét. Sau-lơ trở nên một kẻ bách hại đạo Chúa chuyên nghiệp được các quan chức tôn giáo hậu thuẫn!

Sau-lơ lên đường đến Đa mách vào năm 35 để thực hiện sứ mạng được ủy thác. Ra đi với một quyết tâm nóng cháy là phải tiêu diệt cho kỳ được hội thánh trong thời kỳ sơ khai, Sau-lơ nói với nhóm tùy tùng:

– Nếu ta không tiêu diệt những kẻ theo đạo của Jesus, bọn chúng sẽ lan ra như cỏ dại.

Các thành viên trong nhóm phụ họa:

– Xin Thiên Chúa ban sức mạnh cho ông để ông làm được điều lòng mình ao ước.

Không ai có thể ngờ những gì xảy ra sau đó trên chuyến đi tới Đa-mách. Khi đang đi đường Sau-lơ bỗng ngã xuống và ông hoàn toàn không biết việc gì đang xảy ra.

–  Hỡi Sau-lơ, tại sao ngươi bách hại ta? Có một tiếng nói với âm giọng sang sảng uy nghiêm, chung quanh Sau-lơ là một luồng ánh sáng chói lòa từ trên cao như đèn pha công suất lớn.

– Lạy Chúa, Ngài là ai? Sau-lơ hoảng hốt hỏi.

– Ta chính là Jesus mà ngươi đang bắt bớ.

Sau-lơ mắt vẫn mở nhưng trước mặt ông trời đất bỗng tối tăm mù mịt. Ông đã bị mù!

Cả nhóm tùy tùng đi theo nghe tiếng nói nhưng không thấy gì cả. Mọi người bấn loạn tinh thần. Thủ lĩnh của họ đã bị đốn ngã một cách siêu tự nhiên!

Đám tùy tùng miễn cưỡng nắm tay Sau-lơ dắt ông  vào thành phố Đa-mách.

Đức Chúa Trời đang hành động để bày tỏ uy quyền của Ngài trên một kẻ bách hại các cơ đốc nhân.

Trong ba ngày tiếp theo sau, Sau-lơ nhận được một bài học lớn. Ông ta không ăn uống trong thời gian đó mặc cho đám tùy tùng ép ông phải ăn hoặc uống một chút gì.

Sau-lơ bắt đầu cuộc hành trình tìm về cội nguồn của mình. Tâm thức ông vẫn hoạt động trong suốt ba ngày đặc biệt đó. Dường như ông bước vào trong sự kiêng ăn toàn phần để chuẩn bị cho những khải thị thiên thượng. Chỉ có cá nhân ông biết được điều gì đang xảy ra trong tâm trí làm đảo ngược những tri thức cũ kỹ của ông.

Không ai phủ nhận Sau-lơ có một tấm lòng sốt sắng về Đức Chúa Trời, nhưng nhận thức của ông về Ngài cần phải được điều chỉnh.

Là một con người đầy bản lĩnh, một thủ lĩnh xuất sắc của phái Pha-ri-si, có thể nào Sau-lơ bị khuất phục và từ bỏ con đường bắt bớ đạo Chúa?

Đức Chúa Trời quyền năng làm những điều không thể trở thành có thể. Sau-lơ chính là tác phẩm trong bàn tay của Người Thợ Gốm vĩ đại.

Trong ba ngày không ăn uống, tư tưởng Sau-lơ đã được thay đổi cách kỳ diệu. Những đồn lũy và thành trì trong tâm trí của ông bị đốn ngã bởi một quyền năng siêu nhiên!

Sau-lơ nhớ lại tất cả những sự kiện về Chúa Jesus mà ông đã từng theo dõi trong hơn ba năm chức vụ của Chúa. Trong những năm ấy ông là một viên chức tôn giáo im lặng theo dõi những bước chân của Chúa với một tinh thần đố kỵ. Những gì không phù hợp với kiến thức của mình thì Sau-lơ xem đó là phản nghịch, chống lại Đức Chúa Trời và Giáo hội. Giờ đây ánh sáng thiên thượng đã làm cho ông thấy những quan điểm và hành động trước đây của mình thật sai lầm. Ông đã từng bách hại các Cơ đốc nhân trong những ngày đầu tiên. Khi làm như thế ông tưởng rằng mình đang hầu việc Chúa. Còn bây giờ Sau-lơ thấy những việc làm của mình là đáng hổ thẹn.

Để khuất phục một con người cứng cỏi, luôn bảo thủ gìn giữ những giá trị truyền thống của dân tộc, Đức Chúa Trời đã hành động theo cách của Ngài. Không có một công thức nào là cố định được áp dụng cho từng cá nhân, Thiên Chúa đã bày tỏ sự thương xót của Ngài trên một người đứng đầu những kẻ bắt bớ các cơ đốc nhân.

Khi Chúa hành động thì những hòn đá vô tri cũng trở thành con cháu của Áp-ra-ham! Sau-lơ là ai mà có thể chống lại Chúa? Từ một con sói có thể trở nên một con cừu trong bầy của Chúa. Đó chính là quyền năng của Phúc Âm trong trường hợp Sau-lơ.

Sau-lơ đã được điều chỉnh trong nhận thức về Chúa Jesus Christ và thập tự giá của Ngài. Những năm trước đó ông phủ nhận chức vụ của Chúa Cứu Thế. Còn bây giờ, gió đã xoay chiều: Sau-lơ đã được Chúa Jesus mặc khải chính Ngài cho ông. Ông đã được gặp Chúa cách cá nhân! Những gì về Chúa Jesus mà ông chống đối trước đây lại trở thành ánh sáng chân lý cho cuộc đời ông. Ông đã được thay đổi để công bố Phúc Âm của Chúa Jesus.

Cùng lúc đó, A-na-nia một môn đồ cư trú tại thành Đa mách được thần của Chúa mách bảo trong giấc chiêm bao:

-Thức dậy đi. Hãy đến nhà Giu-đa tại đường phố Ngay Thẳng hỏi thăm về Sau-lơ, người Tạt-sơ. Anh ta đang cầu nguyện tại đó.  Anh ta đã được thông báo từ trong dị tượng là sẽ có ngươi đến đặt tay trên anh ta hầu cho anh ta có thể sáng mắt lại.

A-na-nia biện luận:

– Chúa ôi, theo con biết, người này là một kẻ bắt bớ những ai kêu cầu danh Chúa Jesus. Có lẽ nào con lại đến giúp đỡ nó sao?

 

Nhưng Chúa phán với A-na-nia:

 

-Ngươi hãy đi, vì ta đã chọn Sau-lơ để thực thi một sứ mệnh quan trọng: anh ta sẽ trở nên một người rao giảng Phúc Âm cho mọi dân tộc, gồm cả các vua.

A-na-nia vâng lời, đi đến đúng địa chỉ mà Chúa đã hướng dẫn. Ông đặt tay trên Sau-lơ và trịnh trọng tuyên bố:

– Anh Sau-lơ thân yêu, Chúa Jesus đã sai tôi đến đây để anh được sáng mắt và nhận lãnh Đức Thánh Linh.

Phép lạ xảy ra! Sau lơ cảm nhận một vật gì như vảy cá rơi ra khỏi đôi mắt mù lòa của ông. Sau- lơ đã được nhìn thấy trở lại. Ông nhìn A-na-nia và mọi người trong nhà Giu-đa qua một lăng kính hoàn toàn mới.

Khi ánh sáng đến thì bóng tối lùi xa!

Sau-lơ đứng dậy, ăn năn tội lỗi và nhận lãnh phép báp-tem. Một cuộc đời đã được thay đổi! Một kẻ bắt bớ hội thánh được biến đổi để chuẩn bị trở thành một sứ đồ trứ danh.

Không bao lâu sau đó, người ta thấy Sau-lơ xuất hiện trong các nhà hội Do Thái tại Đa-mách. Sau-lơ đứng lên, công bố:

-Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời.

Mọi người đều sững sờ. Họ bị sốc! “Tên này đã từng bắt bớ những ai kêu cầu danh Jesus, mà tại sao hôm nay có cớ sự lạ lùng này?” Đám đông ồn ào hỏi nhau.

Sau-lơ càng rao giảng về Chúa Jesus, ông ta càng trở nên mạnh mẽ, xác quyết, chứng tỏ Jesus là Đấng Mê-si làm cho nhiều người Do Thái không thể bẻ bác được.

Sau-lơ đã khai hỏa cho những sứ điệp về Chúa Jesus bất chấp mọi nghi ngờ về tính chính danh của ông.

Từ một người thuộc hàng ngũ Pha-ri-si bảo vệ truyền thống của Do Thái Giáo, Sau-lơ  đã được Chúa kêu gọi và trở thành sứ đồ của Chúa Jesus Christ. Những lời giảng đầu tiên của Sau-lơ làm cho những người bảo thủ trong giáo hội ở Đa-mách vô cùng tức giận, và họ tìm cách giết ông. Sau-lơ biết được âm mưu đó, ông trốn thoát khỏi thành phố vào ban đêm nhờ sự trợ giúp của các tín hữu. Họ đã cho ông vào một cái thúng rồi thòng ông xuống qua lỗ hổng trong vách thành.

Sau-lơ bắt đầu chức vụ của mình với nhiều khó khăn.

Ông trở về Giê-ru-sa-lem gia nhập với cộng đồng hội thánh, nhưng hầu hết đều e ngại về tư cách của ông. Chuyện này cũng dễ hiểu, vì rõ ràng hồ sơ của ông có vấn đề. Một tên bắt bớ đạo Chúa trở nên môn đồ!  Điều này rất khó thuyết phục các tín hữu khác.

 

Nhưng Ba-na-ba, một người đầy dẫy Thánh Linh và đức tin đứng ra bảo lãnh cho tư cách và mục vụ của Sau-lơ. Ba-na-ba bênh vực và làm chứng tốt về ông trong cuộc họp chung với các sứ đồ. Nhờ điều này Sau-lơ đi khắp hang cùng ngõ hẻm trong thành phố Giê-ru-sa-lem tiếp tục rao giảng về Chúa Jesus và tham gia tranh luận sôi nổi với những người Do Thái nói tiếng Hy Lạp. Họ thấy Sau-lơ thực sự nguy hiểm, có tiềm năng phá đổ nền tảng của Do Thái Giáo, nên  những người này cũng tìm cách thủ tiêu ông. Các tín hữu thấy tình hình bất lợi cho Sau-lơ nên tìm cách đưa ông rời Giê-ru-sa-lem, trở về ẩn cư ở Tạt-sơ là quê nhà của ông một thời gian.

Đạo Chúa tiếp tục lan rộng qua chức vụ của các sứ đồ  và hội thánh đầu tiên. Sau khi Ê- tiên bị ném đá cho đến chết, hội thánh ở Giê-ru-sa-lem bị bắt bớ và một số thánh đồ chạy tới An-ti-ốt. Tại đây họ làm chứng về danh Jesus và Chúa đã làm cho nhiều người qui đạo. Hội thánh ở Giê-ru-sa-lem nghe tin bèn cử Ba-na-ba đến An-ti-ốt. Ba-na-ba đến nơi tận mắt chứng kiến một làn sóng Phúc Âm đang lan rộng, ông biết nơi này cần đến ân tứ của Sau-lơ. Vì vậy ông đến Tạt-sơ vào năm 43 để mời Sau-lơ đang ẩn cư về An-ti-ốt đồng công với ông cùng giảng dạy giúp đỡ cho các tín hữu mới tại An-ti-ốt. Chức vụ của Sau-lơ bắt đầu khởi sắc từ đây. Ông đã có đất để dụng võ! Ba-na-ba và Sau-lơ là hai sứ đồ đã có những đóng góp rất lớn cho việc hình thành nên hội thánh tại An-ti-ốt. Cũng chính từ thành phố này mà Sau-lơ và Ba-na-ba được Chúa kêu gọi ra đi truyền giáo.

Từ khoảng năm 46 cho đến cuối đời vào năm 64 sau Công nguyên, Sau-lơ còn được gọi là Phao-lô đã rao giảng Phúc Âm trên khắp đế quốc La Mã rộng lớn từ Châu Á đến Châu Âu. Ông đã thực hiện ba chuyến hành trình truyền giáo đi vào lịch sử, khai sinh hàng loạt hội thánh và viết mười ba thư tín trong Tân Ước, đặt nền tảng căn bản cho thần học của Cơ Đốc Giáo. Trong các thư tín của ông bao gồm nhiều chủ đề về thần học, các vấn đề trong hội thánh cũng như bên ngoài xã hội. Có thể nói rằng nhờ sự soi dẫn của Chúa Thánh Linh ông trở thành trước giả chính của Tân Ước. Ông không chỉ là một sứ đồ in đậm dấu vết thập tự của Chúa Jesus Christ, nhưng đồng thời cũng là một giáo sư cơ đốc với khả năng văn chương uyên bác. Phao-lô đã góp phần làm cho bộ mặt văn hóa của đế quốc La Mã thay đổi qua công tác truyền giáo và các thư tín của ông trong Tân Ước.

Ông đã đi qua nhiều thử thách khó khăn trong chức vụ như: bị giam cầm, roi vọt, ném đá, đói khát, lạnh, chìm tàu…và suýt thiệt mạng vì những âm mưu sát hại ông. Những sự khổ nạn vì danh Chúa là không kể xiết đối với vị sứ đồ trứ danh này. Đồng thời Chúa cũng đóng dấu ấn của Ngài trên chức vụ đầy dẫy quyền năng và phép lạ của ông.

“Hãy bắt chước tôi như chính tôi đã bắt chước Đấng Christ vậy”. Phao-lô đã viết lời này trong thư tín 1 Cô-rinh-tô 11:1. Ông được nhiều học giả Kinh Thánh công nhận là một trong những người mà sau khi đã gặp Chúa Cứu Thế thì trở nên bản sao của Ngài.

Theo truyền thuyết Phao-lô bị chém đầu vào năm 64 dưới thời hoàng đế Nê-rô vì rao giảng Phúc Âm. Chức vụ trên đất của ông kết thúc, nhưng tầm ảnh hưởng của ông thì vượt qua mọi thời đại và các nền văn hóa khác nhau.

TƯỜNG VI

458 lượt xem tại:

http://songdaoonline.com/e2924-ke-bach-hai-hoi-thanh-tuong-vi-bai-chon-dang-132-.html

Post Navigation