Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “DƯỠNG LINH”

TĂNG TRƯỞNG

CẬU BÉ TRỞ VỀ TỪ THIÊN ĐÀNG

Có lẽ bạn đã đôi lần nghe một số lời chứng, một số câu chuyện về “phép lạ, chữa lành, mặc khải…” từ ai đó nhân danh Chúa mà nói, thoạt nghe thì có vẻ thần thoại và huyễn hoặc. Và cuối cùng thì nó đúng thực là huyễn hoặc và thần thoại.

Câu chuyện “Cậu bé trở về từ thiên đàng” (The boy who came back from Heaven) là một trong số đó.

Cậu bé Alex bị tai nạn và hôn mê. Sau một thời gian cậu tỉnh lại.

Năm 2010, một mục sư đã viết cuốn sách, tựa đề “Cậu bé trở về từ thiên đàng”, ghi lại lời chứng của Alex về “những điều Chúa cho thấy” thiên đàng thế này, thiên đàng thế kia. Chỉ có điều đáng nói là, trí tưởng tượng của vị mục sư đã đi quá xa so với những gì cậu bé Alex kể. Và tác giả đã thường xuyên đặt vào miệng Alex những gì cậu không nói. Trong cuốn sách, tác giả kể cậu bé được thấy cảnh thiên đàng, thiên sứ, ma quỷ, và trò chuyện với những chủ thể ấy. Cậu còn được nhìn thấy Chúa! Tràn ngập cuốn sách là những tình tiết huyễn hoặc hoang đường nhân danh Chúa! Cuốn sách nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy (best-seller). Bạn biết đấy, chuyện huyễn hoặc thu hút được nhiều người. Lại thêm “nhân danh Chúa” nữa, có trích vài câu Kinh Thánh nữa, thì càng y như thiệt!

Khi Alex và mẹ phản đối, yêu cầu thu hồi cuốn sách, họ còn chống chế rằng “cuốn sách ấy đang khiến nhiều người được phước.”

Cuốn sách được chuyển thể thành phim (cùng tựa đề với cuốn sách) để đáp ứng nhu cầu tò mò và hiếu kỳ của nhiều người, trong số đó có không ít Cơ đốc nhân!

Thế rồi…

Mới đây, ngày 15/1/2015, nhà xuất bản Tyndale đã chính thức thu hồi cuốn sách. Lý do: nội dung cuốn sách là bịa đặt. Tyndale dùng chữ theo kiểu Mỹ là “the book was invented” – nội dung cuốn sách là do người ta hư cấu chứ không phải có thật.

Chi tiết sự việc này vừa được đề cập trên trang Patheos.

Trang Patheos được xem như một “Book club” của những nhà thần học tại Mỹ. Một nhà thần học có bài được điểm trên Patheos là vinh dự lắm.

Trở lại câu chuyện “Cậu bé trở về từ thiên đàng” với nhân vật chính là cậu bé Alex lên sáu. Công đầu cho việc vạch trần sự thật phía sau câu chuyện, có lẽ thuộc về Hank Hanegraaff. Vị viện trưởng Viện nghiên cứu Cơ đốc (Christian Research Institute – CRI) Hank Hanegraaff được biết đến như một nhà phân tích tà giáo (heresy hunter) được kính phục bởi công tác vạch trần những dạy dỗ lệch lạc của các giáo sư và tiên tri giả (false teachers and prophets).

Mẹ của cậu bé Alex viết thư cho Hank nhờ lên tiếng vạch trần sự dối trá và màn kịch dàn dựng của cuốn sách nhân danh con bà và nhân danh Chúa! Khi Hank vào cuộc thì sự thật phía sau câu chuyện đầy huyễn hoặc kia đã được đem ra ánh sáng.

————-

Bạn thân mến,

Một nếp sống chạy theo phép lạ, tìm kiếm phép lạ sẽ khiến bạn dễ trở thành một dạng thức khác của sự vô tín.

Có cầu thì có cung. Có người thích phép lạ, thì sẽ có người đạo diễn, dàn dựng, và trình diễn phép lạ. Những lời chứng thổi phồng quá sự thật không giúp khích lệ cho ai, có chăng là kích thích đôi tai của người thích chuyện huyễn hoặc mà thôi, vả lại, với hạng người ấy thì không bao nhiêu phép lạ là đủ cho họ.

Nhắc đến Hank Hanegraaff, phải nhắc đến cuốn sách của ông, “Christianity in Crisis” (Cơ đốc giáo đối diện khủng hoảng) xuất bản lần đầu năm 1992, và tái bản bổ sung năm 2009. Cuốn sách này chắc chắn sẽ gây sốc với những ai đã quen thuộc với những dạy dỗ của phong trào Tin lành thịnh vượng và sức khỏe, quen đến nỗi không bận tâm tra xét những dạy dỗ ấy có đúng với Kinh Thánh hay không. Hank Hanegraaff dùng Kinh Thánh để chỉ ra những sai trật của Kenneth Hagin, Kenneth Copeland, Joyce Meyer, Benny Hinn, Joel Osteen, và nhiều người khác nữa. Hank không nói suông. Hank không công bố bừa bãi như những đối tượng trong sách của ông. Cuốn sách là công trình công phu, dày công sưu tầm tài liệu, nói có sách mách có chứng.

Năm 2011 tôi tình cờ biết đến Hank Hanegraaff và trở nên thích đọc ông. Năm 2012, tôi được cầm cuốn “Christianity in Crisis – 21st century” trên tay. Sách còn thơm mùi giấy. Đọc sách là cuộc đối thoại giữa người đọc và tác giả. Những câu chuyện có thật, những tình tiết có thật khiến những ai thích suy tư buộc phải đọc chậm, nghiền ngẫm và so sánh. Và trên hết, có lẽ là nỗi đau trong tâm khảm khi nhìn lại, thấy rằng những sự dạy dỗ lệch lạc, những trò phép lạ gớm ghiết, những kịch bản dị hợm ấy lại được chấp nhận một cách dễ dãi trong hội thánh. Đạo thật vì cớ ấy sẽ bị gièm pha (II Phi 2:2).

Bạn thân mến,

Các sứ đồ đã trực tiếp kinh nghiệm phép lạ, trực tiếp làm phép lạ, nhưng họ không chú tâm vào phép lạ. Nếu chức vụ của bạn quá chú trọng đến phép lạ, bạn sẽ bị áp lực về điều đó trong chức vụ, và đó là mấm mống đẩy bạn đến sự dối trá. Chúa không cần những lời chứng dối để Ngài được vinh hiển.

Chúa của chúng ta là Đấng làm phép lạ. Nhưng Ngài làm điều đó theo ý chí của Ngài, chứ không phải ý chí của chúng ta.

Tôi tưởng rằng, một chức vụ đẹp lòng Chúa là khi chúng ta chuyên tâm cho đẹp lòng Chúa, mọi bổn phận về chức vụ phải làm cho đầy đủ. Mọi sự còn lại thì “ý Cha được nên.”

LMĐ.

http://www.patheos.com/blogs/warrenthrockmorton/2015/01/16/big-questions-for-tyndale-house-after-pulling-boy-who-came-back-from-heaven/?utm_source=SilverpopMailing&utm_medium=email&utm_campaign=Pan%20Patheos%2001.17.15%20(1)&utm_content=&spMailingID=47830311&spUserID=OTYyNTg0OTQwNDUS1&spJobID=602373424&spReportId=NjAyMzczNDI0S0

SỰ CHỮA LÀNH TRONG SÂU THẲM

Tôi nhận được bản dịch từ bài nói chuyện (làm chứng) của Joni trong cuộc hội thảo Lửa Lạ (Strange Fire Conference) do mục sư John MacArthur tổ chức vào tháng 11/2013, tại California.

Thấy bài hay, xin gửi bạn tham khảo.

Mọi sự, dù đó là những hoạn nạn kinh khủng nhất, vẫn nằm trong sự kiểm soát của Chúa. Việc của bạn là nhận ra ý chỉ của Chúa trong đời sống mình.

Có thể Chúa vẫn không trả lời lời cầu nguyện của bạn trong những buổi nhóm cầu nguyện đầy cảm xúc, những lời công bố đầy dạn dĩ, những lời “tiên tri” đậm tính “lên dây cót tinh thần.” Đơn giản, ý Chúa muốn khác với điều bạn muốn.

Nếu bạn muốn xem clip bằng tiếng Anh, xin xem tại link ở cuối bài.

LMĐ.

——————-

Sự Chữa Lành Trong Sâu Thẳm – A Deeper Healing

Joni Eareckson Tada

Mong các bạn thông cảm cho những lúc tôi thở khò khè vì bị liệt tứ chi trong suốt bốn mươi sáu năm, thật không dễ chịu cho lắm. Thậm chí khó khi hát một bài thánh ca như thế…Ôi. Bạn biết đấy, lúc nào tay chân cũng đau nhức, cơn đau kinh niên dai dẳng mà hằng ngày tôi phải chịu nhưng không bằng những năm tháng đen tối trước kia khi tôi còn nằm trong bệnh viện kêu khóc, chán nản và thất vọng. Tôi ao ước: “Con muốn được lành quá đi”. Khi những người bạn đến bệnh viện viếng thăm, họ hỏi rằng: “Em muốn được nghe Kinh Thánh không?” Phần tôi, tôi chỉ luôn luôn muốn lắng nghe sách Giăng chương 5 mà thôi, “Vâng, làm ơn đọc từ đoạn đó”. Ngay khi tôi đọc ra đây, bạn sẽ hiểu vì sao.

 “Số là, tại thành Giê-ru-sa-lem, gần cửa Chiên, có một cái ao, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Bê-tết-đa, xung quanh ao có năm cái vòm cửa. Những kẻ đau ốm, mù quáng, tàn tật, bại xuội nằm tại đó rất đông. Nơi đó, có một người bị bịnh đã được ba mươi tám năm. Đức Chúa Jêsus thấy người nằm, biết rằng đau đã lâu ngày…”, ôi, Chúa biết người ấy đau 38 năm cơ đấy, tôi thiết nghĩ Chúa không biết tôi đau 46 năm sao?

Ngài hỏi ông ấy: “Ngươi có muốn lành chăng?”, Chúa Giê-xu phán: “Hãy đứng dậy, vác giường ngươi mà đi”. Tôi không biết diễn tả sao cho các bạn biết đã bao nhiêu lần tôi nằm trên giường bệnh, căng sức cơ bắp lấy hơi lên hát bài thánh ca đã được học từ nhỏ, “Cứu Chúa, xin Ngài, nghe tiếng con khóc thầm. Đương lúc Chúa nghe thấu những đồng bạn con, Chúa Giê-xu ơi, xin Ngài dừng chân”. (Thánh ca: Xin dừng chân – Pass me not – Fanny Crosby “Savior, Savior, hear my humble cry. While on others Thou art calling, Jesus do not pass me by”). Nhưng tôi không bao giờ được ngồi dậy khỏi chiếc giường mà bước đi. Có vẻ như Chúa Giê-xu chẳng dừng chân.

Rồi tôi cũng được xuất viện. Người chị em gái J. K mời tôi đến và sống cùng em tại nông trại Maryland. Vào một sáng như bao ngày trong khi em giúp tôi thức dậy, tắm rửa, đi vệ sinh, xoa bóp tay chân thì chúng tôi bị một quảng cáo trên ti-vi cạnh giường thu hút “Kathryn  Kuhlman đang trên đường tới Wasington D.C”.

Có bao nhiêu người ở đây nhớ Kathryn  Kuhlman không? Phải rồi. Đối với ai không biết đến danh ấy, bà giống như Benny Hinn ngày nay vậy. Tôi và em gái tức tốc lên tàu để đến Washington Fulton Ballroom sớm nhất. Chúng tôi mong có được một chỗ ngồi ưu tiên. Tại đó, chúng tôi được hộ tống tới khu vực dành cho xe lăn, từ đây nhìn ra, tôi thấy có rất nhiều người lỉnh kỉnh mang thùng, nạng, gậy, khung tập đi, xe lăn. Tất cả chúng tôi đều chờ đợi đến phần mình. Bất giác, ánh đèn mờ đi. Đèn chính sáng lên, lia thẳng vào Quý bà Kuhlman, quét sạch sân khấu với chiếc váy trắng dài tinh khiết cùng dàn nhạc đệm chào mừng linh đình. Những bài há thánh ca được xướng lên và một lúc sau ánh đèn di chuyển ra góc xa khán phòng vì nơi đó đang có gì đó vận hành giống như có ai đó được chữa lành vậy. Ai, ai được chữa lành vậy? Họ hết bệnh rồi à? Và rồi chúng tôi chỉ có mỗi một việc là ngồi đợi ánh đèn rọi vào khu vực dành cho người ngồi xe lăn, ý như “Ê, chiếu vào chỗ này nè, ở đây toàn là ca khó, sao không chiếu!”.

Trước khi buổi nhóm kết thúc, những người hướng dẫn hộ tống hết tất cả chúng tôi ra khỏi khu vực xe lăn lên thang máy để không làm tắc nghẽn các hành lang. Nhưng tôi có thể nghe thấy tiếng họ chơi nhạc ở bức tường kế nơi hàng tôi ngồi số 15 trong 35 người ngay tại thang máy. Tất cả chúng tôi đều lặng im. Tôi nhìn lên nhìn xuống hàng xe lăn và nghĩ đến bản thân mình ‘Có điều gì không đúng đang diễn ra ở đây. Cứu Chúa gì mà kỳ vậy? Đấng Cứu Ân nào đây, Đấng Chữa Lành đâu rồi, Đấng Giải Cứu khước từ lời cầu nguyện của người bại sao?

Trở về nhà trong đêm, nằm trên giường, tôi miên man suy nghĩ: “Được rồi, nếu con không được Chúa chữa lành cho. Con không muốn nữa. Con không muốn sống như thế này”. Không lâu sau đó tâm thần tôi chất chứa những giọt cay đắng, sự càm ràm tràn ngập trong tâm linh tôi. Không ai…không gì…có thể giúp tôi trở nên nhẹ nhõm hơn. Mỗi…một trở ngại lại trở thành một cái cớ khiến tôi tự dày vò mình. Nếu có điều gì đó không theo ý tôi, tôi quát nạt trên đầu họ.

Cao điểm cay đắng nhất tôi dành cho Chúa Giê-xu, Ngài là Đấng Chữa Lành của tôi giờ xa tôi vô cùng. Và nếu như tôi không được lành nữa, tôi dứt khoát nói với người em gái: “Hãy để tôi được yên trong phòng, kéo màn xuống, tắt hết đèn đi, đóng cửa và hãy để tôi được một mình”.

Nhưng thậm chí ở trong căn phòng tối đen như vậy, những bài thánh ca bất chợt vang lên sượt ngang làm tim tôi thổn thức và trong đêm vắng lặng tôi an ủi mình bằng một câu ca trong bài “Xin Chúa ở cùng con – Abide With Me – Xin ở cùng con khi màn đêm buông nhanh. Xin Chúa ở cùng con lúc bóng đen dày đặc. Khi những người giúp đỡ khác thất bại và những an ủi lìa xa. Xin ở cùng con! Xin cứu giúp người đang vô vọng.”

Những ngày sau đó, cũng trong căn phòng tối, tôi kêu khóc với Đức Chúa Trời: “Con… con không thể sống thế này… con không đủ tốt để Ngài chữa lành sao? Chúa Giê-xu ơi, Ngài hãy giúp con. Con không thể làm được gì với tứ chi này. Xin hãy chỉ con cách nào để sống”.

Đó là những ngày đầu tiên tôi cầu xin Chúa giúp đỡ. Em tôi đi vào phòng kéo hết màn lên cho ánh nắng soi rọi, giúp tôi mặc đồ, đặt tôi vào xe lăn, đẩy tôi ra phòng khách và kéo cái bàn nhỏ ra rồi đặt quyển Kinh Thánh to lên đó, đặt nhiệt kế vào miệng và tôi ngồi đó ngày này qua ngày khác, lần giở Kinh Thánh trang từng trang, dòng nối dòng cố gắng tìm ra ý nghĩa cho mọi sự.

Dĩ nhiên, tôi vẫn mong được lành bệnh. Tôi vẫn ao ước được học biết Lời Đức Chúa Trời phán gì về điều đó. Và tôi tìm thấy chương đầu của sách Phúc Âm Mác. Hẳn bạn đã biết câu chuyện này. Nơi đó Chúa Giê-xu đã chữa lành cho rất nhiều người bại xụi và bệnh tật từ sáng tinh mơ cho đến chiều tối. Vào sáng hôm sau, đám đông quay trở lại, Si-môn và đồng bạn của ông đổ xô chạy tìm Chúa Giê-xu nhưng không thấy Ngài. Bởi Chúa chúng ta thức khá sớm và tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Khi họ tìm thấy Ngài, họ mách rằng có một đám đông dân chúng đau bại đang ở dưới chân đồi chờ sự chữa lành. Cách Chúa đáp trả họ trong câu 38 khiến tôi tò mò: “Ngài phán: Chúng ta hãy đi nơi khác, trong những làng xung quanh đây, để ta cũng giảng đạo ở đó nữa; vì ấy là cốt tại việc đó mà ta đã đến”. Khi đó, tôi như bị đánh trúng tim đen, thật đánh trúng tim đen. Không phải Chúa Giê-xu không quan tâm kẻ đau người yếu, nan đề của họ không khiến Chúa xao nhãng điều cốt yếu của Ngài. Tin Lành là vậy. Tin Lành phán tội lỗi thì giết chóc, địa ngục thực hữu nhưng Đức Chúa Trời hay xót thương và Vương Quốc Ngài có thể thay đổi bạn và Chúa Giê-xu là phương cách. Ngay khi con người ta quên mất điều này, khi họ bắt đầu đến với Chúa Giê-xu để nỗi đau và những nan đề được chữa lành thì Cứu Chúa thường sẽ trở lui. Chẳng trách sao tôi đau buồn. Ôi…tôi đã hiểu ra. Tôi ở trong Chúa Giê-xu chỉ để những rắc rối và bại xuội của tôi được lành. Dĩ nhiên, Chúa quan tâm đến người đau khổ chứ. Ngài quan tâm bạn nhiều lắm khi bạn bị liệt 38 năm hay 46 năm.

(Anh Ken, có thể giúp em không? Tay yếu quá nên không lật sang trang được. nhưng tôi biết ơn vì anh chị em ở đây biết rõ khi người yếu đuối thì Đức Chúa Trời mạnh sức thay).

Tôi trông chờ Chúa Giê-xu chữa lành nỗi đau và tật bệnh lui xa. Và tôi nhận ra thật Chúa Giê-xu quan tâm sự đau đớn và Ngài dành hết khoảng thời gian của Ngài trên đất để xoa dịu nỗi đau đi. Nhưng sách Phúc Âm Mác cho tôi thấy những thứ tự ưu tiên của Ngài vì cũng chính cái người đã được sáng mắt và bị teo tay được phán dạy: “Vậy nếu con mắt bên hữu xui cho ngươi phạm tội, thì hãy móc mà quăng nó cho xa ngươi đi”

Tôi đã hiểu ra hình ảnh ấy. Với tôi, cái lành thể chất vật lý bên ngoài là điều to tát nhất đời tôi, nhưng với Đức Chúa Trời, linh hồn tôi quý giá dường bao. Và tôi bắt đầu tìm kiếm sự chữa lành trong sâu thẳm, không chỉ chú tâm khư khư vào thân thể được lành lặn nữa, cho dù tôi vẫn cầu nguyện cho điều đó. Tôi cầu xin sự chữa lành bên trong như Thi Thiên 139, “ Đức Chúa Trời ơi, xin hãy tra xét tôi, và biết lòng tôi; Hãy thử thách tôi, và biết tư tưởng tôi; (hát lên) Xin xem thử tôi có lối ác nào chăng, Xin dắt tôi vào con đường đời đời”.

Và các bạn biết không, trong 46 năm qua đáng ra đó phải là lời mà tôi phải cầu nguyện. Đức Chúa Trời đã trả lời, đã vạch trần những điều kín giấu trong lòng tôi để tôi được chữa lành và tôi cho bạn biết, mất một khoảng thời gian rất dài để tôi nhận ra. Còn nhớ tâm linh cay đắng mà tôi đã kể không, không ai…không ai đủ tốt để được chữa lành. Vào thời kỳ đầu hôn nhân của tôi với Ken, khoảng ba hay bốn năm, anh bắt đầu tranh chiến với cuộc chiến xụi bại của tôi hàng ngày không ngừng nghỉ 24/7. Bây giờ thì tôi có sự trợ giúp rồi. Tôi có những người nữ phụ giúp nhưng mọi gánh nặng đều đè trên vai Ken. Và một đêm nọ trước giờ đi ngủ, anh ngồi xụp trên tấm thảm và khụy vai thú nhận: “Anh không làm được, anh cảm thấy bế tắc quá. Joni, anh thấy bế tắc!”.

Tôi nghẹn ngào xẵng giọng: “Khi chúng ta cưới nhau anh không suy nghĩ sao? Anh không nhận ra cuộc sống mình sẽ như thế này sao? Anh không biết là em bị liệt hay sao? Anh không hay nó sẽ khó khăn sao?”

Ngay khi nói những lời đó, tôi ước gì chúng đừng bao giờ được thốt ra khỏi miệng. Tôi nhanh chóng xin lỗi anh: “Ôi, Ken…em không biết mình bị gì nữa, em không có ý như vậy. Em không còn là em nữa”.

Nhưng các bạn biết không, ấy chính là tôi. Đức Chúa Trời cho phép, ban mục đích, có chương trình và chỉ thị những bất hạnh nặng nề đó để chắc rằng Ngài vẫn tể trị, bày tỏ những sự đó nhằm cho tôi biết con đường ăn năn… sự cay đắng, chua chát và ích kỷ của mình. Tôi không thích khi Đức Chúa Trời vắt quả chanh đó nhưng đó là quá trình không thể thiếu. “Đức Chúa Trời ơi, xin hãy tra xét tôi…xin xem thử tôi có lối ác nào chăng”. Thậm chí sau nhiều năm cho đến ngày nay, Ngài vẫn vắt cạn những bất toàn và bày tỏ các khía cạnh không tốt đẹp do tay tôi làm ra. Và trong mười năm gần đây, cuộc hôn nhân của tôi với Ken cũng bị những cơn đau kinh niên do bệnh tật gây ra vùi dập. Tôi nhớ, có lẽ mười năm trước, tôi bị đau kinh khủng…đầu như muốn nổ tung, quai hàm đánh cầm cập, Ken thức suốt đêm để chăm sóc tôi. Cơn đau này kéo dài nhiều tuần lễ. Cũng vào một đêm trước khi đi ngủ, một lần nữa anh ngồi cạnh giường và thú nhận: “Anh cảm thấy bế tắc, anh không chịu nổi!”. Nhưng lần này, tôi đáp: “Anh yêu, em không trách anh. Nếu như em ở trong tình cảnh của anh, em cũng xử sự như vậy. Em cũng thấy bế tắc, em không đổ lỗi hay mắng anh nữa. Em chỉ muốn anh biết em luôn ủng hộ anh và cầu nguyện xin Chúa Giê-xu giúp chúng ta vượt qua. Và em muốn anh biết rằng em tin ân điển của Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ anh và em. Anh yêu quý, chúng ta có thể làm được”.

Dường như có một lực đẩy vô hình nâng đôi vai chồng tôi dậy. Tôi cảm nhận được điều đó. Sự lo lắng, sợ hãi như xua tan đi. Đó chính là thời điểm lớn lao giúp hôn nhân chúng tôi khởi sắc. Đức Chúa Trời đã thực thi một sự chữa lành trong sâu thẳm lòng vợ chồng chúng tôi và tôi cũng tiết lộ cho bạn biết, chúng tôi rất cần sự chữa lành ấy vì chỉ một năm sau tôi mắc tới ba căn bệnh ung thư. Đó là thời khắc Đức Chúa Trời vắt nát miếng chanh. Tôi còn nhớ, có một ngày kia Ken lái xe chở tôi về nhà từ viện điều trị, tôi thoáng nhìn anh qua kính chiếu hậu đang khi lướt trên xa lộ 101, chúng tôi nói về nỗi đau dằn xé như khi dính chịu những tia lửa thoát ra từ hỏa ngục. Khi bạn chịu đau, nó là dấu hiệu ám chỉ cho bạn nhớ tới hỏa ngục là nơi bạn được cứu thoát trăm phần vì cớ Đấng Christ. Và cứ thế chúng tôi bắt đầu…thảo luận về điều đó và về ân điển lạ lùng Đức Chúa Trời cho phép những tia lửa như vậy sượt ngang đời sống để thức tỉnh tâm linh ngủ bờ ngủ bụi lâu nay của chúng tôi. Sau đó, chúng tôi dừng xe vào trong ga-ra, anh tắt máy xe và nhìn tôi qua kính chiếu hậu, “Vậy, em nghĩ thế nào về những tia sáng trên thiên đàng?”. Tôi nghĩ: “Có thể chúng là những ngày tươi sáng mát nhẹ khi mọi chuyện trở nên tốt đẹp hơn?”. Rồi chúng tôi lại bàn tiếp chủ đề này. Đó có thể là lúc mọi tờ hóa đơn được thanh toán hết và không có khó khăn, thử thách hay bị đau kinh niên? Và trong im lặng, chúng tôi đồng thanh đáp không , không, chúng không phải là những tia sáng của thiên đàng. Những tia sáng trên thiên đàng là tìm thấy Chúa Giê-xu qua tia lửa của hỏa ngục. Không còn nhói đau. Không có vị ngọt nào hơn vị ngọt tìm thấy Chúa Giê-xu trong chính nơi hỏa ngục của bạn. Tôi và Ken biết ơn vì những hoạn nạn kia. Nghe có vẻ lạ lùng nhỉ, nhưng qua mọi sự đó giúp chúng tôi đói bánh của sự sống, khát nước hằng chảy. Và khổ như vậy, không chỉ là chanh thôi mà là quyển sách bài tập răn dạy chúng ta nhìn biết chúng ta là ai. Nó phun sạch chúng ta, roi vọt chúng ta khỏi những đường hung ác.

Thật là đáng học hỏi đúng không, ý tôi là, sự đau khổ ra từ tội tổ tông nhưng Đức Chúa Trời biết cách dùng đau đớn mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống để giúp chúng ta thoát khỏi việc phạm tội. Cho nên, Ngài đánh sạch chúng ta, để dưới áp suất lớn gột rửa những cặn bã trong linh hồn và vạch trần chúng ra để trong mọi sự chúng ta nương chặt hơn vào Cứu Chúa Giê-xu Christ vì khi tấm lòng của chúng ta đồng nhịp đập với Ngài thì hỡi ôi, thiên đàng chung vui, hoan hỉ và thắp sáng lòng chúng ta, tràn ra cho người khác những dòng chảy khích lệ và trỗi dậy chạy về Chúa như dòng thác vang rền (hát) “Ngợi khen Đấng Toàn Năng là Chúa, Vua của cả Tạo vật”. Và không có gì ngọt ngào hơn khi kinh nghiệm sự vui mừng trong Cứu Chúa Giê-xu giữa ba đào đau đớn. Rồi chúng ta sẽ mạnh dạn thốt lên chương 6 câu 10 trong sách 2 Cô-rinh-tô “Ngó như buồn rầu, mà thường được vui mừng; ngó như nghèo ngặt, mà thật làm cho nhiều người được giàu có, ngó như không có gì cả, mà có đủ mọi sự!”

Người ta thường hay hỏi tôi, rồi họ nói: “Chị có nghĩ Đức Chúa Trời để chị chịu khổ nhiều quá sức chị không? Bị ung thư đau hành, hàng thập kỷ đau bại?” Vâng, như vậy có nhiều quá cho tôi không? Liệu thiên ý của Đức Chúa Trời thêm một chút vị chua trên đời sống của bạn có quá nhiều không? Câu trả lời cho bạn nằm trong chương 2 sách 1 Phi-e-rơ. Bời Đấng Christ chịu khổ cho bạn, để lại một gương cho bạn noi theo dấu chân Ngài. Ôi…tôi muốn noi theo bước chân Ngài. Và nếu như Cứu Chúa tôi đã học biết sự vâng phục qua những khổ ải Ngài chịu, tôi tớ làm sao hơn Chủ. Đức Chúa Trời vẫn hằng dùng phép chữa lành tận trong sâu thẳm, thử nghiệm và thấy và dò xét liệu trong tôi còn đường phản nghịch nào không. Đó là lý do tại sao bạn hay nghe tôi trích dẫn từ sách Lời Cầu Nguyện Chung trong Hội Giám Lý, mọi lúc tôi hay nói: “Lạy Đức Chúa Trời Toàn Năng, chúng con đi lang thang và lạc bước khỏi đường lối Ngài như chiên con đi lạc, chúng con hay chìu theo những tư dục và mưu chước lòng riêng. Chúng con chống nghịch lại những điều răn thánh Ngài, chúng con làm những điều chúng con không nên làm và không làm điều chúng con phải làm. Và vì thế không ai được lành mạnh”.

Tôi yêu những tôn chỉ đó. Nhưng tôi ghét chúng vô cùng. Xin đừng nghĩ rằng khi tôi vào thiên đàng gặp Chúa Giê-xu rồi mới được ban cho một thân thể mới. Không, không, không. Tôi muốn một tấm lòng được vinh hiển. Một tấm lòng rạng ngời không bao giờ bóp méo sự thật, khước từ Đức Chúa Trời để tìm một cớ thoái thác trốn tránh những cơn đau, mọi lúc âu lo và xem thường chồng mình trong những lúc ai oán. Không, tôi không muốn điều đó một chút xíu nào. Khi người ta đủ mọi hệ phái Cơ Đốc tìm đến tôi, thường là Ngũ Tuần/Ân Tứ, họ cố gắng thuyết phục tôi cho họ cầu nguyện sự chữa lành. Họ hỏi xin mạnh dạn lắm. Tôi chưa bao giờ nói không với họ. Nếu như anh, chị muốn cầu nguyện chữa lành thì xin mời. Nhưng tôi thưa: “Cho phép tôi nói cụ thể những điều mà tôi thật sự, thật sự cầu nguyện chữa lành”.

Vâng, họ phấn khích lắng nghe tôi. “Xin anh, chị cầu nguyện xin Đức Chúa Trời cất đi thái độ càu nhàu, dễ bực dọc vào mỗi sáng sớm khi tôi thức dậy và làm ơn, khi công việc bắt đầu chồng chất thì tôi lại cáu kỉnh, gắt gỏng. Vì tôi vốn là một kẻ nghiện công việc cho nên tôi muốn anh, chị hãy cầu nguyện cho…” Tôi cứ tiếp tục nói cho họ biết tất cả những điều gì uất nghẹn trong lòng tôi, những gốc rễ chưa được bứng hết, chưa xưng nhận ra trước Đức Chúa Trời, ăn năn và được lành.

Sách 1 Phi-e-rơ chương 4 có chép: “Vậy, vì Đấng Christ đã chịu khổ trong xác thịt, thì anh em cũng phải lấy sự đó làm giáp trụ, vì người nào đã chịu khổ trong xác thịt, thì đã dứt khỏi tội lỗi”. Ngài sống trong ý chỉ của Đức Chúa Trời, vậy ý chỉ Đức Chúa Trời là gì? Ôi nhiều lắm, nhưng đối với tôi gói gọn trong Phi-líp 2:14: “Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm. Mọi sự làm chớ nên lằm bằm”.

Trước đây, Ken và tôi có cơ hội viếng thăm vùng đất thánh và anh ấy chẳng hề cho tôi biết lịch trình chuyến đi nhưng tôi biết chúng tôi sẽ đi qua Thành phố Cổ Giê-ru-sa-lem. Thật vậy, anh đẩy tôi đương ngồi trên xe lăn trườn xuống con đường Via Delasora, bịch-bịch-bịch-bịch, bạn không đi lên Via Delarosa đâu, bạn hẳn sẽ tuột xuống khi ngồi xe lăn. Chúng tôi đi xuống cuối phố, dẫm lên những con đường lát đá và phía tay hữu là Temple Mount, rẽ trái đi ngang qua Nhà Thờ Thánh Anne, và rồi con đường bỗng bất ngờ mở ra…ôi lạy Chúa tôi, “anh Ken ơi, tới đây và nhìn xem. Đây là ao Bê-tết-đa. Ôi, Ken, anh không tin nổi là biết bao lần, bao lần…em hình dung ra chính mình ở tại ao này trong số những người bại đau kia đâu”.

Nơi này thanh vắng đến lạ. Tất cả những chuyến xe khách đều chạy xuống Biển Chết, ao Bê-tết-đa đẹp đẽ vô chừng nhưng vắng lặng như tờ. Tôi nhận ra ở đó có một chấn song bảo vệ khu di tích cổ trong khi đó Ken, anh chạy xuống xem những cái giếng và nhìn thử bên trong có còn nước của ao Bê-tết-đa hay không. Đương khi ở đó một mình, mình tôi thôi với Cứu Chúa và những hàng nước mắt bỗng ướt đẫm tuôn trào, “Ôi, Chúa Giê-xu ơi, cảm ơn Ngài, tạ ơn Ngài vì câu trả lời chữa lành thân thể con không được nhậm. Ngài biết rõ việc Ngài đã làm nhiều năm trước, không trả lời là để thanh lọc con khỏi những tội lỗi chồng chất, ích kỷ và cay đắng và con biết con đã đi một đoạn đường rất dài, nhưng mỗi ngày con thức dậy, con muốn là một Joni khác Joni của ngày hôm qua, con muốn thành Joni mà Ngài đã tạo dựng mà Ngài đã định phận cho con. Ôi, Đức Chúa Trời, xin giúp con bước ra nhận lấy câu trả lời không được nhậm, Chúa Giê-xu ơi, vì trình dâng nhu cầu chữa lành thân thể cũng có nghĩa rằng con nương dựa nghỉ yên trên ân điển Ngài, vì dậy lên trong con lòng thương xót những ai đang tổn thương và tàn tật, giúp con thôi cằn nhằn đay nghiến Ngài và giúp con biết tạ ơn trong những khi sầu đau. Không nhậm lời con để thêm lên đức tin, thêm năng lực cho con hy vọng nơi thiên đàng và thêm tình yêu thương Ngài…nhiều hơn nữa. Thật là một điều kỳ diệu an toàn khi được núp dưới bóng thăm thẳm đồng công với sự thương khó Ngài. Con sẽ không đổi điều này đâu chỉ để bước đi vài bước lành lặn”.

Đó chính là sự chữa lành trong sâu thẳm. Đó là sự chữa lành chân xác. Khi Charles Wesley viết rằng Chúa Giê-xu trỗi dậy trong cánh Ngài có sự chữa lành, ấy chính là sự chữa lành mà tôi không bao giờ đánh đổi nó chỉ để lấy vài bước chân tạm bợ trên đất.

Vậy nên, câu hỏi tôi dành cho bạn đây, bạn có nhìn thấy chính mình tại ao Bê-tết-đa xưa không? Có lẽ ngồi ở số 15 trong tổng một hàng dài 35 người đang đợi để được chữa lành? Bạn có thắc mắc vì sao Đức Chúa Trời không cất đi sự thất vọng, phiền muộn trong lòng bạn không, tại sao…tại sao Ngài không ban sự chữa lành khi bạn kêu cầu hết mọi sức lực tâm ý? Vâng, bạn biết gì không? Đức Chúa Trời có thể cất đi đau khổ và thật tuyệt vì có cớ lớn để ngợi khen Ngài. Nhưng nếu không, Ngài vẫn sẽ dùng nó, Ngài có thể dùng bất cứ điều gì và mọi điều xảy đến đều trụ vững để Ngài tương giao với bạn. Cho nên hãy để Đức Chúa Trời nhào nắn, bắt phục và biến đổi bạn từ vinh hiển sang vinh hiển. Đó chính là sự chữa lành trong sâu thẳm mà bạn không cần phải bôn ba tìm kiếm để có được.

MỪNG CHÚA GIÁNG SINH 2014 VÀ NĂM MỚI 2015

photo (10)

Thay mặt cho Giáo Hội Tin Lành Liên Hiêp Toàn Cầu- VN , xin gởi đến quý tôi tớ và con cái Chúa lời nguyện cầu Chúa ban Ân Điển cứu chuộc dư dật, Ân Tứ mục vụ dư thừa và Ân Huệ cuộc sống tràn đầy cùng một năm mới bình an trong ơn lành của Chúa.

Giáo Hội Trưởng
Mục sư Nguyễn Đức Na

ĐẤNG THÁNH GIÁNG TRẦN

Mùa Giáng Sinh lại về, mọi người đều nô nức mua sắm, chuẩn bị cho ngày Lễ trọng đại trong năm. Những cây Nô-ên lớn  với những bóng đèn mầu cùng dây kim tuyến sáng chói lung linh được  trưng bày trước các nhà hàng, cửa tiệm và Văn phòng kể cả ở công-viên của một số quốc gia.

Nhưng ý nghĩa đích thực của Lễ Giáng sinh là gi? Mừng Chúa Giáng Sinh, hay Đấng Thánh Giáng Trần có ý  nghĩa gì?

+ Hơn ai hết con dân Chúa phải biết rõ Đấng Thánh là ai?

Who is the Holy One

Đấng Thánh là Con Đức Chúa Trời, là Ngôi Lời hay còn gọi là Thiên-ngôn ( The Word)  ở cùng Đức Chúa Trời từ lúc ban đầu.
” Ban đầu có Ngôi lời, Ngôi lời ở cùng Đức Chúa Trời, Ngôi lời là Chúa Trời.”
“In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God”   
Nhưng Thiên ngôn đó đã trở thành xác thịt ở giửa loài người, ta cũng có thể nói là Con Trời, Đấng Thánh đã nhập thể hoá thân làm người ( incarnation) .Đấng Thánh đó đã ở giửa thế gian này đầy ơn và lẻ thật.

 ” The Word became flesh and made his dwelling among us.”( John1:14)

+Đấng Thánh giáng trần khi  nào?

  When was the Holy One’s incarnation

Năm 2014 là niên hiệu của Đấng Thánh mà cộng đồng Cơ đốc cũng như cả thế giới đều công nhận. Có nghĩa là Đấng Thánh Con Trời đã giáng trần cách đây 2014 năm.Niên hiệu của Ngài sẽ được nhân loại sử dụng cho đến khi Ngài trở lại thế gian này.

+ Đấng Thánh giáng trần bằng cách nào.

 How was the Holy One’s incarnation

Trước khi Đấng Thánh ( the holy one ) giáng trần thì trong Kinh thánh đã báo trước khoản 800 năm  rằng ” Một con trẻ sinh ra cho chúng ta, một con trai ban cho chúng ta. Quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài, Ngài sẽ được xưng là Đấng lạ lùng, là Đấng mưu luận, là Đức Chúa trời quyền năng là Cha đời đời, là Hoàn tử bình an.” ( Ê sai 9:5).
Lời tiên tri đã được ứng nghiệm, cách đây 2014 năm thiên sứ báo tin cho một nữ đồng trinh tên là Mary rằng người sẽ chịu thai và sanh một con trai. Mary thưa rằng tôi chưa hề ăn ở với người nam nào thì làm sao có chuyện ấy được. Thiên sứ trả lời rằng Đức Thánh Linh sẽ ngự trên cô và quyền năng của Đấng chí cao sẽ phủ che cô; cho nên con thánh sinh ra sẽ được gọi là Con Đức Chúa Trời.( Lu ca 1:26-35)
” The angel answered ” The Holy Spirit will come upon you, and the power of the Most High will overshadow you. So the holy one to be born will be called the Son of God…..” (NIV)
Người nữ đồng trinh cưu mang và sanh ra Đấng Thánh về phần xác là một người nữ được đầy ân huệ ( favour ) của Đức Chúa Trời  và được mọi người quý trong và gọi là mẹ Mary.Chính mẹ Mary đã thốt lên rằng tôi là đầy tớ hèn mọn, xin việc ấy xảy ra cho tôi.

 ” I am the Lord’s servant, Mary answer, ” May it be to me as you have said.”

+ Tại sao Đấng thánh giáng trần?

 Why did the Holy One’s incarnation happen?

Tổ phụ loài người là Adam và Eva đã phạm tội thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.
Từ đó loài người sanh ra trong tội lỗi, phạm mọi điều gian ác. Ai cũng biết loài người chém giết nhau không gướm tay, gần đây trên báo chí có đưa tin người ăn thịt người. Chẳng những họ làm điều ác mà còn cho phép điều ác được phép xảy ra . Xã hội loài người xa cách Thiên Chúa và được kinh thánh miêu tả ” Họ đầy dẫy mọi sự không công bình, độc ác, tham lam, hung dữ; chan chứa những điều ghen ghet, giết người, cải lẩy; dối trá, giận dữ; hay mách, giềm chê, chẳng tin kính, xấc xược, kiêu ngạo, khoe khoan, khôn khéo về sự làm dữ, không vâng lời cha mẹ; dại dột, trái lời giao ước, không có tình nghĩa tự nhiên, không có lòng thương xót. Dầu họ biết mạng lịnh Đức Chúa Trời tỏ ra những người phạm các tội dường ấy là đáng chết, thế mà chẳng những họ tự làm thôi đâu, lại ưng thuận cho kẻ khác phạm các điều ấy nữa.” ( Rô ma 1: 29-32)
Để phần tâm linh tiếp giáp được với Đức Chúa Trời chí thánh, loài người cần được sự tha tội . Đấng thánh giáng trần trong hình hài con người để rồi hy sinh trên thập tự giá làm của lễ chuộc tội cho nhân loại. Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con một của Ngài; hễ ai tin con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. ” For God  so loved the world that he gave his one and only Son, that whoever believes in him shall not perish but have eternal life ( John 3:16 ). Đó là lý do mà Đấng Thánh đã giáng trần.
Đối với con cái Chúa kỷ niệm Đấng Thánh giáng trần là một niềm vui lớn vì nhăc nhở chúng ta về sự trông cậy sống và thực sự có ý nghĩa nếu niềm vui của chúng ta lan toả và mang lại hạnh phúc về  đời sống tâm linh cho người khác.

 ” This is good and please God our Savior, who wants all men to be saved and to come to a knowledge of the truth.” ( I Tim  2:4)

Chúng ta hãy để Đức Thánh Linh dẫn dắt chúng ta sử dụng thì giờ,công sức và tiền của cho một mùa Giáng sinh đúng với ý nghĩa đích thực của nó. Đừng phô trương, trình diển, khoe khoan   và  phung phí  làm hoen ố  và che lấp ý nghĩa của Đấng Thánh giáng trần.

Mục-sư Nguyễn Đức Na

TIN LÀNH THỊNH VƯỢNG

Bác sĩ Martin Salia, người Mỹ gốc Sierra Leone (Tây Phi), nơi đang bùng phát dịch Ebola.
Ông từ Mỹ trở về quê hương để giúp cho người dân nước mình trước nạn dịch Ebola.
Ông mắc phải thứ virus mà ông đang giúp người dân nước ông chống lại.
Ngày 7 tháng 10, ông xét nghiệm âm tính với Ebola.
Ngày 10/10, ông xét nghiệm dương tính với Ebola.
Ông được đem về Mỹ để chữa trị. 36 tiếng đồng hồ sau khi nhập viện thì ông qua đời.
Các chuyên gia cho biết, sỡ dĩ xét nghiệm ngày 7/10 âm tính là vì virus đã có trong người ông nhưng chưa đủ mức hiện diện để các xét nghiệm có thể phát hiện. Ngày 10/10 phát hiện thì đã trễ.
Virus “Tin lành thịnh vượng” có lẽ cũng như thế.
Nó lan truyền.
Một số đã dương tính, một số thì đã mắc, nhưng chưa đủ rõ ràng để phát hiện.
Bài viết dưới đây của Joel Miller có một ý rất hay:
“Với Tin lành thịnh vượng, sự tin kính và khiêm hạ của Cơ đốc nhân bị thay thế bằng thói hám của và khoe khoang”
Tác giả còn nói thêm rằng, “Nếu đặt một người thiếu hiểu biết Kinh Thành vào bục giảng, và bên dưới là hàng ngàn người đang say mê ông ấy, chỉ có Chúa mới biết điều gì sẽ xảy ra.” Đúng. Chí lý. Thiếu hiểu biết Kinh Thánh, cộng với bên dưới là những fan cuồng, là môi trường tốt nhất để diễn giả tuyên bố vung vít mọi thứ. Và ông nhân danh Chúa để làm việc ấy.
LMĐ.
——————————————————-
Trong cuốn sách của mình, Khúc khải hoàn của Cơ đốc giáo, tác giả Rodney Stark vẽ ra một bức tranh về sự sa sút đức tin của một số người thời Châu Âu trung cổ.
Những người này cầu khẩn với Chúa, với Mẹ Mary và các thánh, nhưng chính yếu là để cầu xin giúp đỡ và viện trợ vật chất. “Họ quan tâm đến những vấn đề trần tục, hữu hình và cấp thiết với mình, như: sức khỏe, tình dục, sự màu mỡ của đất, khí hậu, và mùa màng. Hệ quả là, điều trọng tâm của tôn giáo của họ, muôn đời vẫn vậy, là tìm kiếm sự huyễn hoặc.”
Stark sử dụng một định nghĩa tương đối chuẩn cho chữ huyễn hoặc: “tranh thủ hoặc nài ép các thế lực siêu nhiên đáp ứng những điều mình ham muốn”. Tác giả mô tả người ta còn dùng những lời cầu nguyện và những vật dụng của Cơ đốc giáo để chữa lành cho bò, bảo vệ đàn gà, thậm chí chữa lành cho một cái giường bị ướt.
Điều này khiến tôi thắc mắc: Có phải tin lành thịnh vượng ngày nay chỉ là một phiên bản khác tại Mỹ về những huyễn hoặc dân dã xa xưa?
 
Tin, thì sẽ nhận
Tin lành thịnh vượng thể hiện nhiều hình thức, nhưng quan điểm cơ bản là Cơ đốc nhân có thể tranh thủ được phước hạnh của Chúa trong các lĩnh vực hữu hình như sức khỏe, sự giàu có nếu như họ có đủ đức tin.
Trong lịch sử của phong trào mà tôi gọi là Được phước, giáo sư Kate Bowler từ trường thần học Duke gọi hình thức đức tin này là “một tác nhân, một quyền lực khai phóng các thế lực thuộc linh và khiến lời nói trở thành sự thực.” Đức tin được xem như là một lực mà người tin có khả năng và trách nhiệm sử dụng. Những ai làm theo sẽ có được những bằng cớ thuộc thể trong đời sống và những lợi lộc hữu hình. Đối lại, khi bệnh hoặc nghèo, là do người đó không đủ đức tin.
“Là người kế tự Đức Chúa Trời, chúng ta không được nghèo và gục ngã,” nhà truyền giảng tin lành thịnh vượng Jesse Duplantis nói như vậy. “Chúng ta phải hoàn toàn thỏa nguyện – về mặt tâm linh, thể xác, và tiền bạc! Đức Chúa Trời muốn các bạn có đầy đủ những lời hứa trong Kinh Thánh. Nhưng nhận lãnh những điều đó được hay không là tùy bạn.”
 
Mọi thứ bạn đã muốn trước đây.
Những lời hứa về sức khỏe và giàu có được cắt dán từ nhiều chổ trong Kinh Thánh, và được sắp xếp lại như thể đó là một sự dạy dỗ thống nhất – bất chấp những sự giải kinh khác trong lịch sử và những mâu thuẫn hiển nhiên từ các câu Kinh Thánh gần đó.
Sự cắt dán và xếp đặt như thế đưa đến một kết quả rất lạc quan: Đức Chúa Trời sẵn sàng nhấn chìm những kẻ có đức tin trong sự thịnh vượng chỉ với điều kiện họ thực hành kiểu đức tin như thế. Sự sắp xếp như thế khiến vui tai đến nỗi chúng ta không nghi ngờ. Niềm tin sẽ biện hộ cho ham muốn của chúng ta đối với mọi sự: thăng chức, nhà mới, xe mới, mọi thứ mới. Cuối cùng, ham muốn của tôi đâu có gì sai trật khi mà tôi có những gì tôi muốn thì đồng nghĩa với Chúa ban phước cho tôi?
Chúng ta làm hòa với những ham muốn của mình, giống như Ross Douthat nói. Những nhà truyền giảng tin lành thịnh vượng như Duplantis, Joel Osteen và nhiều người khác nữa “bỏ qua ‎‎ý tưởng rằng đấng thiên thượng có thể muốn tất cả những gì từ chúng ta, ngoại trừ những gì chúng ta mong muốn cho chính mình.”
Cứ cái kiểu này, tiêu điểm truyền thống của Cơ đốc nhân về sự tin kính và lòng khiêm hạ sẽ bị thay thế bằng thói hám lợi và sự khoe khoang. Có thì cứ khoe. Đó là phước Chúa ban mà, anh đừng lo!
 
Hãy nói những lời quyền phép
Khoan hãy bàn đến một mối quan tâm hợp lí rằng sự giảng dạy đó chỉ thêm sức cho chủ nghĩa tiêu dùng của người Mỹ. Thay vào đó, chúng ta hãy tập trung xem vấn đề: làm thế nào một người có được những điều anh ta muốn.
Ở nước Mỹ này ngày xưa, kẻ hám lợi hiểu rằng muốn làm ra tiền thì phải làm việc cật lực. Mồ hôi đưa đến kết quả. Về một cực đoan, quan điểm này ủng hộ cho điều huyền thoại mà chúng ta vẫn ưa thích: con người tự tạo con người. Nhưng theo cách nghĩ mới của tin lành thịnh vượng, hăng say lao động được thay thế bằng niềm tin hăng say. Nghi ngờ, tiêu cực, thậm chí là sự thận trọng, được xem là do ma quỷ. Hy vọng và lạc quan là nhân tố tạo nên sự khác biệt.
Như thế, đức tin không còn được xem là tin cậy và nắm lấy Chúa. Nó trở nên giống như một kỹ thuật, một bí kíp, một cơ chế để khiến Đức Chúa Trời làm việc gì đó cho chúng ta. Đó không còn là sự giải cứu trong Đấng Christ nữa, mà là đem chúng ta xa khỏi Đấng Christ.
“Tin lành thịnh vượng đảm bảo một hình thức đặc biệt rằng Cơ đốc nhân có quyền phép đạt đến kho báu của Đức Chúa Trời và lôi ra một phép lạ,” Bowler viết. Nói cách khác, nó cũng giống như trò ảo thuật. Dùng đúng công thức, và cửa thiên đàng sẽ mở rộng.
 
Bạn thấy nó khắp mọi nơi
Dù rằng chỉ hai trong số mười Cơ đốc nhân tự nhận mình thuộc khuynh hướng tin lành thịnh vượng, theo một thăm dò bởi tạp chí Time, sáu trong số mười người được hỏi cho rằng Chúa muốn con người giàu có. Theo thăm dò bởi Pew, bốn trong số mười Cơ đốc nhân tin rằng người có đức tin sẽ được thưởng bằng sức khỏe và giàu có. Điều này giải thích cho hàng triệu người chấp nhận l‎í lẽ của tin lành thịnh vượng.
Chưa hết, Cơ đốc giáo kiểu này đã dễ dàng pha trộn những niềm tin của phong trào Tân Thời Đại (New Age) và được cổ súy bởi những nhân vật nổi tiếng như Oprah. Kết quả đưa đến là một mớ tôn giáo hỗ lốn bởi những lời tuyên xưng tích cực và chủ nghĩa tiêu dùng, nơi mà niềm tin biện hộ cho tham lam và mở đường để con người theo đuổi tham lam. Không ngạc nhiên khi mà làn sóng tin lành thịnh vượng đang càn quét qua những vùng đang phát triển trên thế giới.
Dĩ nhiên, cũng có một số điều tốt. Ví dụ, có người chuyển hướng sang giúp đỡ giảm đói nghèo. Tôi lớn lên tại một Hội thánh ân tứ nghiêng theo tin lành thịnh vượng, đôi khi rất trầm trọng, nhưng trong hội thánh cũng có một số người rất tử tế và tin kính. Điều quan trọng cần nhớ là tính chính thống không phải là cái cầu dao. Nhưng là cái thước đo đã lệch.
Nhưng cũng có một cảnh báo ở đây. Những người theo tin lành thịnh vượng – dù là người giảng hay là người theo – còn xa mới đúng theo Cơ đốc giáo chân chính, dù cho họ chải chuốt thế nào đi nữa. Giống như những nông dân xa xưa dựng mấy cây thập tự giá giữa đồng để đuổi đi thời tiết xấu, họ đang dùng những điều của Cơ đốc giáo vào những điều phi Cơ đốc.
 
Tin vào lòng nhân từ yêu thương của Chúa
Những niềm quan tâm phía sau những sự thực hành huyễn hoặc phải thừa nhận là những mong đợi hợp l‎í. Thời tiết xấu là nan đề, mùa màng bội thu – giống như việc làm tốt hoặc những lợi ích vật chất – là phước hạnh. Những lời cầu nguyện xưa nay trong Hội thánh thể hiện những mối quan tâm này qua những lời khẩn xin về sức khỏe và sự dư dật – nhưng chúng không là những bận tâm về việc tiêu dùng mà thôi. Nếu không có những sự ấy cũng không có nghĩa là thiếu đức tin.
Một lời cầu nguyện từ Hội thánh Metropolitan Philaret ở Moscow giúp chúng ta đối diện với tin lành thịnh vượng, nó mở đầu như thế này:
Lạy Chúa, con không biết xin Chúa điều gì. Chỉ mình Ngài biết được những nhu cầu thực sự của con. Ngài yêu con nhiều hơn chính con. Xin giúp con thấy được nhu cầu thực của mình mà con chưa thấy ra. Con không dám xin một cây thập tự hay một lời an ủi. Con chỉ biết trông đợi nơi Ngài. Con xin mở lòng với Chúa. Xin thăm viếng và giúp đỡ con, vì cớ lòng thương xót của Chúa.
Chính như thế sẽ giúp ta thấy ra sự khiêm hạ, và hiểu biết rằng không phải những gì mình muốn cũng là tốt nhất. Và như thế sẽ tìm thấy được niềm tin sâu sắc nơi lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Khi đã có được điều đó, ai cần những lời công bố huyễn hoặc làm gì?
 Joel J. Miller.
 

 

ÂN ĐIỂN RẺ TIỀN

Thần học gia Bonhoeffer có lẽ là cây bút viết nhiều nhất về chủ đề “Ân điển rẻ tiền.”
———————————-
Ân điển rẻ tiền là thứ ân điển được bày bán ở chợ giống như những thứ vô giá trị. Các thánh lễ, sự tha tội, và sự an ủi từ tôn giáo bị hạ giá, quăng bỏ. Người ta trình bày về ân điển như một kho báu vô tận của Hội Thánh, sẽ ban tặng các phước hạnh với đôi tay rộng tãi, mà không thắc mắc hoặc thay đổi các giới hạn. Ân điển không có giá trả; ân điển không tổn thất gì! Chúng ta thường cho rằng, cái cốt lõi của ân điển là món nợ đã được trả trước rồi; và, vì giá đã được trả rồi, nên mọi sự đều có thể đạt được một cách nhưng không. Vì cớ cái giá là vô hạn, nên khả năng sử dụng và tiêu dùng nó là vô hạn. Ân điển như thế không phải rẻ tiền, thì là gì?
Ân điển rẻ tiền là sự rao giảng việc tha tội mà không cần ăn năn, báp-têm mà không cần kỷ cương hội thánh, tiệc thánh mà không cần niềm tin, sự xóa tội mà không cần tuyên xưng của cá nhân. Ân điển rẻ tiền là thứ ân điển không cần đi theo Chúa Giê-xu, không cần chính Chúa Giê-xu, Đấng đã mang lấy nhục thể và đang sống. Ân điển rẻ tiền là ân điển không cần thập tự giá.
Ân điển cao quí là của báu giấu kín trong ruộng kia, vì nó mà người ta chịu bán mọi thứ mình có. Đó là viên ngọc đắt giá mà nhà thương buôn chịu bán mọi thứ của mình để đổi lấy. Đó là sự cai trị từ Vua Giê-xu, mà người ta chịu móc mắt mình nếu nó khiến thân vấp phạm; đó là sự mời gọi của Đức Chúa Giê-xu Christ, đáp lại đó, các môn đồ đã bỏ lưới lại và đi theo Ngài.
Ân điển cao quí là tin lành cần tìm kiếm lặp đi lặp lại, là món quà cố xin cho được, là cánh cửa phải gõ.
Ân điển như thế là cao quí vì nó kêu gọi chúng ta chạy theo nó, và nó là ân điển bởi vì nó mời gọi chúng ta bước theo Chúa Giê-xu Christ. Nó đắt giá, vì người ta phải trả bằng sự sống mình, và nó là ân điển vì nó ban tặng loài người sự sống chân thật duy nhất. Nó đắt giá vì nó lên án tội lỗi, và nó là ân điển vì nó xưng công bình cho kẻ tội nhân. Trên hết, nó đắt giá vì nó đòi sự sống của Con Đức Chúa Trời làm giá trả: “ngươi đã được mua với giá cao,” và điều gì đắt giá đối với Đức Chúa Trời thì không thể rẻ tiền đối với chúng ta. Trên hết, nó là ân điển bởi vì Đức Chúa Trời đã không tính toán Con của Ngài là yêu dấu, mà bằng lòng phó Con ấy trả giá cho chúng ta được sống. Ân điển cao quí chính là sự nhập thể của Đức Chúa Trời.”
Trích từ Cái giá đi theo Ngài (Dietrich Bonhoeffer).
 
  
 “Cheap grace means grace sold on the market like cheapjacks’ wares. The sacraments, the forgiveness of sin, and the consolations of religion are thrown away at cut prices. Grace is represented as the Church’s inexhaustible treasury, from which she showers blessings with generous hands, without asking questions or fixing limits. Grace without price; grace without cost! The essence of grace, we suppose, is that the account has been paid in advance; and, because it has been paid, everything can be had for nothing. Since the cost was infinite, the possibilities of using and spending it are infinite. What would grace be if it were not cheap?…

Cheap grace is the preaching of forgiveness without requiring repentance, baptism without church discipline, Communion without confession, absolution without personal confession. Cheap grace is grace without discipleship, grace without the cross, grace without Jesus Christ, living and incarnate.

Costly grace is the treasure hidden in the field; for the sake of it a man will go and sell all that he has. It is the pearl of great price to buy which the merchant will sell all his goods. It is the kingly rule of Christ, for whose sake a man will pluck out the eye which causes him to stumble; it is the call of Jesus Christ at which the disciple leaves his nets and follows him.

Costly grace is the gospel which must be sought again and again, the gift which must be asked for, the door at which a man must knock.

Such grace is costly because it calls us to follow, and it is grace because it calls us to follow Jesus Christ. It is costly because it costs a man his life, and it is grace because it gives a man the only true life. It is costly because it condemns sin, and grace because it justifies the sinner. Above all, it is costly because it cost God the life of his Son: “ye were bought at a price,” and what has cost God much cannot be cheap for us. Above all, it is grace because God did not reckon his Son too dear a price to pay for our life, but delivered him up for us. Costly grace is the Incarnation of God.”
Dietrich Bonhoeffer, The Cost of Discipleship

(Ms. Lê Minh Đạt trích dịch)

Dâng Lời Tạ Ơn Chúa

(Giving Thanks to the Lord)

(1 Sử Ký 16:34)

 “Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là nhân từ; Sự thương xót Ngài còn đến đời đời.”

(Oh give thanks to the Lord, for he is good; for his steadfast love endures forever!)

I.  Truyền Thống Lễ Tạ Ơn

 Một trong những truyền thống quan trọng của người Hoakỳ ở bên đây, đó là mỗi năm vào ngày thứ Năm, khoãng cuối tháng 11 là lúc họ dành riêng ra để tạ ơn Trời, và gọi là ngày lễ Thanksgiving (lễ Tạ Ơn). Truyền thống này bắt đầu từ khi những người cơ đốc tị nạn, di dân đầu tiên, từ bên Anh Quốc trốn tránh qua vùng đất mới này vì sự bắt bớ đạo, trên chiếc thuyền Mayflower, cặp bến tiểu bang Massachusetts, tìm tự do, vào khoãng năm 1620. Tuy rằng họ đã gặp rất nhiều sự khó khăn, vì mùa màng bị thất bại, thời tiết của mùa Đông gía buốt; nhưng sau một năm họ được ơn Trời ban cho đầy đủ, sung túc, trúng mùa – nào là bắp, lúa, và rau cỏ. Vào mùa Thu của năm 1621, những người di dân này bắt đầu một buổi lễ tạ ơn Trời. Truyền thống này được duy trì, cho đến năm 1941, Quốc Hội Mỹ đã chính thức để dành riêng ra mỗi năm một ngày, vào tháng 11 và gọi là ngày lễ Tạ Ơn.

II. Đạo Làm Người

Thật ra không phải chỉ có nước Mỹ là dân tộc mới có lòng biết ơn mà thôi, nhưng có lẽ hầu hết chúng ta nếu đã “làm người,” thì ai cũng phải tự nhiên nhận biết điều này. Chính những người Việt-nam chúng ta cũng có những câu ca dao, tục nghữ dạy dỗ về lòng biết ơn như sau: “Cây có cội, nước có nguồn; ăn trái nhớ kẻ trồng cây…” Chúng ta ăn trái ngon thì phải biết ơn những người đã trồng cây ra trái cho mình ăn, còn uống nước mát thì phải nhớ Nguồn từ đâu đến, để biết nhớ ơn. Khi mới qua Mỹ, hai chữ quan trọng mà người đã sponsor gia đình chúng tôi bên Hawaii dạy chúng tôi phải nhớ và thường dùng luôn để được thành công, đó là 2 chữ “please” và “Thank you.” Tiếc thay ngày nay bên nước Việt-nam chúng ta thì chữ “Thank you” hình như không còn nữa. Câu chuyện làm chứng của một người lâu năm rồi mới về thăm quê hương Việt-nam; anh đi vào một nhà hàng ăn và khi cô waitress đem đồ ăn ra thì anh đáp lời “cám ơn.” Cô thiếu nữ nhìn trừng người đàn ông này và nói: “Chắc chắn ông phải là việt kiều, phải không?” Người đàn ông ngạc nhiên hỏi lại: “Vâng! Nhưng tại sao cô biết?” Cô waitress trả lời: “Lý do là ở đây chúng tôi không dùng chữ ‘cám ơn’ nữa!” Lòng biết ơn phải là điều tự nhiên của “đạo làm người,” giống như là những lý đạo tự nhiên dậy chúng ta phải biết:

a) Nhớ ơn công lao sanh thành nuôi dưỡng của cha mẹmình, mà biết hiếu thảo kính mến người.

b) Nhớ ơn công lao dạy dỗ của thầy cô, đã bỏ công uốn nắn chúng ta trở nên những người tốt.

c) Bên Mỹ này, trong tháng 11, người ta có ngày lễVeterans, với mục đích để nhớ ơn tất cả nhữngngười chiến sĩđã tử vong, hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ sự tự do cho mỗi người chúng ta đang hưởng ngày hôm nay. Chúng ta là loài người, là loài được dựng nên khác biệt và cao hơnvới tất cả các loài súc vật ở một chỗ, đó là chúng ta không phải chỉ biết ơn nhau mà thôi, nhưng còn phải biết “hướng thượng,” và nhớ ơn Trời nữa. Đúng y như ngạn ngữ của người Thổ Nhĩ Kỳ có đặt thành một câu hỏi như sau: “Loài vật biết ơn tại sao con người lại không?”

II. Nhớ Ơn Đấng Sáng Tạo

Chúng ta cần phải nhớ ơn Trời như thế nào? Đề nghị có 3 điều quí vị cần nhớ ơn Ngài:

1) Nhớ ơn Trời vì Ngài là Đấng Tạo Hóacủa chúng ta, nghĩa là bởi Ngài mà chúng ta có sự sống. Tuy rằng cha mẹ chúng ta đã sanh chúng ta ra, nhưng nếu đi ngược lại quá khứ thì phải biết rằng chính Đức Chúa Trời đã dựng nên và ban cho con người sự sống từ lúc ban đầu. Sáng Thế Ký 1:1 có chép – “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” (In the beginning God (mighty Elohim) created the heavens and the earth.) Còn trong Sáng Thế Ký 1:26-27 chép rõ chính Ngài đã dựng nên loài người – (Then God said, “Let us make man in our image, in our likeness, and let them rule over the fish of the sea and the birds of the air, over the livestock, over all the earth, and over all the creatures that move along the ground.” So God created man in his own image, in the image of God he created him; male and female he created them.)“Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” Nếu Đức Chúa Trời đã không dựng nên loài người từ lúc ban đầu thì tôi cũng không thể đứng đây để nói, và bạn cũng không có ngồi đó để nghe được.Chúng ta nhận biết có một Đấng Tạo Hóa đã ban cho loài người sự sống mà biết tạ ơn Ngài, vì theo định luật căn bản “Gieo và gặt,” có nghĩa là không có cái gì tự nhiên mà có được? Chiếc xe mới tanh trước mắt quí vị với những features hay thì không thể nào theo thời gian từ một đống sắt vụn mà thành ra được, phải không? Huống gì thân thể tinh vi của loài người. Sự sáng tạo của mọi vật xung quanh chứng tỏ cho mọi người biết về sự hiện hữucủa Đấng Tạo Hóa đã dựng nên muôn laòi. Nhìn lên trên, chúng ta thấy một bầu không trung vĩ đại với các vì sao lấp lánh, thì không ai có thể từ chối chẳng có một Đấng Sáng Tạo nào hết.

2) Đấng Tạo Hóa không chỉ ban cho chúng ta sự sống mà thôi, nhưng Ngài còn lạ lùng ban cho chúng ta sức sống và đang duy trì sự sống của mọi loài trên trái đất này nữa. Theo khoa học cho biết, chu vi của trái đất là khoãng 24,900 miles, và trái đất tự quay xung quanh nó 24 tiếng mỗi vòng (mỗi ngày). Nếu chia chu vi ra 24 tiếng thì tốc độ của quả địa cầu này đang tự quay lơ lửng trong không gian với tốc độ khoãng 1,000 mile mỗi giờ. Đây thật là một điều lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng của con người về sự sáng tạo này. Chưa hết, theo các nhà bác học cho biết, quả đất chúng ta đang sống ở trên, nó đang quay xung quanh mặt trời trong không gian vĩ đại… với tốc độ khoãng 67,000 mile mỗi giờ. Ai đang làm nó quay, ai đang giữ nó trong chu kỳ lạ lùng này – phải có một Đấng Sáng Tạo vĩ đại đã làm nên. Ánh sáng ban mai từ đâu chiếu xuống hoài mà không hết năng lực, để sưởi ấm đời sống của chúng ta mỗi ngày? Từ mặt trời trên cao rọi xuống, chứ đâu phải chính phủ Mỹ cho chúng ta đâu? Không khí trong lành chúng ta ở đâu có để thở mỗi ngày vậy, mà không tốn một đồng xu nào? Do “ông Trời” ban cho, chứ đâu phải từ Tổng Thống Obama cung cấp cho đâu? Bạn hãy thử nín thở vài phút thì ý thức được sự ban cho này quan trọng như thế nào cho cuộc sống của chính mình.Tại sao tôm cá ở ngàoi biển không bao giờ hết được? Ai đang nuôi nó cho chúng ta hưởng? Cácmỏ dầu hỏa ở đâu ra, ai chế ra nó? Tất cả do Đấng Sáng Tạo ban cho mà thôi để duy trì sự sống của chúng ta và mọi loài. Cho nên Kinh Thánh trongThi Thiên 14:1a chép rõ lẽ thật gì? (The fool says in his heart, “There is no God.”) “Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng: chẳng có Đức Chúa Trời.”

Có điều gì chúng ta tự có để sống được không?  Thích câu chuyện nghụ ngôn về một số những nhà bác học vô thần đã có lần thách thức với Chúa rằng họ không cần Ngài thì cũng tạo dựng nên con người trong những phòng thí nghiệm được. Chúa trả lời: “Ok! Thì các ngươi cứ thử làm xem.” Các nhà bác học bèn đi ra ngoài đào một đống đất để đem vào phòng thí nghiệm chế tạo ra một thân thể của loài người; Nhưng vừa khi họ múc đất xong để sửa sọan làm thí nghiệm thì Chúa phán: “Các ngươi phải bỏ lại đất đó, không được dùng nó, vì đất cũng thuộc của Ta; Hãy đi lấy những gì mình tự tạo ra mà thí nghiệm.”  Sự sống và sức sống của mọi loài là do Chúa ban cho và duy trì; và nếu ý thức được như vậy thì điều tự nhiên chúng ta cũng phải biết ơn Ngài, phải không?

III. Nhớ Ơn Đấng Cứu Chuộc

Nhớ ơn Trời vì Ngài ban cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc trong Con Ngài là Cứu Chúa Giê-su, mà nhờ Con ấy chúng ta còn được sự sống đời đờinữa. Tin Lành Giăng 3:16 có chép về ơn này –(“For God so loved the world that he gave his one and only Son, that whoever believes in him shall not perish but have eternal life.) “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” Vài điều ghi chú để chúng ta nhận thức được ân huệ lạ lùng này.

1) Con người được dựng nên giống hình ảnhcủa Đức Chúa Trời, nghĩa là chúng ta có linh hồn bất diệt, để có thể tương giao với Chúa đời đời. Như vậy cũng có nghĩa “chết không phải là hết,” nhưng phải trở về với Cội Nguồn của mình.

2) Nhưng khổ một nỗi đó là vì tổ phụ của loài người đã một lần phạm tội nghịch cùng Chúa trong vườn sự sống, cho nên sau cái chết chúng ta phải chịu sự phán xét, mà không về được nước của Đức Chúa Trời, nhưng sẽ đi vào chốn hư mất. Hêbêrơ 9:27 – (And just as it is appointed for man to die once, and after that comes judgment) “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét.” Định mệnh của cõi đời sau cho loài người là sự chết trong hồ lửa địa ngục, xa cách khỏi Đấng Tạo Hóa đời đời. Rõ ràng trong Rôma 6:23a nói đến sự công bằng này – (For the wages of sin is death) “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết.”

3) Vì Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương, không phải chỉ ban cho chúng ta sự sống và sức sống ở đời này mà thôi, nhưng Ngài còn muốn ban cho chúng ta mỗi người sự sống đời đời với Ngài trong cõi đời sau nữa, cho nên Chúa đã cung cấp một chương trình cứu chuộc chúng ta ra khỏi sự phán xét của tội lỗi, bằng cách đã hy sinh và sai chính Cứu Chúa Giê-su, Con Ngài, đến thế gian chịu chết chuộc tội thay thế cho chúng ta ở trên cây thập tự gía. Sự chết của Chúa Giê-su là để trả trọn “tiền công” của tội lỗi của chúng ta một cách công bằng, để mỗi kẻ tin thoát được địa ngục, nhưng được vào nước thiên đàng của Chúa một ngày.

Trong chương trình học sách Tin Lành Giăng mỗi tối thứ Tư, tuần qua chúng tôi học về đời sống của ông Giăng Báptít là người được Đức Chúa Trời biệt riêng ra để dọn đường cho Chúa Giê-su đến, bằng cách giảng về sự ăn năn tội, làm báptêm cho nhiều người và giới thiệu về Chúa Giê-su. Một trong những danh xưng lạ lùng Giăng Báptít giới thiệu Chúa Giê-su đó là danh “Chiên Con.” Giăng 1:29 – (The next day he saw Jesus coming toward him, and said, “Behold, the Lamb of God, who takes away the sin of the world!) “Qua ngày sau, Giăng thấy Đức Chúa Jêsus đến cùng mình, thì nói rằng: Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi.” Đối với người Do Thái là dân tộc mà từ đó Chúa Giê-su đã đến thì họ hiểu rõ về danh xưng “Chiên Con” là gì.

  1. a) Thứ nhất là vì họ nhớ đến lễ Vượt Quangày xưa đã xảy ra khoãng 1,000 năm trước khi Chúa Giê-su giáng sinh, khi họ được Đức Chúa Trời giải cứu ra khỏi ách nô lệ của người Ai Cập. Trong đêm trước khi họ đi ra khỏi nước Ai Cập thì có những con chiênphải bị giết làm thịt ăn cho họ, nhưng nhất là để có máu bôi trên cửa; vì trong đêm đó đã có một thần dữ đi qua thấy nhà nào có máu bôi trên cửa thì không vào hãm hại con trai đầu lòng của họ, nhưng sẽ “vượt qua.” Như vậy khi nghe đến danh xưng của Chúa Giê-su là Chiên Con, người Do Thái nhớ dấu hiệu của máu chiên bôi trên cửa, mà nhờ đó tổ phụ họ được thoát khỏi tai họa trong ngày ấy, và dân tộc họ còn tồn tại cho đến ngày nay.
  1. b) Thứ hai, đối với người Do Thái, họ thường dùng những con chiên làm của tế lễtrong nhữngnghi lễ xá tội mỗi ngày. Mỗi ngày 2 lần, ban sáng thầy tế lễ giết một con chiên, ban chiều giết một con nữa làm của tế lễ, biểu hiệu cho sự chuộc tội thay cho dân sự Chúa. Nếu tính thì chắc có trên cả 1 triệu con chiên đã bị giết từ khi nghi lễ này bắt đầu được thiết lập.
  1. c) Cho đến khi Chúa Giê-su giáng sinh và rồi chịu chết, bị đóng đinh trên cây thập tự gía đổ huyết, bị giết như hình bóng của những “con chiên” ngày xưa, để làm của tế lễtrọn vẹn, một lần là đủ cả mà chuộc tội cho cả nhân loại.
  1. d) Ý tưởng này cũng không khó hiểu cho thời đại của chúng ta, như việc nếu chúng ta mắc nợthì phải trả, có tội thì phải bị phạt, vì đó là chuyện công bình, phải có mà thôi. Đức Chúa Trời đã vì yêu thương chúng ta mà Ngài trả thế mọi nợ tội lỗi của mỗi chúng ta, trong huyết của Con Ngài, vì tự chúng ta không thể trả nổi. Chúa Giê-su chết để trả mọi “tiền công” của tội lỗi chúng ta, hầu chúng ta có đủ điều kiện của sự công bình và thánh khiết, để có thể sống đời đời với Đức Chúa Trời trong cõi đời sau.

Chúng ta phải biết cảm tạ Chúa ban cho chúng ta ân điển, ơn phước, ân huệ lạ lùng này một cách dễ dàng, không đòi một gía nào phải trả, không buộc chúng ta phải làm một công đức nào, nhưng chỉ tin Con Ngài mà thôi. Câu chuyện về một người tù trưởng da đỏ sau khi tin Chúa thì có một người đến hỏi ông giải thích cho biết “ân điển” của Chúa ban cho là gì. Ông tù trưởng da đỏ móc trong túi ra một con sâu nhỏ; ông bỏ nó trên giữa một đống lá khô, rồi mồi lửa đốt xung quanh những lá khô đó; Nhưng trước khi lửa nhém cháy đến con sâu thì ông nhỏ nhẹ thò tay vào giữa đám lửa mà bốc con sâu thoát ra khỏi đám lửa cháy đó, và rồi ông nói: “Con sâu đó chính là tôi được Chúa cứu ra khỏi quyền lực của sự chết và đó là ân điển lạ lùng của Chúa.”  Khi chúng ta hết thảy đáng bịthiêu đốt đời đời trong lửa địa ngục xứng với tội lỗi của mình thì Chúa Giê-su, Con Đức Chúa Trời đã đến cứu chúng ta ra khỏi sự phán xét này, bằng cách hy sinh chính mạng sống của mình ở trên cây thập tự gía, chết thế cho chúng ta. Vào quốc tịch Mỹ là một hành trình rất khó và lâu dài đòi hỏi nhiều điều kiện: Bạn phải có hạnh kiểm tốt tối thiểu 5 năm, phải học luật, làm đơn, thi đậu, và cuối cùng tuyên thệ; nhưng vào quốc tịch trời thì chỉ tin Cứu Chúa Giê-su mà thôi – dễ như vậy mà bạn chưa tin nhận thì trong ngày tận thế chúng ta còn có lý do gì bào chữa cho sự phán xét đời đời của mình chăng?Nếu chúng ta nhận thức được lẽ thật này thì điều tự nhiên chúng ta phải biết ơn Chúa, vì Ngài đã ban cho chúng ta ân điển lạ lùng này trong Cứu Chúa Giê-su.

IV. Nhớ Ơn Chúa là Vua sẽ Ban cho Chúng Ta Cơ Nghiệp Đời Đời

Một điều nữa chúng ta phải cảm tạ Chúa vì Ngài là vị Vua của muôn vua, Chúa của muôn Chúa, sẽ trở lại một ngày để ban cho chúng ta cơ nghiệp đời đời là nước thiên đàng. Khi nói đến Vua, nghĩa là nói đến một vương quốc. Chúa là Vua nghĩa là Ngài sẽ ban cho mọi kẻ tin vương quốc của Ngài, đó chính là nước thiên đàng cho chúng ta hưởng một ngày, thay vì đi vào địa ngục. Vài ý tưởng về nước thiên đàng Chúa hứa ban cho mọi kẻ tin:

1) Thiên đàng là một thế giới mới không còn một sự đau đớn, khổ sở nào nữa. Khải Huyền 21:3-4 hé mở cho chúng ta thấy rõ điều này: (And I heard a loud voice from the throne saying, “Behold, the dwelling place of God is with man. He will dwell with them, and they will be his people, and God himself will be with them as their God. 4 He will wipe away every tear from their eyes, and death shall be no more, neither shall there be mourning, nor crying, nor pain anymore, for the former things have passed away.”) “Tôi (sứ đồ Giăng) nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng. 4 Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi.” Một điều chắc chắn chúng ta không một ai sẽ còn cần Obamacare nữa ở trên thiên đàng, vì Đức Chúa Trời sẽ ban cho mọi kẻ tin có một thân thể mới, chẳng còn bị hư nát, đau ốm, gìa nua, bệnh tật nữa, để hưởng nước thiên đàng của Ngài đời đời.

2) Thiên đàng là chỗ sẽ không còn mộtquyền lực của tội ác nào nữa. Khải Huyền 21:27chép rõ những ai sẽ được ở trong nước thiên đàng –(But nothing unclean will ever enter it, nor anyone who does what is detestable or false, but only those who are written in the Lamb’s book of life.) “kẻ ô uế, người làm điều gớm ghiếc và nói dối không hề được vào thành (trời mới, đất mới); nhưng chỉ có những kẻ đã biên tên trong sách sự sống của Chiên Con.” Vì chỗ đó có Chúa tể trị hoàn toàn và những kẻ ác, satan, ma quỉ đều đã bị quăng vào hồ lửa địa ngục đời đời rồi. Điều gì bạn ghét nhất? Có lẽ hối lộ, dối trá, lường gạt, bất công… chắc chắn sẽ không còn nữa ở trong nước thiên đàng của Đức Chúa Trời.

3) Chúng ta sẽ có mối tương giao trực tiếp (mặt đối mặt) với Chúa và cùng tể trị với Ngài.Khải Huyền 22:1-5 – (Then the angel showed me the river of the water of life, bright as crystal, flowing from the throne of God and of the Lamb 2 through the middle of the street of the city; also, on either side of the river, the tree of life with its twelve kinds of fruit, yielding its fruit each month. The leaves of the tree were for the healing of the nations. 3 No longer will there be anything accursed, but the throne of God and of the Lamb will be in it, and his servants will worship him. 4 They will see his face, and his name will be on their foreheads. 5 And night will be no more. They will need no light of lamp or sun, for the Lord God will be their light, and they will reign forever and ever.)“Thiên sứ chỉ cho tôi xem sông nước sự sống, trong như lưu ly, từ ngôi Đức Chúa Trời và Chiên Con chảy ra. 2 Ở giữa phố thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mười hai mùa, mỗi tháng một lần ra trái; và những lá cây đó dùng để chữa lành cho các dân. 3 Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa; ngôi của Đức Chúa Trời và Chiên Con sẽ ở trong thành; các tôi tớ Ngài sẽ hầu hạ Ngài; 4 chúng sẽ được thấy mặt Chúa, và danh Chúa sẽ ở trên trán mình. Đêm không còn có nữa, 5 và chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ soi sáng cho; và chúng sẽ trị vì đời đời.” Có sông nước sự sống, cây sự sống chính là Ngài, sẽ ban cho chúng ta sức sống đời đời để cùng tể trị với Chúa.

Thiên đàng là nơi mà Chúa muốn loài người hưởng, vì đó chính là mục tiêu tại sao Ngài dựng nên loài người chúng ta từ lúc ban đầu. Thiên đàng tốt hơn địa ngục, là nơi tối tăm, có hồ lửa cháy không hề tắt, nghiến rằng đau đớn, và chỗ sâu bọ không hề chết. Bạn có bao giờ đi đổ rác không và nhìn và thùng rác thấy những con sâu và ngửi mùi hôi? Thiên đàng hay địa ngục là tùy theo sự chọn lựa của bạn mà thôi, vì “con nhà ai sẽ về nhà nấy.” Nếu Chúa ban cho không, gởi người đến mời gọi chúng ta nhận, nhưng chúng ta cứng lòng không chịu nhận thì hậu qủa là bởi vì ai trong ngày tận thế? Hãy mở lòng nhận tin Chúa Giê-su, nhận nước thiên đàng và hết lòng cảm tạ Ngài.

V. Bày Tỏ Lòng Biết Ơn

Hai điều căn bản chúng ta nên thực hành để bày tỏ lòng biết ơn Chúa:

1) Sự thờ phượng Chúa là điều Ngài rất thích. Chúa không cần một thứ gì ở nơi chúng ta, vì Kinh Thánh Thi Thiên 24:1 chép – (The earth is the Lord’s and the fullness thereof, the world and those who dwell therein,) “Đất và muôn vật trên đất, Thế gian và những kẻ ở trong đó, đều thuộc về Đức Giê-hô-va.” Chuyện về cháu Sam có lần muốn lấy tiền mình có ra bao má nó đi ăn trong ngày sinh nhật của má nó, nhưng cháu chỉ có 5 đồng bạc mà thôi. Chúng ta có gì đủ để “bao” cho Chúa, trả công cho Ngài không? Nhưng điều Chúa thích ở chúng ta, đó là sự thờ phượng Ngài với tâm thần thật thà và hết lòng. Êphêsô 5:19-20 – (Speak to one another with psalms, hymns and spiritual songs. Sing and make music in your heart to the Lord, always giving thanks to God the Father for everything, in the name of our Lord Jesus Christ.)“Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa. Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta.”

  1. a) Khi chúng ta hát ca ngợi và thờ phượng Ngài chính là lúc chúng ta tôn cao danh Chúa, bày tỏ sự vui mừngcủa mình có trong Chúa, và cảm tạ Ngài với tất cả những ơn phước mà Ngài đã ban cho chúng ta trong Con Ngài là Cứu Chúa Giê-su Christ. Chẳng hạn như tác gỉa trong 1 Sử Ký 16:34đã ngợi khen Chúa bằng cách tuyên bố gì về Chúa của mình? “Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài lànhân từ; Sự thương xót Ngài còn đến đời đời.”(Oh give thanks to the Lord, for he is good; for his steadfast love endures forever!)
  1. b) Trong sự thờ phượng, chúng ta cũng kể ranhững gì Chúa đã làm cho mình. Tác gỉa Thi Thiên 46:1kể ra gì về Đức Chúa Trời của mình? (God is our refuge and strength, an ever-present help in trouble.) “Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân.” Mỗi khi kẻ thù tấn công chúng ta, mình có chỗ nương náu vững chắc. Thi Thiên 118:6 – (The LORD is with me; I will not be afraid. What can mere mortals do to me?) “Đức Giê-hô-va binh vựctôi, tôi chẳng sợ; Loài người sẽ làm chi tôi?” Mỗi lần quỉ satan lên án tội lỗi của chúng ta mà mình đã ăn năn, là mỗi lần Chúa Giê-su lại bênh vực cho chúng ta bằng chính huyết của Ngài. Chúng ta thờ phượng Chúa đẹp lòng bằng cách hát những bài ca ngợi khen Chúa với cả tấm lòng của mình, và lớn tiếng khoe những điều lạ lùng Ngài làm cho chính mình. Ai thật sự biết ơn Chúa sẽ không bao giờ xem thường giờ nhóm lại thờ phượng Chúa, nhưng sẽ chú tâm, để ý và hết lòng ngợi khen Ngài trong ngày thánh mỗi tuần.

2) Sự dâng hiến đời sống của mình để phụng sự Chúa. Một điều nữa chúng ta có thể làm để bày tỏ lòng biết ơn Chúa thực tế đó là dâng trọn đời sống của mình để hầu việc Ngài.  Rôma 12:1-2sứ đồ Phaolô nhắc chúng ta điều gì – (I appeal to you therefore, brothers, by the mercies of God, to present your bodies as a living sacrifice, holy and acceptable to God, which is your spiritual worship. 2 Do not be conformed to this world, but be transformed by the renewal of your mind, that by testing you may discern what is the will of God, what is good and acceptable and perfect.) “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2 Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào.”Câu chuyện về một tù trưởng da đỏ vừa mới tin Chúa xong và nhà giáo sĩ khuyên ông hãy dâng đời sống mình cho Chúa. Ông liền chạy vào lấy ra cái cung quí của mình mà dâng cho Chúa, nhưng nhà giáo sĩ lắc đầu. Ông lại chạy vào lần nữa đem ravòng đeo đầu làm bởi lông chim đại bàng, vị giáo sĩ vẫn lắc đầu. Ông chạy ra sân dẫn con ngựa bạchquí và nói muốn dâng cho Chúa, vị giáo sĩ vẫn lắc đầu. Cuối cùng, ông thốt lên: “Thôi tôi biết rồi, món quà Chúa Giê-su muốn nhất chính là đời sống của mình để phụng sự Chúa, để Chúa xử dụng đem cả bộ lạc mình đến biết Ngài.” Vị gíao sĩ gật đầu thỏa vui. Thực tế của người biết ơn Chúa là luôn muốn tìm kiếý muốn tốt lành của Chúa cho mình và vâng lời làm theo. Ý muốn tốt lành của Chúa có chép rõ trong Kinh Thánh qua những mạng lệnh của Ngài. Ai yêu mến Chúa thật thì yêu mến học lời Kinh Thánh, tìm kiếm xem những mạng lệnh của Chúa là gì, và luôn cố gắng làm theo đúng thái độ, là người thật sự biết bày tỏ lòng biết ơn Ngài.

Nguyện xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết ơn Ngài vì chính Chúa là Đấng Sáng Tạo ban cho chúng ta sự sống, chính Chúa đã ban cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc, và cũng chính Ngài là Vua sẽ ban cho mọi kẻ tin cơ nghiệp nước thiên đàng, để chúng ta biết bày tỏ lòng biết ơn Chúa qua sự thờ phượng và vâng giữ các điều răn của Chúa luôn. Thành thật cầu chúc mọi người hưởng được một mùa lễ Cảm Tạ an lành, trong ân điển của Cứu Chúa Giê-su, Chúa chúng ta!

———- Lời Mời Gọi

Nhà văn hào người Pháp tên J.M Massieu có lần nói: “Tri ân là trí nhớ của con tim.” Bạn có trí khôn để nhận biết có Đấng Sáng Tạo không? Bạn có trái tim để cảm nhận sự yêu thương của Ngài đã và đang ban cho bạn sự sống, và sức sống mỗi ngày không?  Hơn nữa, bạn có nhận thức món quà ân điển mà Đức Chúa Trời đã ban cho bạn qua Con Ngài là Cứu Chúa Giê-su, từ trời giáng thế để chịu chết chuộc tội cho bạn không, để bạn có được sự sống đời đời nữa? Thanksgiving không phải là cơ hội để được ăn “gà tây,” chen chúc đi chợ “black Friday,” xem football, shopping, kể cả dự trại, nhưng là để lắng lòng đếm các phước lành Chúa mà biết ơn Ngài. Ơn lớn nhất như sứ đồ Phaolô đã nói trong 2 Côrinhtô 9:15 đó là – “Thanks be to God for his indescribable gift!” (Tạ ơn Đức Chúa Trời, vì sự ban cho của Ngài không xiết kể!) Sự ban cho chính là Cứu Chúa Giê-su đã đến chịu chết trên cây thập tự gía, đổ huyết để chuộc tội cho mỗi chúng ta.

Điều gì hay nhất để bạn làm trong mùa lễ Tạ ơn này? Ấy chính là mở lòng nhận sự ban cho của món quà quí gía này cho chính mình và biết ơn Ngài. Có ai muốn được hướng dẫn cầu nguyện để tiếp nhận Cứu Chúa Giê-su sáng hôm nay không?

—————-

Cho con cái Chúa thì sao? Chúng ta có đang sống quá bận rộn bon chen trong một thế giới vật chất, như những người trần thế… chỉ biết lợi dụng mùa lễ Tạ Ơn trong ngày thứ Sáu “Black Friday”… để mong mua được những món hàng đại hạ giá không… hay là dành nhiều thì giờ cảm tạ Chúa về những gì Ngài đã làm cho mình, cho gia đình mình và cho Hội Thánh của Chúa? Điều gì đẹp nhất để chúng ta “giving thanks to God?” Ấy chính là sự thờ phượng phải lẽ và đời sống của mình để hầu việc Chúa. Chúng ta sẽ bày tỏ thực tế tấm lòng biết ơn Chúa như thế nào… có sẽ hứa nguyện hết lòng trong sự học lời Chúa, tĩnh tâm mỗi ngày, hết lòng trong sự nhóm lại thờ phượng Chúa mỗi tuần, sự dâng hiến 1/10, và hết lòng hầu việc Chúa trong sự rộng rãi giúp đỡ những người thiếu thốn hơn mình không? Cầu xin Chúa Thánh Linh biến đổi hết thảy đời sống của mỗi người chúng ta, làm thành những của lễ thánh và sống, dâng lên bày tỏ lòng biết ơn Ngài mỗi ngày!

 

Giving Thanks to God

(1 Chronicles 16:34)

 “Oh give thanks to the Lord, for he is good; for his steadfast love endures forever!”

 The month of November reminds us the tradition of Thanksgiving holiday. Showing gratitude to those who have blessed us is the natural expression of the heart. As human is created higher than animals, we also know to give thanks to God. There are at least three reasons we should give thanks to the Lord. First, God is our Creator Who gives us life. One cannot begin to give thanks to God without first recognizes God’s existence through the creation and the wonderful life cycles. Secondly, we give thanks to God for the Savior Jesus Who came from heaven and died on the cross to pay for the wages of our sins. Jesus is the Lamb of God Who is the perfect and ultimate sacrifice for our atonement. As a result, all who believe will inherit the eternal life. Thirdly, we give thanks to God because He is our King Who has promised to give us His kingdom in heaven. This new kingdom will have no more tears, suffering, or uncleans, but the river of life and the tree of life that will sustain us to enjoy God forever. This is absolutely a better choice than spending our eternity in the lake of fire.

 

There are at least two things we can do to express our gratitude to God. First, sincerelyworship Him alone by proclaiming Who He is and bragging about the blessings He has given us. Secondly, offer our life as a living sacrifice by seeking His wills and walk in them. May you have a blessed Thanksgiving holiday to remember counting God’s blessings and giving thanks to the Lord!

Mục sư Nguyễn Trọng Vinh

 

Sự Hiệp Thông Cầu Nguyện

prayer-jesus

Mác 14:32-42 (BTT)

Kế đó, đi đến một nơi kia, gọi là Ghết-sê-ma-nê, Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Các ngươi hãy ngồi đây, đợi ta cầu nguyện. 33 Ngài bèn đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đi, thì Ngài khởi sự kinh hãi và sầu não. 34 Ngài phán cùng ba người rằng: Linh-hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi hãy ở đây, và tỉnh thức. 35 Rồi Ngài đi một đỗi xa hơn, sấp mình xuống đất mà cầu nguyện rằng: nếu có thể được, xin giờ nầy qua khỏi mình. 36 Ngài rằng: A-ba lạy Cha, mọi việc Cha làm được cả; xin Cha cất chén nầy khỏi con; nhưng không theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn. 37 Rồi Ngài trở lại, thấy ba người ngủ; bèn phán cùng Phi-e-rơ rằng: Si-môn, ngủ ư! Ngươi không thức được một giờ sao? 38 Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để các ngươi khỏi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối. 39 Ngài lại đi lần nữa, và cầu nguyện, y như lời trước. 40 Ngài trở lại, thấy môn đồ còn ngủ, vì con mắt đã đừ quá; và không biết trả lời cùng Ngài thể nào. 41 Ngài trở lại lần thứ ba, phán cùng môn đồ rằng: Bây giờ các ngươi ngủ và nghỉ ngơi ư! thôi, giờ đã tới rồi; nầy, Con người hầu bị nộp trong tay kẻ có tội. 42 Hãy chờ dậy, đi hè; kìa, đứa phản ta đã đến gần.

Mark 14:32-42 (NIV)

32 They went to a place called Gethsemane, and Jesus said to his disciples, “Sit here while I pray.” 33 He took Peter, James and John along with him, and he began to be deeply distressed and troubled. 34 “My soul is overwhelmed with sorrow to the point of death,” he said to them.“Stay here and keep watch.” 35 Going a little farther, he fell to the ground and prayed that if possible the hour might pass from him. 36 “Abba”, Father,” he said, “everything is possible for you. Take this cup from me. Yet not what I will, but what you will.” 37 Then he returned to his disciples and found them sleeping. “Simon,” he said to Peter, “are you asleep? Could you not keep watch for one hour? 38 Watch and pray so that you will not fall into temptation. The spirit is willing, but the body is weak.” 39 Once more he went away and prayed the same thing. 40 When he came back, he again found them sleeping, because their eyes were heavy. They did not know what to say to him. 41 Returning the third time, he said to them, “Are you still sleeping and resting? Enough! The hour has come. Look, the Son of Man is betrayed into the hands of sinners.42 Rise! Let us go! Here comes my betrayer!”

Qua phân đoạn KT nay,   ta có được những dạy dỗ sau đây trong sự hiệp thông cầu nguyện:

1/ TRƯỚC NGHỊCH CẢNH, GIAN TRUÂN.
Chúa Jesus trước khi chịu hình trên thập tự giá, Ngài đi vào vườn Ghết-sê-ma-nê để cầu nguyện. Ngài biết rằng đây là nhục hình Ngài phải mang để Đức Chúa Trời chất hết tội lỗi của chúng ta trên Ngài và chính thân thể Ngài là của lễ chuộc tội cho cả nhân loại. Nhưng Ngài vẫn phải tìm một nơi thích hợp để cầu nguyện với Cha Ngài, để không bất cứ hoàn cảnh nào dù là khách quan hay chủ quan có thể ngăn trở chương trình của Đức-Chúa-Trời.
2/ CHỌN LỰA NGƯỜI.
Trong 12 sứ đồ thì Giu-đa đã tách tẻ đi theo con đường phản bôi vì tham tiền (1), Còn lại 11 sứ đồ Chúa chọn 3 người là Phi-ơ-rơ, Gia-cơ và Giăng là 3 sứ đồ thân thương gần gủi Chúa nhất đi với Ngài vào nơi yên tỉnh để cầu nguyện. Ngài tâm sự với họ rằng:” Linh hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi hãy ở đây, và tỉnh thức.Thật sự khi cầu nguyện cho những vấn đề hệ trọng mà có người ” chí cốt” hiệp thông thì tăng cường sức lực và linh nghiệm nhiều.
3/ XÁC TÍN NIỀM TIN

    Trước khi cầu nguyện, Ngài gọi A-ba là cha và xác tín rằng Cha Ngài là Đấng Toàn Năng, không có việc gì mà Ngài Không làm được” Nothing is impossible for him.” Rồi Ngài trình dâng vấn đề nếu được thì xin cất chén này khỏi con. Ngài kêu xin như vậy là vì Ngài là ” giòng dõi người nữ”, mang hình hài xác thịt của loài người chúng ta. Ngài cũng cũng có cãm xúc của con người chúng ta. Ngài có thần tánh nhưng Ngài cũng có nhơn tánh,

4/ KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN
 Ngài cầu nguyện xong, Ngài trở lại thì thấy 3 sứ đồ ngủ. Ngài phán cùng Phi-ơ-rơ rằng ” Si-môn, ngủ ư! Ngươi không thức được một giờ sao.”
Lần thứ hai trở lại Ngài cũng thấy các môn đồ còn ngủ. Ngài cãm thông sự yếu đuối của họ mà phán rằng ” Tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối.”và khuyên nhủ họ rằng ” hãy tỉnh thích và cầu nguyện, để các ngươi khỏi sa vào chước cám dỗ.”
Chắc chắn chúng ta cãm nhận được sâu xa sự dạy dỗ của Chúa về điều nầy.
5/ THEO Ý CHA.
  Chúa dốc đổ tâm hồn mình cho Cha Ngài, nói lên ước muốn của mình. Nhưng điều sau cùng Ngài vẫn giử một lòng vâng phục Ý Cha va thưa rằng theo ý cha chứ không theo ý con. Một sự vâng phuc tuyệt vời theo lời Kinh thánh ” Ngài vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự.”
Sự cầu nguyện hiệp thông sẽ tăng cường sức mạnh.Ngày nào mà chúng ta hiệp thông trong sự cầu nguyện, thì kẻ thù nghịch chúng ta là ma quỷ sẽ thối lại đằng sau. 
Và chúng ta cũng ý thức rằng những dấu hiệu chống phá của ma quỷ trong chương trình cầu nguyện phuc hưng tức là ma quỷ đang run sợ trước lời cầu nguyện hiệp thông của chúng ta và chứng tỏ là chương trình cầu nguyện hiệp thông của chúng ta vào 5.30 sáng hàng ngày đã và đang lay động cánh tay của Đức Chúa Trời chúng ta.
KẾT LUẬN
Chúng ta hãy nhớ lại hình ảnh: “…; Còn Môi-se, A-rôn và Hu-rơ lên trên đồi nổng. Vả hễ đương khi Môi-se giơ tay lên, thì dân Y-si-ra-ên thắng hơn; nhưng khi người xui tay xuống, dan A-ma-léc lại thắng hơn. Tay Môi-se mõi, A-rôn và Hu-rơ bèn lấy đá kê cho người ngồi, rồi ở hai bên đở tay người lên; tay người chẳng lay động cho đến khi mặt trời lặn. Giô-suê lấy lưởi gươm đánh bại A-ma-léc và dân sự người.” ( Xuất 17:10-12).
Trường hợp thứ hai cũng khích lệ chúng ta là những người chăn bầy của Chúa và hãy nhận lấy từng trải của các tôi tớ Chúa ngày xưa và ứng dụng vào cuộc đời hầu viêc Chúa của chúng ta ngày nay:

 Vua Ê-xê-chia và tiên tri Ê-sai khi đứng trước cơn nguy biến của đất nước, hai người đã hiệp thông trong sự cầu nguyện, tiếng kêu la của họ đã thấu trời, Đức Chúa Trời đã day động cánh tay quyền năng của Ngài, đã giải thoát cả dân tộc mà Chúa đã giao cho họ cai trị và hướng dẫn họ thờ phượng và hầu viêc Ngài.
Sách II sử ký 32: 20-21 chép như vầy: “Vua Ê-xê-chia, và tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt, cầu nguyện về việc nầy, và kêu la thấu đến trời. 21 Đức Giê-hô-va bèn sai một thiên sứ diệt những người mạnh dạn, các quan trưởng và các quan tướng ở trong trại quân của vua A-si-ri. Người trở về trong xứ mình, mặt hổ thẹn; và khi người vào trong miễu thần mình, có những kẻ bởi lòng người sinh ra đều lấy gươm giết người tại đó.”( BTT )  “King Hezekiah and the prophet Isaiah son of Amoz cried out in prayer to heaven about this.  And the LORD sent an angel, who annihilated all the fighting men and the leaders and officers in the camp of the Assyrian king. So he withdrew to his own land in disgrace. And when he went into the temple of his god, some of his sons cut him down with the sword.” (NIV)
Hãy bền chí, hiệp thông trong sự cầu nguyện để đắc thắng mà dấng bước vào chức vụ, mang kết quả cho Ngài và danh Ngài được vinh hiển.

Mục sư Nguyễn Đức Na.
 Hội Trưởng Tin Lành Liên Hiệp
  (1) II Timothe 6:10.

 

Đứng Vững Trong Đức Tin

(Stand Firm in the Faith)

1 Phiêrơ 5:8-10

“Hãy tiết độ và tỉnh thức: kẻ thù nghịch anh em là ma quỉ, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được. 9 Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó, vì biết rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như mình. 10 Đức Chúa Trời ban mọi ơn đã gọi anh em đến sự vinh hiển đời đời của Ngài trong Đấng Christ, thì sau khi anh em tạmchịu khổ, chính Ngài sẽ làm cho anh em trọn vẹn, vững vàng, và thêm sức cho.”

(Be alert and of sober mind. Your enemy the devil prowls around like a roaring lion looking for someone to devour. 9 Resist him, standing firm in the faith, because you know that the family of believers throughout the world is undergoing the same kind of sufferings. 10 And the God of all grace, who called you to his eternal glory in Christ, after you have suffered a little while, will himself restore you and make you strong, firm and steadfast.)

I. Thời Kỳ Khó Khăn

        Trong sách Truyền Đạo 3:1-8 ngày xưa vua Salômôn có nói – (There is a time for everything, and a season for every activity under the heavens: 2 a time to be born and a time to die, a time to plant and a time to uproot, 3 a time to kill and a time to heal, a time to tear down and a time to build, 4 a time to weep and a time to laugh, a time to mourn and a time to dance, 5 a time to scatter stones and a time to gather them, a time to embrace and a time to refrain from embracing, 6 a time to search and a time to give up, a time to keep and a time to throw away, 7 a time to tear and a time to mend, a time to be silent and a time to speak, 8 a time to love and a time to hate, a time for war and a time for peace.) “Phàm sự gì có thì tiết; mọi việc dưới trời có kỳ định. 2 Có kỳ sanh ra, và có kỳ chết; có kỳ trồng, và có kỳ nhổ vật đã trồng; 3 Có kỳ giết, và có kỳ chữa lành; có kỳ phá dỡ, và có kỳ xây cất; 4 có kỳ khóc, và có kỳ cười; có kỳ than vãn, và có kỳ nhảy múa; 5 có kỳ ném đá, và có kỳ nhóm đá lại; có kỳ ôm ấp, và có kỳ chẳng ôm ấp; 6 có kỳ tìm, và có kỳ mất; có kỳ giữ lấy, và có kỳ ném bỏ; 7 có kỳ xé rách, và có kỳ may; có kỳ nín lặng, có kỳ nói ra; 8 có kỳ yêu, có kỳ ghét; có kỳ đánh giặc, và có kỳ hòa bình.” Ở dưới mặt trời này, thời gian trôi qua nhiều thời kỳ có định trong chương trình của Đấng Chí Cao. Thời kỳ sống trong sự thoải mái, yên ổn, dễ dàng để phát triển đạo Chúa mạnh mẽ; nhưng cũng sẽ có thời kỳ khó khăn, đối diện với nhiều sự bắt bớ đạo, quyền lực chống nghịch của những kẻ ác xung quanh chăng?

        Nếu chịu khó quan xát, chúng ta thấy rõ có nhiều những dấu hiệu đang xảy ra xung quanh thế giới về sự bắt bớ đạo, để nhận thấy thời kỳ khó khăn đang tiến đến. Có lẽ tối thiểu hai trận chiến lớn con cái Chúa phải đối phó dữ dội trong tương lai đó là quyền lực của nhóm hồi giáo cực đoan, và phong trào hổ trợ cho vấn đề đồng tính luyến ái.

  1. a) Đạo hồi đang phát triển mạnh mẽ khắp nơi trên thế giới hơn cả cơ đốc giáo, nhưng điều đáng lo sợ là nhóm hồi giáo cực đoan (Muslims extremists) như bọn ISIL, đang bắt bớ mọi người phải theo Môhamét, nếu không sẽ bị chém đầu, nhất là cho những người cơ đốc. Tin tức mới vài ngày qua cho biết bọn ISIL vừa đem 600 người tù nhân đàn ông theo nhóm Shia, Yazidi, trong số đó có một số người tín đồ, ra sa mạc bắn chết  tại chỗ, chỉ có khoãng 11 người còn sống sót để kể lại sự kiện kinh khủng này. Nhóm hồi giáo cực đoan này tin rằng giết được nhiều người cơ đốc và những kẻ ngoại thì họ sẽ được hưởng nhiều tiên nữ xinh đẹp trong thế giới bên kia.
  1. b) Không phải ở xa chúng ta mà thôi, những sự kiện của thời kỳ khó khăn cũng đang xảy ra ngay tại nước Mỹ là một nước tự do, ngày xưa đã được dựng nên trên nền tảng của Kinh Thánh.
  1. i) Cách đây vài tháng, bà tỉnh trưởng (Mayor Annise Parker) ở thành phố Houston đã gởi chiếu chỉ lên chính quyền đòi đem những bài giảng của 5 vị mục sư ra tòa để kiểm soát, trong đó có một vị mục sư người Việt, vì có những lời gỉang đá động mạnh đến nhóm đồng tính luyến ái.
  1. ii) Cách đây vài tuần có hai vị Mục Sư ở Idaho bị chính quyền đe dọa sẽ bỏ tù 180 ngày và phạt 1,000$ mỗi ngày, nếu không chịu làm lễ cưới cho những người đồng tính luyến ái.

          iii) Chưa nói đến những quyền lực đang muốn loại bỏ tất cả những gì có liên hệ đến Chúa trong cuộc sống, như là cấm không được cầu nguyện trong những trường học công cộng, muốn loại bỏ chữ “God” ra khỏi đồng bạc, hay là trong bài ca quốc kỳ, không được phép treo các tấm bản có 10 điều răn của ĐCT, hay những hình tượng thập tự giá trong những nơi công cộng. Điều đáng sợ đó là những quyền lực bắt bớ đạo này bắt nguồn từ và được hổ trợ bởi những người lãnh đạo quốc gia, những người có quyền thế.

Chính Phaolô cũng đã một lần nhắc nhở và khuyên Timôthê trong 2 Timôthê 3:1-5a về thời kỳ khó khăn này – (But mark this: There will be terrible times in the last days. 2 People will be lovers of themselves, lovers of money, boastful, proud, abusive, disobedient to their parents, ungrateful, unholy, 3 without love, unforgiving, slanderous, without self-control, brutal, not lovers of the good, 4 treacherous, rash, conceited, lovers of pleasure rather than lovers of God— 5 having a form of godliness but denying its power.) “Hãy biết rằng trong ngày sau rốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. 2 Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, 3 vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, 4 lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời, 5 bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó.” Sẽ có một thời kỳ người ta sống bên ngoài thì tỏ vẻ rất là đạo đức, công bình, yêu thương người nghèo, bảo vệ súc vật, nhưng sẽ chối bỏ Chúa dữ tợn và ghét những người thuộc của Ngài.

        Điều này cũng không có lạ đối với Chúa Giê-su, vì chính Ngài cũng đã nói trước gì trong Mathiơ 24:3-14 về thời điểm này – (As Jesus was sitting on the Mount of Olives, the disciples came to him privately. “Tell us,” they said, “when will this happen, and what will be the sign of your coming and of the end of the age?” 4 Jesus answered: “Watch out that no one deceives you. 5 For many will come in my name, claiming, ‘I am the Messiah,’ and will deceive many. 6 You will hear of wars and rumors of wars, but see to it that you are not alarmed. Such things must happen, but the end is still to come. 7 Nation will rise against nation, and kingdom against kingdom. There will be famines and earthquakes in various places. 8 All these are the beginning of birth pains. 9 “Then you will be handed over to be persecuted and put to death, and you will be hated by all nations because of me. 10 At that time many will turn away from the faith and will betray and hate each other, 11 and many false prophets will appear and deceive many people. 12 Because of the increase of wickedness, the love of most will grow cold, 13 but the one who stands firm to the end will be saved. 14 And this gospel of the kingdom will be preached in the whole world as a testimony to all nations, and then the end will come.) “Ngài đang ngồi trên núi ô-li-ve, môn đồ tới riêng cùng Ngài, và nói rằng: Xin Chúa phán cho chúng tôi biết lúc nào những sự đó sẽ xảy ra? và có điềm gì chỉ về sự Chúa đến và tận thế. 4 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hãy giữ, kẻo có kẻ dỗ dành các ngươi. 5 Vì nhiều người sẽ mạo danh ta đến mà nói rằng: Ta là Đấng Christ; và sẽ dỗ dành nhiều người. 6 Các ngươi sẽ nghe nói về giặc và tiếng đồn về giặc: hãy giữ mình, đừng bối rối, vì những sự ấy phải đến; song chưa là cuối cùng đâu. 7 Dân nầy sẽ dấy lên nghịch cùng dân khác, nước nọ nghịch cùng nước kia; nhiều chỗ sẽ có đói kém và động đất. 8 Song mọi điều đó chỉ là đầu sự tai hại. 9 Bấy giờ,người ta sẽ nộp các ngươi trong sự hoạn nạn và giết đi; các ngươi sẽ bị mọi dân ghen ghét vì danh ta. 10 Khi ấy cũng có nhiều kẻ sẽ sa vào chước cám dỗ, phản nghịch nhau, và ghen ghét nhau. 11 Nhiều tiên tri giả sẽ nổi lên và dỗ dành lắm kẻ. 12 Lại vì cớ tội ác sẽ thêm nhiều thì lòng yêu mến của phần nhiều người sẽ nguội lần. 13 Nhưng kẻ nào bền chí cho đến cuối cùng, thì sẽ được cứu. 14 Tin Lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến.” Sẽ có thời kỳ khó khăn là lúc con cái Chúa sẽ bị bắt bớ dữ tợn, thế gian sẽ nộp chúng ta trong các tòa án, vì ghen ghét chúng ta là những người tin Chúa, và đây là một trong những dấu hiệu rõ ràng dẫn đến ngày tận thế. Có phải những sự kiện đang xảy ra xung quanh chúng ta là những dấu hiệu của thời kỳ khó khăn đang diễn tiến đến những ngày sau rốt chăng? Chúng ta có chút nhận xét và suy nghĩ gì về những sự kiện xảy đang xảy ra trước mắt của mình không?

        Kinh Thánh chép tất cả những điều này đang sửa soạn cho quyền lực cho kẻ chống nghịch lại Chúa đã và đang hành động mạnh mẽ ở trong thế giới này, vì chính nó cũng biết thì giờ của nó không còn nhiều nữa. Trong 2 Têsalônica 2:1-7 sứ đồ Phaolô đã nói trước về kẻ chống nghịch này – (Concerning the coming of our Lord Jesus Christ and our being gathered to him, we ask you, brothers and sisters, 2 not to become easily unsettled or alarmed by the teaching allegedly from us—whether by a prophecy or by word of mouth or by letter—asserting that the day of the Lord has already come. 3 Don’t let anyone deceive you in any way, for that day will not come until the rebellion occurs and the man of lawlessness is revealed, the man doomed to destruction. 4 He will oppose and will exalt himself over everything that is called God or is worshiped, so that he sets himself up in God’s temple, proclaiming himself to be God. 5 Don’t you remember that when I was with you I used to tell you these things? 6 And now you know what is holding him back, so that he may be revealed at the proper time. 7 For the secret power of lawlessness is already at work; but the one who now holds it back will continue to do so till he is taken out of the way.) “Luận về sự đến của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, và về sự chúng ta hội hiệp cùng Ngài, 2 thì, hỡi anh em, xin chớ vội bối rối và kinh hoảng hoặc bởi thần cảm giả mạo, hoặc bởi lời nói hay là bởi bức thơ nào tựa như chúng tôi đã gởi mà nói rằng ngày Chúa gần đến. 3 Mặc ai dùng cách nào, cũng đừng để họ lừa dối mình. Vì phải cósự bỏ đạo đến trước, và có người tội ác, con của sự hư mất hiện ra, 4 tức là kẻ đối địch, tôn mình lên trên mọi sự mà người ta xưng là Đức Chúa Trời hoặc người ta thờ lạy, rất đỗi ngồi trong đền Đức Chúa Trời, chính mình tự xưng là Đức Chúa Trời. 5 Anh em há không nhớ khi tôi còn ở với anh em, thì đã nói về những sự đó sao? 6 Hiện nay anh em biết rõ điều làm ngăn trở nó, hầu cho nó chỉ hiện ra đúng kỳ nó thôi. 7 Vì đã có sự mầu nhiệm của điều bội nghịchđang hành động rồi; song Đấng còn ngăn trở cần phải cất đi.” Sẽ có thời kỳ khó khăn mà nhiều người bỏ đạo, hội thánh bị teo lại vì sự bắt bớ, nhà thờ bị chính quyền đóng cửa, mục sư bị lên án bỏ tù, để sửa soạn/dọn đường cho kẻ chống nghịch Chúa, chính là “anti-christ,” có dấu của con số “666,” sẽ xuất hiện một ngày với quyền lực kinh khủng của satan, hãm hại dân Chúa cùng những kẻ tin; mặc dầu nó chưa ló mặt, nhưng Kinh Thánh nói quyền lực của nó đang lộng hành rồi.

II. Tiết Độ và Tỉnh Thức

        Nếu biết như vậy rồi, thì chúng ta phải làm gì đây? Con cái Chúa phải làm gì đây? Hội Thánh Chúa phải chuẩn bị như thế nào? Lời của sứ đồ Phiêrơ khuyên chúng ta trong 1 Phiêrơ 5:8, thứ nhất phải tập tành sự tiết độ và tỉnh thức – “Hãy tiết độ và tỉnh thức: kẻ thù nghịch anh em là ma quỉ, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được.” (Be alert and of sober mind. Your enemy the devil prowls around like a roaring lion looking for someone to devour.)

1) Chúng ta cần luyện tập sự tiết độ, có nghĩa là đời sống phải có chừng mực, có giới hạn, có sự quân bình, chớ luông tuồng, đừng quá độ, để nhận diện kẻ thù và đeo đuổi những điều ưu tiên trong cuộc sống. Chữ “tiết độ” trong tiếng Anh dịch là “sober,” mang ý nghĩa của sự kiềm hãm tránh xa rượu mạnh, vì rượu dễ làm cho một người không còn “control” mình được nữa, để rồi gây ra những hành động nguy hiểm, không tốt cho tánh mạng. Vì vậy mà người ta thường nói: “Don’t drink and drive,” và tội DWI là một tội phạm nặng (serious crime). Câu chuyện “chèo hoài không đi” của một toán thủy thủ chở hàng… một tối ghé quán rượu trên sông. Lúc tiệc tàn, kẻ thì say, người thì ngà ngà trở về thuyền trong ánh trăng sao mờ ảo. Họ hét, họ ca và ra hết sức để chèo thuyền mình ra lại bến tầu. Chèo một lúc thật lâu thì có người hét lên: “Sao lâu ra mà chưa đến bến tàu?” Bất chấp… họ lại tiếp tục gò lưng chèo mãi đến nỗi nhễ nhãi mồ hôi, bắp thịt rã rời… đến lúc phát hiện ra từ nãy đến giờ con thuyền của mình vẫn đứng yên một chỗ. Nguyên nhân là khi lên thuyền… họ vì say sưa nên quên không gỡ sợi dây neo thuyền còn cột vào đầu cảng của bờ, mà chưa được tháo ra. Đời sống của một số con cái Chúa cũng như vậy chăng, bị buộc trói vào những cơn say mê của những thú vui và lo lắng cho của cải vật chất, cho nên “chèo hoài” nhưng chẳng đi đến đâu hết, đời sống đức tin tâm linh “chẳng tăng trưởng chi hết,” vì chưa có sự tiết độ trong cuộc sống.

  1. a) Mánh khóe của ma quỉ giăng ra biết bao nhiêu là những thú vui (pleasures), hay làm thỏa mãn những ưa muốn của tư dục xác thịt, để rồi biết bao nhiêu người bị vấn vương, luông tuồng quá độ, chìm đắm trong những trụy lạc ở đời này, mà không lo sửa soạn cho linh hồn mình sẽ phải gặp Chúa một ngày để chịu sự phán xét.
  1. b) Ma quỉ nó cám dỗ nhiều người bằng cách gieo nhiều những “cơ hội làm giàu,” để chúng ta say mê trong những công việc đời, chỉ hết công sức thâu lượm của cải vật chất, mà chẳng chuẩn bị chi hết cho vững đức tin để sửa soạn đối phó với thời kỳ khó khăn đang tiến đến. Nhiều người, kể cả con cái Chúa, đang quá bận rộn trong những công ăn việc làm, cố gắng làm thêm vài tiếng đồng hồ “O.T.” không thì uổng quá, thì còn thì giờ đâu nữa để lo công việc của ChúaMa quỉ đút chúng ta nhiều những miếng mồi béo ngon, mà làm chúng ta bị mập ú, béo phì, bị giam cầm vào một thế giới vật chất, những thú vui, trở nên yếu đuối, nên chưa thể nào sửa soạn cho những trận chiến thuộc linh đang sắp đến.
  1. c) Đời sống có tiết độ là một đời sống có sự kỷ luật tâm linh. Một đời sống có kỷ luật tâm linh thì giữ kỹ một số những điều căn bảncủa người cơ đốc, đó là 1) sự tĩnh tâm cá nhân với Chúa mỗi ngày, 2) sự thờ phượng mỗi tuần và trau dồi lời Chúa trong các lớp học Kinh Thánh, 3) ham thích sự thông công, 4) lãnh trách nhiệm chăm sóc đức tin của nhau, và 5) biết hiệp tác trong đại sứ mạng truyền bá Tin Lành. Điều đáng sợ đó là vô số cơ đốc nhân và gia đình của họ ngày nay đang thiếu sót cả 5 điều này thì làm sao sửa soạn đối phó với những trận chiến thuộc linh?  Khi chúng ta đánh mất những điều căn bản này, chúng ta không thể thắng những trận chiến thuộc linh được. If you lose the basics, you will lose! Có lần đi thi đánh tennis của hãng Exxon ở Independence park. Đang thắng 5-1 rồi, chỉ còn một game nữa là đoạt giải hạng 3 trong năm đó. Nhưng người đối thủ bắt đầu khám phá ra điểm yếu backhand của tôi thiếu căn bản, thế là ông cứ nhẹ nhàng thả bên trái, cuối cùng tôi bị thua cuộc đua là 5-7, mà không bao giờ quên. Ma quỉ trong Kinh Thánh câu 8 được so sánh như con sư tử, nghĩa là nói đến sức mạnh của nó hơn người; nhưng không phải vậy thôi, nó còn xảo quyệt, khôn ngoan, vì nó kiên nhẫn rình mò, chờ đợi lúc chúng ta đang say nghủ, yếu đuối, dìm mình trong những mê đắm, quá độ trong những thú vui trần thế, thờ ơ trong những lời Kinh Thánh cảnh cáo, nguội lạnh trong công việc Chúa, và đó là lúc nó sẽ tấn công và nuốt sống chúng ta.

        2) Có tiết độ, thì chúng ta mới có thể tỉnh thức mà đề phòng những cạm bẫy của ma quỉ đang sắp sửa tấn công mình. “Tỉnh thức” đây mang hình ảnh của một người lính đứng canh giữ đồn mình, và khi thấy kẻ địch đến gần thì hô hào, loan báo cho cả thành thức dậy mà chuẩn bị chiến đấu, chống cự lại. Quí vị lái xe có luôn để ý bản tốc độ và xe cảnh sát đang đậu bên lề đường không, để khỏi bị ticket? Các bậc cha mẹ cơ đốc có đang làm vai trò của người lính canh giữ gia đình mình không? Có nhận diện ra những bẫy cám dỗ của ma quỉ của thế gian này đang len lỏi vào trong gia đạo qua những kỹ thuật điện toán tối tân không, như là Ipad, TV, Iphone, Internet? Người ta làm thống kê 3,000 đứa trẻ từ 3 tuổi đến 18, tỉ số các con em dùng TV, điện toán, Ipad mỗi ngày là khoãng 5.5 tiếng đồng hồ; và 61% của các bậc cha mẹ hiện nay không có luật giới hạn chi hết cho con em mình xử dụng những thứ này. Tỉnh thức để nhận thức sự thay đổi của thời kỳ khó khăn đang sắp đến, mà chuẩn bị kỹ càng để đối phó nó. Đối phó như thế nào nếu chính quyền trói buộc tất cả các hội thánh vào những luật pháp phải mướn một người lãnh đạo đồng tính luyến ái? Không cho phép các vị mục sư được giảng trong đó có chữ đồng tính luyến ái? Không được phép tự do ra chợ phát báo Hướng Đi và truyền đạo đơn? Khi con em chúng ta sẽ bị chọc cười là người cơ đốc cầu nguyện ở trong trường học? Khi không được mướn làm việc vì theo đạo cơ đốc? Khi súng kề vào đầu và nói phải chối Chúa?

III. Đứng Vững trong Đức Tin

        Điều thứ hai, sứ đồ Phiêrơ khuyên đó là phải giữ vững đức tin trong câu 9 – “Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó, vì biết rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như mình.” (Resist him, standing firm in the faith, because you know that the family of believers throughout the world is undergoing the same kind of sufferings.)  Điều kiện trước tiên để làm được điều này đó là phảicó đức tin, nếu không thì đâu cần nói chi đến việc đứng vững, phải không? Tin Chúa nghĩa là gì?

1) Trong Giăng 17:3 tóm tắt vài điều căn bản – (Now this is eternal life: that they know you, the only true God, and Jesus Christ, whom you have sent.) “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.”

  1. a) Tin Chúa có thật(Đấng Sáng Tạo hiện hữu) và có một (duy nhất).
  1. b) Tin Chúa ban cho ơn cứu rỗi trong Con Ngài, và bằng lòng tiếp nhận món quá cứu rỗi.
  1. c) Tin Chúa là Đấng phán xét cuối cùng, để ban cho sự sống đời đời cho mọi kẻ tin; còn những kẻ không tin sẽ bị quăng vào hồ lửa địa ngục.

        2) Người tin Chúa thật còn có nghĩa làvâng giữ, làm theo những điều răn của Ngài dạy dỗ mà mình đã nghe và biết. Trong 1 Côrinhtô 15:1-2 – (Now, brothers and sisters, I want to remind you of the gospel I preached to you, which you received and on which you have taken your stand. 2 By this gospel you are saved, if you hold firmly to the word I preached to you. Otherwise, you have believed in vain.)“Hỡi anh em, tôi nhắc lại cho anh em Tin Lành mà tôi đã rao giảng và anh em đã nhận lấy, cùngđứng vững vàng trong đạo ấy, 2 và nhờ đạo ấy, anh em được cứu rỗi, miễn là anh em giữ lấy y như tôi đã giảng cho; bằng không, thì anh em dầu có tin cũng vô ích.” Ẩn dụ về hai người xây nhà trong Mathiơ 7:24-27 Chúa Giê-su dạy làm sao một người đứng vững trong đạo? (“Therefore everyone who hears these words of mine and puts them into practice is like a wise man who built his house on the rock. 25 The rain came down, the streams rose, and the winds blew and beat against that house; yet it did not fall, because it had its foundation on the rock. 26 But everyone who hears these words of mine and does not put them into practice is like a foolish man who built his house on sand. 27 The rain came down, the streams rose, and the winds blew and beat against that house, and it fell with a great crash.”) “Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên hòn đá. 25 Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không sập, vì đã cất trên đá. 26 Kẻ nào nghe lời ta phán đây, mà không làm theo, khác nào như người dại cất nhà mình trên đất cát. 27 Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy, thì bị sập, hư hại rất nhiều.”) Tin không phải chỉ biết, nhưng còn làm theo; nếu không sẽ đến một thời kỳ khó khăn, mình sẽ bị sa ngã, nhà sẽ bị xập, sẽ chối Chúa, có thể bỏ đạo, phản nghịch nhau, và những điều mình đã biết, đã học, đã nghe, nhưng chưa vâng giữ chỉ là vô ích, dã tràng xe cát biển đông.

        3) Tin Chúa còn có chiều sâu đó là nhớ kỹnhững lời Chúa đã hứa khi đối diện với kẻ dữ. Lời hứa chúng ta cần nhớ kỹ đó là Chúa hứa sẽluôn ở cùng chúng ta.

  1. a) ĐCT hứa ở cùng Giôsuê như có chép trong Giôsuê 1:5– (No one will be able to stand against you all the days of your life. As I was with Moses, so I will be with you; I will never leave you nor forsake you.) “Trót đời ngươi sống, thì chẳng sẽ ai được chống cự trước mặt ngươi. Ta sẽ ở cùng ngươi như ta đã ở cùng Môi-se; ta sẽ không lìa ngươi, không bỏ ngươi đâu.”
  1. b) Chúa Giê-su hứa ở cùng với các môn đồ trong Mathiơ 28:18-20 (Then Jesus came to them and said, “All authority in heaven and on earth has been given to me. 19 Therefore go and make disciples of all nations, baptizing them in the name of the Father and of the Son and of the Holy Spirit, 20 and teaching them to obey everything I have commanded you. And surely I am with you always, to the very end of the age.”) “Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. 19 Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp tem cho họ, 20 và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.)
  2. c) Chúa hứa sẽ ở cùng với Phaolô và làm chứng cho ông như trong Công vụ 18:9-10– (One night the Lord spoke to Paul in a vision: “Do not be afraid; keep on speaking, do not be silent. 10 For I am with you, and no one is going to attack and harm you, because I have many people in this city.”) “Ban đêm, Chúa phán cùng Phao-lô trong sự hiện thấy rằng: Đừng sợ chi; song hãy nói và chớ làm thinh; 10 ta ở cùng ngươi, chẳng ai tra tay trên ngươi đặng làm hại đâu; vì ta có nhiều người trong thành nầy. Nhớ như vậy mới giúp chúng ta không có sợ, nhưng dạn dĩ đối diện với những sự bắt bớ, khi họ nộp chúng ta trong các toà án, vì biết Chúa luôn ở cùng và Ngài sẽ nói, bênh vực qua môi miệng của chúng ta.)
  1. Chịu Đựng

        Điều thứ ba, sứ đồ Phiêrơ khuyên chúng ta tập luyện sức chịu đựng trong câu 10 ngay hôm nay qua những việc nhỏ, để chuẩn bị đánh trận lớn ngày mai – “Đức Chúa Trời ban mọi ơn đã gọi anh em đến sự vinh hiển đời đời của Ngài trong Đấng Christ, thì sau khi anh em tạm chịu khổ, chính Ngài sẽ làm cho anh em trọn vẹn, vững vàng, và thêm sức cho.” (And the God of all grace, who called you to his eternal glory in Christ, after you have suffered a little while, will himself restore you and make you strong, firm and steadfast.) Mỗi lần cô Beth bạn tôi tập chạy Marathon (26.1 miles) là phải sửa soạn cả 3 tháng trước đó, bằng cách chạy mỗi ngày 6-7 miles, cẩn thận ăn những thứ gì cần thiết, chỉ mong để chạy cho xong cuộc đua, chứ chưa nghĩ đến việc chạy về top 10.  Lúc chúng ta cần luyện sức chịu đựng để đối phó với những trận chiến thuộc linh sắp đến là ngay hôm nay, chứ không phải đợi “nước tới chân hẵng chạy.” Nếu những sự nhịn nhục ngày hôm nay trong giữa vòng con cái Chúa với nhau, để tránh sự cãi cọ, tránh nói xấu người khác, tránh gây sự chia rẻ, mà giữ sự hiệp nhất mà chúng ta chưa làm nổi, thì liệu trong những ngày sau rốt, thời kỳ khó khăn, chúng ta có còn chịu đựng được những sự bắt bớ không?

Cũng đừng xem thường những hoạn nạnChúa có khi cho phép xảy ra trong cuộc sống của mình, vì chính những điều này giúp cho chúng ta thêm sự kiên nhẫn, thêm sức chịu đựng để đứng vững trước những bắt bớ có thể xảy ra trong tương lai. Sứ đồ Phiêrơ cũng đã nói gì trong Giacơ 1:2-4 – (Consider it pure joy, my brothers and sisters, whenever you face trials of many kinds, 3 because you know that the testing of your faith produces perseverance. 4 Let perseverance finish its work so that you may be mature and complete, not lacking anything.)“Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn, 3 vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục. 4 Nhưng sự nhịn nhục phải làm trọn việc nó, hầu cho chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn, không thiếu thốn chút nào.” )

Khí hậu đang thay đổi và chúng ta biết là lúc chuyển mùa từ Hè qua Thu, rồi khi thời tiết lạnh lẽo, cây trơ trọi lá thì chúng ta biết Đông đã đến. Nhìn những sự kiện đang xảy ra trước mắt, chúng ta cũng có khôn ngoan không, để thấy những dấu hiệu của thời kỳ khó khăn đang đến nhanh chóng? 5, 10, 25 năm nữa gia đình cơ đốc và Hội Thánh sẽ đối phó những nan đề gì? Chúng ta có chuẩn bị để đối phó chưa? Con cháu chúng ta có sẽ đứng vững ở giữa những trận chiến thuộc linh không? Chúng ta cò còn nhớ rằng Chúa đã hứa Ngài ở bên phe chúng ta không? Mong Chúa Thánh Linh giúp chúng ta tập tiết độ và tỉnh thức, giúp giữ vững đức tin, trau dồi sự nhịn nhục, để chuẩn bị cùng hiệp nhất đối phó với những trận chiến thuộc linh, chống cự lại ma quỉ như sư tử rống đang lộng hành để phá hoại hội thánh, và hội thánh sẽ thắng trận cho sự vinh hiển của Chúa Giê-su.

————- Lời Mời Gọi

Thiên hạ thường có câu nói “business as usual” để nói đến tình trạng yên ổn, phát triển bình thường, không có sự xáo trộn chi cả. Điều này có lẽ cũng là điều chúng ta muốn có được để phát triển hội thánh Chúa bình thường; nhưng hầu như quan xát tình trạng thế giới thì có lẽ phải nói “church cannot be as usual anymore!” Những quyền lực của kẻ dữ, người chống nghịch với Chúa đang lộng hành càng ngày càng dữ, ra mặt chống đối Chúa và con dân Ngài. Đây là thời điểm nó đã rình mò từ lâu vì biết ngày ấy không còn là bao lâu chăng?

Hội thánh Chúa có nhận biết điều này không để trau đồi đức tin hầu có thể đứng vững trong thời kỳ khó khăn này? Những người ở bên Hawaii đang chuẩn bị cho núi lửa phun như thế nào? Họ cứ tình bơ hay là mau mau thu xếp dọn đi chỗ khác?  Chúng ta có sẽ cứ say nghủ trong thái độ trì hoãn, ỷ y nữa, để nước tới chân hãy chạy cho đến chừng nào đây?  Có sự suy nghĩ thờ ơ – Không có sao đâu, người ta sao tôi vậy, đâu đến nỗi tệ như vậy, để rồi cứ ăn, cứ uống, cứ làm việc, ham chơi, hơi đâu mà lo. Không được, chúng ta phải lắng nghe lời cảnh cáo của Chúa mà:

1) Tập tành sự tiết độ và tỉnh thức. Có điều gì trong cuộc sống cần điều chỉnh, bớt lại không để giữ được những điều căn bản của đạo?

2) Chúng ta phải trau dồi đức tin bằng cách không phải đến đây mỗi tuần chỉ nghe mà thôi, nhưng quyết tâm ra về làm theo những điều mình đã nghe lời Chúa dạy dỗ.

3) Tập sự chịu đựng bắt đầu bằng những việc nhịn nhục nhỏ, có thể trong chính vòng liên hệ giữa anh chị em trong Chúa, giữa vợ chồng với nhau, để công việc Chúa được tiến hành, phát triển tốt đẹp, hầu cho khi đối diện với sự bắt bớ lớn chúng ta không bỏ cuộc.

It’s coming – are we ready? Nếu chưa có chương trình tĩnh tâm cá nhân mỗi ngày với Chúa thì phải bắt đầu ngay. Dự phần trong các lớp học Kinh Thánh và thờ phượng mỗi tuần, nhất quyết không bỏ. Giữ sự thông công chặt chẽ với nhau, nhiều hơn với những người ngoại. Lãnh trách nhiệm chăm sóc nhau, kẻ mạnh giúp người yếu, kẻ yếu giúp người yếu hơn, lá lành đùm lá rách. Trung tín trong chức vụ Chúa gọi mình, đừng để một ý riêng chi làm mình bị chi phối. Hiệp tác trong sự rao truyền Tin Lành là việc ưu tiên hơn tất cả mọi điều khác ở đời này.

Một trong những cách thực tế chúng ta chống cự lại những quyền lực của kẻ dữ đó là phải đi bầu, bỏ phiếu cho những người đi theo sự dạy dỗ của đạo Chúa Giê-su. Thống kê cho biết chỉ khoãng 25% người cơ đốc đi bỏ phiếu mà thôi; điếu đáng tiếc. Làm sao chúng ta sống cứ than phiền, phàn nàn là chính quyền càng ngày sống càng bỏ đạo Chúa, nhưng chúng ta lại không đi bầu bỏ phiếu cho những người đi theo đạo? Chúng ta không thể thắng trận bằng môi miệng, chỉ toàn là những lời nói phàn nàn, trách móc được, nhưng phải bằng những hành động thực tế.

Stand Firm in the Faith

1 Peter 5:8-10

The time of “business as usual” for the church is passing us. We need to pay attention in the changing of the seasons. There are at least two major spiritual battles that the church will have to face: The growth of the extreme Muslim idealism and the homosexual agenda. All of these cruel and rebellious forces is to prepare for the man of lawlessness to be revealed; although, his secret power is already at work. Is the church of God ready to face these battles? How will we prepare for it?

We must have an attitude of sobering (self-control) and being alert. We must not allow ourselves to be drifted away by false doctrines and excessive pleasures; but to guard our family, our church from the temptations of evil forces. Secondly, we must stand firm on our faith. A person having faith in God is the one who believes God does exist, accepts His gift of salvation given through the sacrifice of God’s Son, and waits patiently for God righteous judgment to be accomplished. Those who have faith will also keep God’s commandments and sharpen their spiritual weapons ready for battles. Thirdly, to face the spiritual battles, we need to train ourselves for strength to endure the fights. To run a “marathon” for tomorrow, one must prepare to run shorter laps today.

Sleep no longer; we need to wake up and observe the changes in the seasons. We need to unite as a strong army for the Lord. May God be on our side as we prepare to face spiritual battles and bring victory unto His name.

GIẢNG GIẢI KINH

Một số cạm bẫy thường thấy trong việc giải kinh
 
Mọi người lính nhảy dù biết rõ ràng mình sẽ đáp xuống tại đâu, nhưng không người nào nhảy khỏi máy bay mà lại không hiểu biết về địa hình xung quanh. Nếu làm khác đi, anh ta có thể bị lạc hướng và lạc mất, hậu quả có thể tồi tệ đến mức khó lường. Cũng như vậy, nhảy dù một cách thình lình vào vài phân đoạn Kinh Thánh, cố gắng nhặt nhạnh vài bài học thuộc linh mà bất chấp văn mạch, có thể dẫn đến lãng phí thời gian và nghẹt ngòi thuộc linh.
Đọc Kinh Thánh cách thường xuyên theo một kế hoạch đã định là nền móng phải lẽ cho việc học Kinh Thánh thành công. Những nguyên tắc giải kinh đúng mực sẽ khiến việc học Kinh Thánh thành phước hạnh và lợi ích thuộc linh.
Việc đọc Lời Chúa trả lời cho câu hỏi, Kinh Thánh nói gì? Nhưng công tác giải kinh trả lời cho câu hỏi, Kinh Thánh nói như thế là có ý nghĩa gì? Phương cách giải kinh đúng mực là yếu tố then chốt cho việc học Kinh Thánh thành công. Người đọc không có phép quyết định ý nghĩa của bản văn. Anh ta phải học xem bản văn ấy có ý nghĩa gì.
Phao-lô bảo ban chức vụ cho người học trò Ti-mô-thê của mình rõ ràng lắm, “Hãy chăm chỉ đọc sách, khuyên bảo, dạy dỗ cho đến chừng ta đến.” (I Tim 4:13). Ông dạy Ti-mô-thê phải đọc bản văn, giải thích bản văn (tín lý), và áp dụng bản văn (dạy dỗ). Bạn đừng đọc và nhảy ngay vào phần áp dụng. Hãy đọc bản văn, giải thích bản văn, rồi mới ứng dụng nó. Đó chính là ý nghĩa của câu “lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (II Tim 2:15). Nói cách khác, sự giải kinh sai trật đưa đến kết quả, và là nguồn gốc của, mọi thứ cuồng tín.
Sự cuồng tín do bởi giải kinh sai trật.
 
Giải kinh sai trật sẽ gây ra mọi thứ nan đề, từ những sai lầm ngớ ngẫn đến những lạc giáo nguy hiểm. Nhiều người biết đến “Phương cách Đa-ni-ên” là cách thức giảm cân dựa trên câu chuyện tiên tri Đa-ni-ên quyết định chỉ ăn rau quả và uống nước (Đa-ni-ên 1:12). Nhưng cách giảm cân tân thời “theo Kinh Thánh” này lại hoàn toàn bỏ qua ý nghĩa rằng việc ăn uống của Đa-ni-ên là để bày tỏ sự giữ gìn của Chúa bất chấp việc ăn uống có phần lạ thường này của ông. Tệ hơn nữa, những người chủ trương “Phương cách Đa-ni-ên” đã quên rằng chính Đa-ni-ên đã tăng cân với cách ăn uống ấy (Đa-ni-ên 1:15)!
Các diễn giả tin lành thịnh vượng dạy rằng lời chào thăm của sứ đồ Giăng về sức khỏe và thịnh vượng (III Giăng 2) cho thấy Đức Chúa Trời muốn Cơ đốc nhân luôn luôn khỏe mạnh và giàu có. “Thần học” như thế thì chẳng khác nào đang chế nhạo những khó khăn, thiếu thốn, và cái chết của các sứ đồ và những người tiếp bước chân họ (tham khảo Hê-bơ-rơ 11:35-38).
Một số nhánh của Mọt-môn-giáo cho rằng các tổ phụ xưa kia đều đa thê, nên ngày nay chúng ta cũng phải đa thê. Một nhóm còn quyết định chống đối việc gây tê cho phụ nữ vì đọc thấy Cựu Ước dạy rằng đau đớn khi sanh nở là một phần của sự rủa sả, vì thế không được tránh. Phái Chứng nhân Giê-hô-va thường từ chối việc truyền máu là do hiểu sai về những dạy dỗ về máu trong Công vụ 15:28-29.
Những sự giải kinh sai trật có thể gây nên trò lố bịch, ngớ ngẫn, nguy hiểm và đáng nguyền rủa. Nhưng những sự đó, về mặt tự nhiên, là thất bại trong việc hiểu Kinh Thánh thật sự nói gì, và bối cảnh (văn mạch) của kinh văn. Có thể tránh sự giải kinh sai trật khi tránh được ba sai lầm lớn trong việc diễn giải, cụ thể như sau:
Đừng đưa ra một ý tưởng mà trước đó không giải kinh một cách phải lẽ.
 
Nói cách khác, đừng ép buộc Kinh Thánh phải nói điều bạn muốn Kinh Thánh nói. Đừng bắt chước một vị diễn giả giảng rằng phụ nữ không nên buộc/cài tóc lên đỉnh đầu. Câu văn của ông ấy là “top knot come down” (Ma-thi-ơ 24:17). (Chú thích của Đạt: vị diễn giả đã nhầm lẫn giữa hai chữ đồng âm khác nghĩa là “knot” và “not”). Rõ ràng, đây không phải là điều phân đoạn ấy dạy dỗ!
Một cách thức chết người nữa là giống như một mục sư nói rằng, Tôi đã có bài giảng rồi, bây giờ chỉ tìm câu Kinh Thánh cho bài giảng ấy mà thôi. Ông ấy bắt đầu bằng những điều đã in trí, rồi sau đó tìm một số câu Kinh Thánh để hỗ trợ cho ý của ông – đó là trò cái đuôi vẫy con chó hướng dẫn cái đầu của nó. Bài giảng Kinh Thánh thật sự thì không lèo lái bản văn, mà là bị lèo lái bởi bản văn. Tôi biết rằng khi cố gắng sản xuất một bài giảng, tôi sẽ vội vàng áp đặt Kinh Thánh cho phù hợp với ý tưởng của tôi. Nhưng khi tôi cố gắng hiểu sâu hiểu rõ một đoạn văn, thì bài giảng sẽ tuôn chảy ra từ sự hiểu đó.
Sử dụng Lời Chúa để minh họa cho ý tưởng cá nhân thật sự là đang hạ thấp thẩm quyền Kinh Thánh. Hãy bắt đầu bằng bản văn, tìm ý nghĩa thật sự của bản văn ấy, và hãy tránh đường để Kinh Thánh tự lên tiếng.
Tránh việc giải kinh nông cạn hời hợt.
 
Thứ nhì, khi học Kinh Thánh, hãy cẩn thận, chớ mà áp dụng câu thần chú rằng “Đối với tôi, câu này có nghĩa là….” Hoặc, “Câu này có ý nghĩa gì đối với anh/chị?” Thay vào đó, hãy học biết câu ấy thực sự nói gì.
Không may là, nhiều buổi học Kinh Thánh chỉ là sự hùn hạp của sự thiếu hiểu biết – nhiều người ngồi đó và chia sẻ những gì họ không biết về câu Kinh Thánh. Tôi hết sức ủng hộ các buổi học Kinh Thánh, nhưng ai đó phải nghiên cứu trước phần kinh văn ấy thật sự có ý nghĩa thế nào, rồi hướng dẫn người khác cùng hiểu, rồi sau đó mới thảo luận phần áp dụng. Phao-lô dạy Ti-mô-thê phải nhọc công mới có thể giảng dạy Lời Chúa (II Tim 2:15).
Đừng thuộc linh hóa
 
Thứ ba, đừng thuộc linh hóa những ý nghĩa rõ ràng và trực tiếp của một câu Kinh Thánh. Bài giảng đầu tiên của tôi thật là một bài kinh khủng. Phần kinh văn của tôi là, “Thiên sứ của Chúa ở trên trời xuống, đến lăn hòn đá.”(Ma-thi-ơ 28:2). Bài giảng của tôi là “Lăn đi những hòn đá trong đời bạn.” Tôi giải thích về hòn đá nghi ngờ, hòn đá sợ hãi, hòn đá giận dữ. Nhưng những điều đó không phải là điều câu ấy nói. Câu ấy đang nói về một hòn đá thực, hòn đá theo nghĩa đen. Tôi đã khiến hòn đá ấy trở thành một biểu tượng dụ ngôn mà bất chấp nghĩa rõ ràng của kinh văn. Trong một dịp khác, tôi có nghe một bài giảng rằng “Họ quăng bốn cái neo xuống, và ước ao đến sáng” (Công 27:29). Diễn giả giải thích rằng đó là cái neo hy vọng, cái neo đức tin, và cứ như thế … Trong thực tế, những cái neo trong Công vụ đoạn 27 là những neo thật bằng kim loại, chẳng phải là loại neo nào khác.
Tôi gọi cách giảng đó là “bịt mắt bắt dê,” vì bạn không cần Kinh Thánh cho những bài giảng như thế. Ai đó sẽ đứng lên và giảng rằng, có người bị mất một số chiên – khắp thế giới mọi người đang lạc mất. Nhưng rồi diễn giả ấy chẳng nói sẽ phải tìm số chiên ấy ở đâu. Cứ kệ chúng nó, rồi cuối cùng chúng cũng về chuồng thôi mà. Sau đó vị diễn giả nhăn nhó mặt mày mà kể một câu chuyện về những tội nhân vui mừng trở về nhà. Những bài giảng như thế rất dễ, và nhiều người làm theo cách đó đối với Cựu Ước. Đừng thuộc linh hóa Kinh Thánh; hãy nghiên cứu để hiểu được ý nghĩa đúng của bản văn.
Ngữ cảnh ( context) là chìa khóa then chốt.
 
Khi tránh ba sai lầm này – dùng bản văn để hỗ trợ cho ý tưởng đã in trí từ trước, sự giải kinh hời hợt nông cạn, và sáng tạo những ẩn dụ thuộc linh từ những phân đoạn đã rõ nghĩa – sẽ tạo một môi trường an toàn để học Kinh Thánh. Nhưng tránh những sai lầm kể trên mới chỉ là một vế của phương trình giải kinh. Vẫn còn những nguyên tắc khác cần phải học về sự giải kinh phải lẽ.
Đa phần những thách thức trong việc giải kinh có thể giải quyết được qua việc nghiên cứu kinh văn trong ngữ cảnh rộng lớ của nó.( its wide context).  “Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa của sự loạn lạc” (I Cô 14:33). Và Ngài không khó khăn gì để giải thích về chính Ngài. Nan đề thường là ở phía chúng ta – hoặc là chối bỏ những gì Kinh Thánh nói, sự khác biệt văn hóa của chúng ta so với bối cảnh nguyên thủy của kinh văn,( the text’s original setting), không chịu vâng phục, thiếu sự hiểu biết rộng về kiến thức Kinh Thánh. Dù là trường hợp nào đi nữa, những kỹ năng giải kinh là có thể học được và ứng dụng được. Và trong những ngày tới tôi sẽ giải thích thêm.
 MS nguyễn Đức Na dịch .
( Có tham khảo bản tạm dịch của MS Lê minh Đạt)
 Quý vị có thể tham khảo bản gốc bằng tiếng Anh ở link bên dưới.

http://www.gty.org/blog/B141030

John MacArthur (trích từ Phương pháp học Kinh Thánh)

Post Navigation