Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “DƯỠNG LINH”

BỨC THƯ CỦA ALBERT EINSTEIN GỬI CON GÁI LIESERL

letter.650.366.s

Tình yêu là đề tài muôn thuở. Cũng nhận diện sức mạnh của tình yêu, một nhà tâm lý học viết rằng ” it is love that makes the earth revolve round without it the rat- race goes to the doomsday.”( câu này được viết ở thể nhấn mạnh và có ý như sau: Chính tình yêu làm cho trái đất xoay vòng, không có nó cuộc đua nhân thế sẽ đến ngày diệt vong).Nhà vật lý Einstein nổi tiếng trên thế giới đã nói về “sức mạnh,lực đẩy, lực hấp dẫn” của tình yêu là vô tận mà khoa học chưa khám ra, Nhưng Einstein đã khám phá ra và có cho cô  con gái yêu quý của mình biết về tình yêu đó.

Mời quý vị đọc bức thư của Albert Einstein say đây:
 -BBT-

Vào cuối những năm 1980, Lieserl – con gái của vị thiên tài nổi tiếng Einstein đã trao tặng 1.400 bức thư của ông cho trường đại học Hebrew, với yêu cầu duy nhất là không tiết lộ nội dung của những bức thư này trong vòng 2 thập kỷ sau khi ông qua đời. Đây là một trong số những bức thư đó- bức thư dành cho chính Lieserl Einstein.

“Khi cha đưa ra Thuyết tương đối, rất ít người có thể hiểu được. Tương tự như vậy, điều mà cha sắp tiết lộ với nhân loại bây giờ đây rồi cũng sẽ vấp phải những hiểu lầm và thành kiến của mọi người.
Cha mong con giữ kín những bức thư này của cha hàng năm, thậm chí hàng thập kỷ nếu cần thiết, cho tới khi nào xã hội đủ tiến bộ để có thể chấp nhận những điều mà cha sẽ giải thích dưới đây.
Có một loại Lực vô cùng mạnh mẽ, mà cho tới nay khoa học cũng không thể tìm ra lời giải đáp chính xác dành cho nó. Lực này bao gồm và chi phối tất cả những lực khác. Nó thậm chí còn đứng sau bất kỳ hiện tượng nào được vận hành bởi vũ trụ mà chúng ta vẫn chưa thể lí giải. Đó chính là TÌNH YÊU.
Khi những nhà khoa học tìm kiếm một học thuyết chung cho vũ trụ, họ đã bỏ sót Lực vô hình nhưng mạnh mẽ nhất này.
Tình yêu là Ánh sáng chiếu rọi những người biết trao và nhận nó.
Tình yêu là lực hấp dẫn, bởi nó khiến người ta có thể bị cuốn hút bởi một ai đó.
Tình yêu cũng chính là sức mạnh, bởi nó sinh sôi, nảy nở và giúp con người không bị vùi dập bởi sự ích kỷ mù quáng.
Tình yêu hé lộ và gợi mở.
Vì tình yêu chúng ta sẵn sàng sống, và hy sinh.
Tính yêu chính là Thượng đế, và Thượng đế cũng chính là Tình yêu.
Thứ lực này giải thích cho tất cả mọi điều và mang ý nghĩa đến cho cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta đã bỏ qua nó quá lâu. Có lẽ do tồn tại một nỗi sợ hãi rằng: đây là loại năng lượng duy nhất trong vũ trụ mà con người không thể học cách điều khiến bất kỳ lúc nào.
Để có một hình ảnh tượng trưng cho tình yêu, cha đã thực hiện một sự thay thế đơn giản trong phương trình nổi tiếng nhất của mình. Thay vì sử dụng công thức E = mc2, ta chấp nhận rằng, năng lượng hàn gắn thế giới có thể đạt được bằng tình yêu được sản sinh với tốc độ ảnh sáng bình phương, thì chúng ta hoàn toàn có thể đi đến kết luận: Tình yêu chính là một lực mạnh vô song, bởi nó không hề có bất kỳ giới hạn nào.
Sau những sai lầm của nhân loại trong việc sử dụng và điều khiển những nguồn lực trong vũ trụ dẫn tới phản tác dụng, đã đến lúc chúng ta phải nuôi dưỡng mình bằng một loại năng lượng khác…
Nếu loại người muốn tồn tại, nếu ta muốn tìm ý nghĩa của sự sống, nếu ta muốn bảo vệ thế giới và tất cả những loài hữu tình khác, Tình yêu chính là câu trả lời đầu tiên và duy nhất.
Có thể chúng ta chưa sẵn sàng để chế tạo một quả bom tình yêu, một thiết bị đủ mạnh để hoàn toàn phá huỷ sự ghét bỏ, ích kỷ và tham lam đang tàn phá hành tinh này. Nhưng mỗi cả nhân vẫn luôn mang trong mình một chiếc máy phát tình yêu vô cùng mạnh mẽ và luôn sẵn sàng để được giải phóng.
Lieserl con yêu, khi chúng ta học cách cho và nhận nguồn năng lượng vũ trụ này, chúng ta phải thừa nhận rằng tình yêu có thể chinh phục tất cả, vượt qua bất kỳ chướng ngại nào, bởi tình yêu chính là tinh tuý của sự sống.
Cha vô cùng ân hận vì đã không thể nói lên những điều trong trái tim mình, nơi mà từng nhịp đập trong cả cuộc đời này đều dành cho con. Có lẽ đã quá trễ để nói lời xin lỗi, nhưng thời gian cũng chỉ là sự tương đối, cha vẫn cần phải nói với con rằng Cha yêu Con, và nhờ có con mà cha mới có thể đi đến câu trả lời cuối cùng!”
Cha của con,
Albert Einstein

 

 

LỢI DƠ BẨN VÀ HẬU QUẢ

I Peter 5:2 ” Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh em; làm việc đó chẳng phải bởi ép tình, bèn là bởi vui lòng, chẳng phải vì lợi dơ bẩn, bèn là hết lòng mà làm.”
“Be shepherds of God’s flock that is under your care, watching over them – not because you must, but because you are willing , as God wants you to be; not pursuing dishonest gain, but eager to serve “(NIV).

“Lợi dơ bẩn” ( dishonest gain)
Câu kinh thánh này khuyên bảo người chăn bầy của Đức Chúa Trời; người hầu việc Chúa chẳng phải vì lợi dơ bẩn.
Bất cứ nguồn lợi nào bằng tiền bạc hay vật chất mà không lương thiện, không ngay thẳng không theo tiêu chuẩn của thánh kinh đều là “dơ bẩn”  cả.
Tiền bạc và vật chất là những vật thể trung tính ( neuter) nhưng chiếm đoạt hay sở hữu nó một cách bất lương ( dishonest )  thì tiền bạc hay vật thể đó trở thành “dơ bẩn”

Trường hợp Giu-đa bán Chúa để lấy 30 miếng bạc, số bạc đó trở thành bạc dơ bẩn mà nhà thờ không nhận lại; Giu đa đem số bạc đó ném vào nhà thờ. Nhà thờ không dám cất bạc đó vào kho thánh nên họ bàn nhau dùng nó để mua ” ruộng huyết”.
Hậu quả là Giu đa đi treo cổ tự vận.
( Matthew 27: 3-8.(NIV) ” When Judas, who had betrayed him, saw that Jesus was condemned, he was seized with remorse and returned the thirty pieces of silver to the chief priests and the elders. ” I have sinned,” he said ” for I have betrayed innocent blood.”
“What is that to us?” They replied.” That is your responsibility.” So Judas threw the money into the temple and left. Then he went away and hanged himself.
The chief priests picked up the coins and said. “It is against the law to put this into the treasury, since it is blood money.” So they decided to use the money to buy the potter’s field as a burial place for foreigners. That is why it has been called the Field of Blood to this day.”

Vườn nho của Na-bốt trở thành của  “dơ bẩn” khi hoàng hậu Giê-sa-Bên mưu toan chiếm đoạt cho chồng mình bằng huyết vô tội  của chủ vườn  và hậu quả gian ác đó là thây của hoàng hậu đã bị chó ăn tươi nuốt sống chỉ còn lại cái sọ, chân và tay tại thành lũy Ghit-rê-ên.
( I King 21:23 ) ” Dogs will devour Jezebel by the wall of Jezreel”.
” But when they went out to bury her, they found nothing except her skull, her feet and her hands” ( II King 9:35)

Huyết của vua Ahab bị chó liếm tại nơi mà chó đã liếm huyết của Na-bốt xảy ra y như lời tiên tri của Êli.
” In the place where dogs licked up Naboth’s blood, dogs will lick up your  blood – yes, your blood.” ( I King 22:19b; II King  22: 37-38)

Thời nay tiền trong sạch của những người yêu mến Chúa dâng hiến để làm công tác từ thiện, để xây dựng nhà nguyện cho con dân Chúa có chỗ thờ phượng Ngài, để truyền giảng cứu vớt tội nhân, lập nên hội thánh để mở mang nước Ngài thì có người nhận nó lười biếng, run sợ trước bạo quyền hoặc là vì lòng tham lam  nên đã biến số tiền trong sạch đó thành ra dơ bẩn bằng cách ăn chận để mua đất, mua nhà cho riêng mình và đi mua các hội thánh có sẳn để báo cáo khiến cho một lớp quản nhiệm chuyên môn đi tìm các ” đầu nậu ” để bán hội thánh không biết bao nhiêu lần; thậm chí chiên bị dắt đi bán dạt móng, trơ xương,  đói khác thuộc linh chết gần hết chỉ còn trên giấy tờ ( danh sách tín đồ) mà vẫn có người mua. Tại sao? Vì có hoá đơn thanh toán kiếm được “lợi dơ bẩn” từ số tiền trong sạch đó.

Thật đau lòng nói lên sự thật ” lợi dơ bẩn ” này.

Dù là vô tình hay cố ý khiến cho tiền trong sạch trở nên tiền của ” lợi dơ bẩn” với bất cứ lý do nào đều có tội trước mặt Chúa và sẽ có một hậu quả nhản tiền kèm theo.

Đức Chúa Trời không chịu khinh dễ đâu, vì ai gieo giống chi thì gặt giống nấy.
” God can not be mocked. A man reaps what he sows” ( Galatians 6:7)

Pastor JosephNa
(Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Câu- VN)

Tự Huỷ Hoại Đặc Ân (To Destroy Favors By Oneself)

“Sam-xôn được sinh ra  do một người phụ nữ son sẻ không thể sinh con, theo một  đặc ân để làm quan xét cho dân sự của Đức Chúa Trời. “  (Các Quan Xét 13-16)

“A certain man of Zorah named Manoah, from the clan of Danites, had a wife who was childless, unable to give birth” ( Các Quan Xét 13: 2) .

“Thiên sứ của Đúc Giê Hô Va hiện đến cùng người đàn bà ấy mà rằng: Kìa, ngươi son sẻ không có con; nhưng ngươi sẽ thọ thai và sanh một con trai.” ( Judges 13:3).
Đây là một đăc ân ( favours/ favors) như đặc ân mà Đức Chúa Trời đã ban cho nữ đồng trinh Ma-ri cưu mang Cứu Chúa để thực hiện chương trình cưu chuộc của Ngài ( xin xem bài Ân Điển, Ân Tứ và Ân Huệ trong trang web này) . “Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì ngươi được ơn trước mặt Đức Chúa Trời.” ( Lu 1: 30).
“Do not be afraid, Mary; you have found favor with God.” ( NIV).
Mẹ của Sam-sôn vâng giử lời dặn của thiên sứ ” Vậy, từ bây giờ hãy cẩn thận, chớ uống rượu hay là vật chi say, và cũng đừng ăn vật gì chẳng sạch; dao cạo sẽ không đưa qua đầu nó; vì đứa trẻ từ trong lòng mẹ sẽ làm người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời; về sau nó sẽ giải cứu Y-so-ra-ên khỏi tay dân Phi-li-tin”

” Now see to it that you drink no wine or other fermented drink and that you do not eat anything unclean. 

You will become pregnant and have a son whose head is never to be touched by a razor because the boy is to be a nazirite, dedicated to God from the womb. He will take the lead in delivering Israel from the hands of the Philistines” ( Judges 13:4-5)

Sam-sôn được sinh ra và lớn lên, được Đức Chúa trời sử dụng theo lời hứa của Ngài cho đến khi Sam-sôn tự huỷ phá đặc ân mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ông.

Sam-sôn đi xuống Thim-na thấy một người nữ trong vòng con gái Phi-li-tin và trở về đòi cha mẹ đi hỏi cưới cho chàng làm vợ. Cha mẹ chàng không đồng ý và nhắc nhở chàng rằng  dân Phi-li-tin là dân không chịu cắt bì, là kẻ thù của dân sự Chúa. Nhưng Sam-sôn nhất định đòi cưới vì ” nó đẹp mắt con” “Get her for me. She is  the right one for me.” (Judges 14:3b).
Với người vợ vừa lòng này, Sam-sôn đã ngã quỵ trước lời ngọt ngào trong nước mắt và gieo tấm thân ngà ngọc nàng trên thân thể ông : ” Anh ghét em! anh thực sự không yêu em : anh đã ra câu đố cho dân sự em mà không không có câu trả lời cho em!”  ( Then Samson’s wife threw herself on him, sobbing, ” You hate me! you don’t really love me. You ‘ve given my people a riddle, but you have’nt told me the answer.” (Judges 14:16). Ông cãm thấy thua mưu và nổi giận phừng phừng, bỏ về quê mình!
Vợ ông được đem gả cho một trong số người đã kết bạn với ông.
Thời gian sau, trở lại thăm vợ, thì vợ không còn. Ông trả thù dân Phi-li-tin, ông bị truy đuổi, phải trốn trong hang đá Ê-tam. Chúa vẫn thương xót va tha thứ cho ông,  những dây cột 2 cánh tay ông trở thành như chỉ gai bị lửa đốt, tàn rớt khỏi tay người. ” The ropes on his arms became like charred flax, and the bindings dropped from his hands.” (Judges 15:14c).Samsom sắp chết khát và khẩn nguyện, Chúa đã nghe và đã mở nước từ bộng nước tại Lê-chi cho ông uống. ( Then God opened up the hollow place in Lehi, and water came out of it.”( Judges 15:19a).

Chúa giải cứu Samson , một ngày kia, ông xuống Gaza, thấy một kỵ nữ, Samson lại vào nhà và ăn nằm với người. Dân Phi-Phi-li-tin hay tin và đã bao vây thành và chờ sáng mai sẽ giết người.” Samson is here! So they surrounded the place and lay in wait for him all night at the city gate. They made no move during the night, saying, ” At dawn we’ll kill him” (Judges 16:2). Nhưng sức lực bởi đặc ân vẫn còn trong Samson. Nửa đêm, ông thức giấc dậy, nắm 2 cánh cửa thành và hai cây trụ, nhổ nó lên luôn với then cài, vát trên vai và lên đỉnh đồi đối ngang Hếp rôn.
Đây là lần thứ hai Samson vẫn để cho tư dục điều khiển mình. Hết lấy vợ thờ thần tượng, ( lần thứ nhất)  tức là kết hợp đền thờ của Đức Chúa Trời với hình tượng tà thần. Đấng Christ và Bê-li-an nào có hoà hiệp chi, hay kẻ tin có phần gì với kẻ chẳng tin? Có thể nào hiệp đền thờ Đức Chúa Trời lại với hình tượng tà thần. “What harmony is there between Christ and Belial? Or What does a believer have in common with an unbeliever? What agreement is there between the temple of God and idols? For we are the temple of the living God.”( 2 Cor 6:15-16a)

Lần thứ nhì thì Samson kết hợp chi thể của Đấng Christ với điếm đỉ. Ông là người biệt riêng cho Đức Chúa Trời, hơn ai hết phải biết lẻ đạo mầu nhiệm ” cả hai trở nên một thịt” ” Do you not know that your bodies are members of Christ himself? Shall I then take the member of Christ and united them with a prostitute? Never! Do you not know that he who united himself with a prostitute is one with her in body? For it is said, “the two will become one flesh” ( 1 Cor 6:15-16)
Cả 2 vợ chồng đều có thân vị riêng, nhưng lại là MỘT THỊT.
Thật là thâm thuý với câu ca dao Việt nam :” Vợ chồng tuy 2 mà 1, tuy 1 mà 2.”

Thế rồi sau đó ít lâu, Samson lại phải lòng vì tiếng sét ái tình với một người nữ Phi-li-tin tên là Da-li-La.  “ ” Some time later, he fell in love with a woman in the Valley of Sorek whose name  was Dellilah.” (Judges 16:4)
Người nữ này cũng tìm mọi cách cám dỗ Samson để lấy một ngàn một trăm  nén   bạc.
” The rulers of the Philitines went to her and said, ” See if you can lure him into showing you the secret of his great strength and how we can overpower him so we may tie him up and subdue him. Each one of us will give you eleven hundred shekels of silver.” ( Judges 16:5).
thật là ngu dại và mù quán trước lời yêu cầu của người đẹp, nàng nói rõ ý đồ là làm cách nào trói anh lại mà anh không thể cựa quậy, anh không thể bức đức đến 3 lần ” How you can be tied up and subdued.”
Ba lần lừa phỉnh người đẹp, bây giờ người đẹp ra đòn tình cãm, không còn trắng trợn như 3 lần trước. Làm sao anh có thể nói là anh yêu em, khi anh không tin tưởng ở em? anh đã gạt em 3 lần rồi và không nói cho em biết bởi đâu anh có sức mạnh phi thường.
“Then she said to him, how can you say” I love you”, when you won’t confide in me? This is the third time you have made a fool of me and haven’t told me the secret of your great strength.” ( Judges 16:15)
cuối cùng chàng trai, hay nói một cách chính xác là thầy quan xét hay là thẩm phán,  ham sắc cũng đã thổ lộ bí mật của mình.
” No razor has ever been used on my head” he said, ” because I have been a Nazirite dedicated to God from my mother’s womb. If my head were shaved, my strength would leave me, and I would become as week as any other man”.( Jusges 16:17)
Biết chắc được bí mật của lòng chàng, nàng bèn đặt chàng vào lòng nàng và ru chàng ngủ, nàng gọi một người cắt bảy mé tóc trên đầu chàng.Như vậy nàng khởi làm khổ người, sức mạnh đã  lìa khỏi chàng!
người đã bị quân thù móc mắt và bắt xay cối trong ngục.
“After putting him to sleep in her lap, she called for someone to shave off the seven braids of his hair and so began to subdue him. And his strength left him… Then the Philitines seized him, gouged out his eyes and took him down to Gaza…., they set him to grinding grain in the prison.” ( Judges 16:19-21)

“Sự bất quá tam” người đời thường nói. Quan xét Samson phạm tội lần thứ ba và đã không qua khỏi, mặc dù ông đã cố tình lừa gạt 3 lần! Samson đã tự hủy phá đặc ân mà Chúa đã dành cho Ông.
Ta có thể đặt một câu hỏi tại sao một người đã được biêt riêng cho Đức Chúa Trời ” Nazirite” làm quan xét trong thời gian khá dài, 20 năm mà phạm tội đến 3 lần cuối cùng phải chết thê thảm bên xát quân thù.?
Quý vị có cho rằng Samson chủ quan? thiếu tương giao với Đấng mình đang phục vụ? Hay là hầu viêc Chúa nhưng không tỉnh thức đã để cho uế linh ( impure spirit ) mà kinh thánh còn gọi là ma quỷ ( demon) trong trường hợp này là linh dâm dục ( adulterous spirit) chiếm đoạt tâm linh của Samson và điều khiển mọi hành động theo  ” ham mê của mắt” như kinh thánh miêu tả  ” For everything in the world- the lust of the flesh, the lust of the eyes, and the pride of life- comes not from the Father but from the world” ( 1 John 2:16 )?
Quý vị có nghỉ rằng Sanson cũng giống như Giu đa đã vì ham mê tiền bạc mà đã mở cửa lòng cho Ma-môn  ( money spirit) nhập vào lòng mình và đã điều khiển Giu-đa bán Chúa? Đã tự huỷ hoại đặc ân làm sứ đồ mà Chúa đã kêu gọi Ông?
Mong rằng đây là bài học quý giá cho những  người đang hầu việc Chúa, đặc biệt là cho những người đang hưởng ân huệ Của Ngài.
Amen.

Mục Sư Nguyễn Đức Na
(Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu- Việt nam.)

CHIM, HOA VÀ NGƯỜI

Ma-thi-ơ 6:25-34

25 Vậy nên ta phán cùng các ngươi rằng: đừng vì sự sống mình mà lo đồ ăn uống; cũng đừng vì thân thể mình mà lo đồ mặc. Sự sống há chẳng quí trọng hơn đồ ăn sao, thân thể há chẳng quí trọng hơn quần áo sao? 

26 Hãy xem loài chim trời: chẳng có gieo, gặt cũng chẳng có thâu trữ vào kho tàng, mà Cha các ngươi trên trời nuôi nó. Các ngươi há chẳng phải là quí trọng hơn loài chim sao? 27 Vả lại, có ai trong vòng các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình được dài thêm một khắc không? 

28 Còn về phần quần áo, các ngươi lại lo lắng mà làm chi? Hãy ngắm xem những hoa huệ ngoài đồng mọc lên thể nào: chẳng làm khó nhọc, cũng không kéo chỉ; 29 nhưng ta phán cùng các ngươi, dẫu vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu, cũng không được mặc áo tốt như một hoa nào trong giống đó. 30 Hỡi kẻ ít đức tin, loài cỏ ngoài đồng, là giống nay còn sống, mai bỏ vào lò, mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp thể ấy thay, huống chi là các ngươi! 

31 Ấy vậy, các ngươi chớ lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? uống gì? mặc gì? 32 Vì mọi điều đó, các dân ngoại vẫn thường tìm, và Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi. 33 Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa. 34 Vậy, chớ lo lắng chi về ngày mai; vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai. Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày ấy.

 

  1. Tại sao phân đoạn nầy bắt đầu với chữ “Vậy nên?”

  2. Trong câu 25, Chúa đối chiếu những điều gì với nhau? Hàm ý gì?

  3. So sánh với loài chim (c. 26), tại sao chúng ta không nên lo lắng?

  4. Câu 27 dạy chúng ta điều gì?

  5. So sánh với hoa cỏ (c. 28-30), tại sao chúng ta không nên lo lắng?

  6. Theo câu 31-32, tại sao chúng ta không nên lo lắng?

  7. Tìm kiếm “nước Đức Chúa Trời” là tìm kiếm điều gì? Tìm kiếm “sự công bình của Ngài” là tìm kiếm điều gì?

  8. Chúa Giê-xu cho thấy chân lý gì trong câu 34?

 

Phân đoạn nầy bắt đầu với hai chữ “vậy nên” hàm ý phần nầy tiếp tục với ý của các câu trước đó (19-24). Các câu nầy cho thấy có một lựa chọn hay quyết định giữa hai điều: của cải trên trời hay của cải dưới đất, mắt sáng hay mắt xấu và thờ Chúa hay thờ ma-môn. Nếu quyết định sống theo tiêu chuẩn của Chúa, chúng ta sẽ không có gì phải lo lắng khi sống trên trần gian nầy. Hai nhu cầu lớn nhất của con người là ăn và mặc. Dù ở đâu, làm gì, thuộc sắc dân nào, ăn và mặc là hai điều không thể thiếu trong đời sống. Tuy nhiên, ăn và mặc thật ra chỉ là phương tiện. Hai điều quan trọng hơn thức ăn và đồ mặc là sự sống và thân thể. Chúa Giê-xu đối chiếu giữa sự sống với thức ăn và thân thể với đồ mặc (c. 25) và cho thấy sự sống và thân thể là hai điều quan trọng hơn. Nói khác đi, nếu Chúa không ban cho chúng ta thân thể và sự sống thì thức ăn và đồ mặc không có ý nghĩa gì. Ngược lại, nếu Chúa đã ban cho chúng ta sự sống và thân thể, chắc chắn Chúa sẽ ban cho phương tiện để nuôi sự sống và che đậy, bảo vệ thân thể. Sự sống và thân thể quý trọng hơn thức ăn và đồ mặc ở điểm đó.

Gieo, gặt, thâu trữ vào kho tàng (c. 26) là tiến trình trong ngành canh nông để có thực phẩm. Chim chóc không cần tiến trình đó mà vẫn được nuôi sống. Chúa không bảo chúng ta đừng làm việc để sống nhưng nhắc chúng ta một chân lý quan trọng, đó là Chúa nuôi sống mỗi loài bằng những cách khác nhau. Chúa không gọi Đức Chúa Trời là cha của loài chim nhưng là Cha các ngươi cho thấy con người là mối quan tâm chính của Đức Chúa Trời. Chim là loài phụ thuộc mà còn được Đức Chúa Cha nuôi sống huống chi là loài người quí trọng hơn loài chim!

Đời mình và một khắc trong câu 27 khó đi chung với nhau vì “một khắc” (pechys) là đơn vị đo lường chiều dài (khoảng 45 cm) không thể dùng để đo đời sống bằng thời gian. Đây có thể là lối nói ví von, so sánh cuộc đời như một chiều dài đo được (Thi thiên 39:5a), trong nghĩa đó, lo lắng là để đời dài thêm một sải. Chữ “đời” (helikia) cũng có nghĩa là “vóc dáng.” Lu-ca 19:3 nói Xa-chê là người thấp (dịch từng chữ là “vóc dáng thấp”). Trong nghĩa đó, câu nầy nghĩa là “làm cho mình cao thêm một sải.” Dù trong nghĩa nào, Chúa cho thấy đây là việc bất khả thi, không thể thực hiện được. Lo lắng không thể giúp chúng ta sống thêm được một vài giây phút, lo lắng cũng không giúp cao thêm được vài phân. Lo lắng là vô ích, không đem lại ích lợi gì cả!

So sánh với hoa cỏ, Chúa cho thấy điều tương tự: chẳng làm khó nhọc, cũng không kéo chỉ. Hoa huệ ngoài đồng là chỉ chung các loài hoa dại, không nhất thiết là thứ hoa nào. Hai điều Chúa nói về  hoa là: (1) Vẻ đẹp: dẫu vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu, cũng không được mặc áo tốt như một hoa nào trong giống đó. Và: (2) Sự mong manh: nay còn sống, mai bỏ vào lò. Hoa đồng nội rất mong manh nhưng lại rất đẹp, đó là điều Chúa bảo chúng ta nhìn và suy nghĩ (Hãy ngắm xem). Hoa cỏ chóng phai tàn mà còn được mặc đẹp, nhìn hoa cỏ, ta không cần phải lo lắng về đồ mặc của mình.

Hai câu 31-2 cho thấy hai lý do chúng ta không nên lo lắng: (1) Lo lắng là của những người ngoài Chúa, không có Chúa (các dân ngoại). (2) Chúng ta có người Cha biết mọi nhu cầu của mình.

Chữ nhưng ở đầu câu 33 là để đối chiếu với tất cả những lo lắng vô ích và không cần thiết ở trên. Trước hết cho thấy thứ tự ưu tiên. Điều quan trọng không phải là lo lắng nhưng là tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài. Nước Đức Chúa Trời hay vương quốc Đức Chúa Trời nói đến quyền cai trị của Đức Chúa Trời, bắt đầu với Chúa Giê-xu và sẽ đạt đến cao điểm lúc Chúa trở lại làm vua. Tìm kiếm nước Chúa mang ý nghĩa đeo đuổi, tìm kiếm để quyền cai trị của Chúa được thực hiện trong mọi lãnh vực của đời sống, tương tự như ba lời cầu xin đầu tiên trong bài cầu nguyện Chúa dạy: Danh Cha được thánh, nước Cha được đến, ý Cha được nên, nghĩa là thuận phục ý Chúa, làm theo ý Chúa, Chúa thật sự là vua của đời sống. Sự công bình hay công chính của Chúa nói đến tiêu chuẩn của Ngài trong mọi lãnh vực. Sống theo tiêu chuẩn của Chúa không như tiêu chuẩn của người Pha-ri-si (5:20). Sống thế nào để quyền cai trị và đức công chính của Chúa được thể hiện mọi nơi, mọi lúc, đó chính là tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài. 

Mọi điều ấy (c. 33b) nói đến nhu cầu ăn mặc và những điều các dân ngoại vẫn thường tìm. Tương tự như ý của Thi thiên 23:6a, khi đeo đuổi tìm kiếm những giá trị tâm linh trước, những nhu cầu khác của đời sống sẽ tự nhiên đi theo chúng ta, không cần phải lo lắng. Chẳng những nhu cầu của chúng ta được đáp ứng nhưng còn nhiều hơn nữa: cho THÊM các ngươi mọi điều ấy nữa!

Câu 34 cho thấy những khó nhọc trong hiện tại là đủ rồi, lo lắng là chúng ta thêm nhưng khó nhọc không cần thiết cho ngày hôm nay. Nói khác đi, lo lắng là điều không cần thiết như trong lời cầu nguyện Chúa dạy: Xin cho chúng tôi HÔM NAY đồ ăn ĐỦ NGÀY. “Hôm nay” và “đủ ngày,” đó là tiêu chuẩn của Chúa cho con người. Vượt quá những điều đó sẽ đem đến những khó nhọc không cần thiết cho đời sống.

Nguồn Vietchristian.com

Ý NGHĨA CỦA HỘI THÁNH

Lượt ghi bài giảng của Mục sư Hội trưởng Nguyên Đức Na trong lễ Công nhận HT mới ở Giáo khu Khánh Sơn tỉnh Khánh Hoà vào ngày CN 15/3/2015.

I/Ý NGHĨA CỦA HÔI THÁNH
Hội thánh của Đức Chúa Trời là tập họp những người thánh, tức là những người thực sự ăn năng tội lỗi của chính mình và tin nhận sự tha tội của Chúa Jesus nhờ huyết báu của Ngài trên thập tự giá. Hội thánh Chúa  được mô tả là bầy chiên của Ngài qua lời Chúa ở Công vụ 20:28b

” Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời mà Ngài mua bằng chính huyết mình.”
” Be shepherds of the church of God, which he bought with his own blood. NIV”.
Hội thánh không phải là chi hội của Giáo hội như là chi hội của của một hội nào đó? Không thể giống như chi hội thương phế binh của Hôi  Thương Phế Binh VN chẳng hạn. Và Giáo hội không phải là Hội thánh. Theo Hiến chương của Giáo hội thì giáo hội là một tổ chức do các hội thánh địa phương tạo lập nên để liên kết các hội thánh địa phương và phục vụ các nguyện vọng của hội thánh . Không có hội thánh địa phương thì không có giáo hội.

II/ HÌNH ẢNH CỦA HỘI THáNH.
Hội thánh là thân thể của Đấng Christ. Mỗi một thành viên của hội thánh là một chi của thân (Êph 1:22-23b) ” Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng Christ làm đầu hội thánh .  Hội thánh là thân thể của Đấng Christ,”  

(And God placed all things under his feet and appointed him to be head over everything for the church,which is his body -NIV)

(Rô 12:4-5) :” Vả như trong một thân chung ta có nhiều chi thể, và các chi thể không làm một việc giống nhau, thì cũng vậy, chúng ta là nhiều người mà hiệp một thân trong Đấng Christ và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau.” (Just as each of us has one body with many members, and these members do not all have the same function, so in Christ we who are many form one body, and each member belongs to all the others. NIV)

(Ephe 5:30.): ” Vì chúng ta là chi thể của thân Ngài.” ( for we are members of his body. NIV)
Chúng ta biết thân thể của con người chúng ta là phần hữu hình có thể thấy được.Các chi thể hoạt động trong một con người sống động gồm thể xác và linh hồn.
Mỗi chi thể có nhiệm vụ khác nhau, nhưng tương quan mật thiết và chặc chẻ với nhau và có ảnh hưởng đến toàn thân.Bàn tay mà thiếu ngón tay thì cầm nắm không chắc, bàn chân mà thiếu ngón chân thì đi không vững chắc. Con mắt mà mù thì thân không thấy để hoạt động được. Răng mà đau thì chẳng những không nhai được mà còn làm cho  cả thân đau   đớn. Môi mà hở chẳng những nói không rõ mà còn làm cho khuôn mặt không đẹp. tai mà điết thi không thể thưởng thức được âm nhạc mà còn làm cho thân khó khăn trong giao tiếp trong cuộc sống.
Anh chi em ơi, hãy ý thức điều này, anh chị em là chi của một thân mà hội thánh là thân của Đấng Christ. Có phải anh hay chị hay em là môi của chi trong thân đấng Christ không? Môi này có duyên cho thân Chúa không? có nói ơn cứu rỗi cho người khác có thể nghe rõ không? Bàn chân anh, chị hay em có đủ 10 ngón để cho thân, Hôi thánh Chúa,bước đi hầu việc Ngài một cách vững vàng không?. chúng ta không nên so bì với các chức phận khác . ” vì chúng ta có sự ban cho khác nhau từ theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ, hãy chăm mà dạy dỗ; ai gánh việc khuyên bảo, hãy khuyên bảo; ai bố thí hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai trị, hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót, hãy lấy lòng vui mà làm.” (We have different gifts, according to the grace given us. If a man’s gift is prophesying, let him use it in proportion to hisfaith. If it is serving, let him serve; if it is teaching, let him teach; if it is encouraging, let him encourage; if it is contributing to the needs of others, let him give generously; if it is leadership, let him govern diligently; if it is showing mercy, let him do it cheerfully.  Ro 12: 6-8 NIV)

II/ Ý MUỐN CỦA ĐCT VỚI HỘI THÁNH, THÂN ĐẤNG CHRIST .
Chúa muốn Hội thánh của Ngài là một thân thể trưởng thành không ở trong tình trạng vị thành niên mãi; Khi thành nhơn thì là một thân thể cường tráng, tầm thuốc vóc dạt chứ không phải bệnh hoạn, ốm yếu.
( Êph4:11-14).” Ấy chính Ngài đã ban chi người này làm sứ đồ, kẻ kia làm tiên tri, người khác làm thầy giảng tin lành, kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư, để cho các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng than thể Đấng Christ, cho đến chùng chúng ta thảy đều hiệp một trong đúc tin và trong sự hiểu biết con Đức Chúa Trời, mà nén bậc THÀNH NHƠN, được TẦM THƯỚC  VÓC GIẠC trọn vẹn của Đấng Christ, Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà day động và dời đổi theo chiêu gió của đạo lạt. “ (It was he who gave some to be apostles, some to be prophets,some to be evangelists, and some to be pastors and teachers, to prepare God’s people for works of service, so that the body of Christ may be built up until we all reach unity in the faith and in the knowledge of the Son of Godand become mature, attaining to the whole measure of the fullness of Christ. Then we will no longer be infants, tossed back and forth by the waves,and blown here and there by every wind of teaching and by the cunning and craftiness of men in their deceitful scheming. NIV)
Người mới tiếp nhận Chúa thật lòng, tức thì được tái sinh bởi Đúc Thánh Linh, kinh thánh mô tả người này là ” con đỏ” nghĩa là mới sinh, ( I Cor 3:1-2) phải được bú sửa và chăm sóc đặc biết và dần dần ăn cháo rồi ăn thức ăn cứng. Hội thánh chính là chiếc nôi cho những con đỏ đó. Hội thánh có ước muốn có nhiều con đỏ không? Nếu hội thánh không có con đỏ để chăm sóc, thì hội thánh khỏe, nhưng hội thánh sẽ lụi tàn trong tương lai.
Nhưng nếu Hội thánh mãi mê những chuyện khác mà không chăm sóc ” con đỏ ” đúng mức và không đúng phương pháp  thì con đỏ không trưởng thành nhưng theo năm tháng cũng sẽ “thành Nhơn” nhưng bệnh hoạn , thêm gánh nặng cho hội thánh. Hội thánh có biết phương pháp chăm con nhỏ thuộc linh chưa?
Hãy chăm con đỏ theo phương châm này “Trước hết hãy tìm kiếm nước Đức chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.”( Matt 6:33) (But seek first his kingdom and his righteousness, and all these things will be given to you as well. NIV)
Hội thánh ” tầm thước vóc dạc” là hội thánh bước đi vững vàng thực hiện sứ mạng Chúa giao,  không có những con nhỏ èo uộc hay  những  “thành nhơn” bệnh hoạn.

III/ SỨ MẠNG CHÚA GIAO CHO HÔI THÁNH:
1/ Bày Tỏ Tình Yêu Của Chúa .

” Hãy yêu kẻ lân cận như mình “  ( Mathio 19:19)
Hội Thánh Chúa phải là một cộng đồng đầy  tình yêu thương . Hội thánh Chúa mà không có tình yêu thương thì kinh thánh cho chúng ta biết đó là muối đã mất chất mặn rồi
” Anh em là muối của đất là ánh sáng củ thế gian….?”( Mathio 5:9-14)
Anh chij em hãy nhớ lời Kinh thánh :
” Lòng yêu thương phải cho thành thật, Hãy gớm sự dữ mà mến sự   lành.” ( Rom 12:9. Love must be sincere. Hate what is evil; cling to what is good. NIV).
” Hỡi anh em chớ yêu thương bằng lời nói va lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẻ thật .” ( I Giăng 3:18  _ Dear children,let us not love with words or tongue but with actions and in truth.NIV )
Yêu thương bằng lời nói có thể là lòng yêu thương thật, từ đáy lòng nói ra , nhưng để thỏa mản một nhu cầu tâm lý chứ lòng ích kỷ và hà tiện đủ khả năng giữ lời yêu thương đó ở dạng lời nói. Còn yêu thương bằng lưỡi là lời yêu thương khách sáo mang tính dối trá không thật lòng.Cái lưỡi không xương, nhiều đương lất léo mà! Có biết bao nhiêu cô gái bị lừa gạt vì lời nói yêu thương kiểu    bằng lưởi nầy.
Đừng bao giờ nghĩ vì nghèo nên không thể bày tỏ tình yêu thương.Hãy nhớ người đàn bà hoá ở Sa-rép- ta nuôi tiên tri Êli khi bột trong vò và dầu trong bình đã gần hết, chỉ còn đủ cho hai mẹ con ăn bửa cuối cùng rồi chết, nhưng vì lòng thương người và bởi Đức tin bà đã biến tình thương bằng hành động, thì phép lạ đã xảy ra :” bột chẳng hết trong vò. và dầu không thiếu trong bình, y như lời Đức Giê-hô-va đã cậy miệng Ê-li mà phán ra. ( I Các vua 17:16 ).

2/ Cứu Vớt Tội Nhân.
Mạng lệnh  này được gọi là Đại Mạng Lịnh theo Mac 16:15-16 ” Hãy đi khắp thế gian giảng Tin lành cho mọi người, ai tin và chịu phép báp tem sẽ được rồi, nhung ai chẳng tin sẽ bị đoán phạt.” .(He said to them,“Go into all the world and preach the good news to all creation. Whoever believes and is baptized will be saved, but whoever does not believe will be condemned. NIV)
Một Hội thánh có nhiều thành viên thành Nhơn và tầm thuốc vóc dạt làm chi của thân thể mà Đấng Christ là đầu thì chắc chắn sẽ được Đức Thánh linh hướng dẫn và thực hiện 2 mạng lịnh  này một cách vinh hiển danh Chúa và cứu vớt nhiều tội nhân.
Có thể nói  2 sứ mạng nầy như là đôi chân của thân thể ; nếu một trong 2 mà yếu đi thì sẽ khiến cho thân bước đi khập khểnh.Nếu thiếu hẳn đi một trong hai thì sẽ là một thân què quặt.
Đừng tập trung tiền của, sức lực của hội thánh cho một sứ mạng hoặc là cho 2 sứ mạng mà không hợp lý; chẳng hạng tập trung xây dựng ” thánh đường” cho đồ sộ, nguy nga, tráng lệ  trong khi con dân chúa  đời sống khó khăn, dâng hiến hết khả năng mà sau khi xây dựng xong,  hội thánh còn một món  nợ khổng lồ. Đó là một hình ảnh hội thánh què quặt bước đi giửa thế gian mờ tối nầy.

IV/ Ý NGhĨA TÊN CỦA HỘI THÁNH MỚi.
Tên mới của hội thánh là :
” Hội Thánh Tin Lành Liên Hiêp Ba Cụm Bắc1″ – Có ý nghĩa:
– ” Hội thánh” là một cộng đồng  dân thánh thờ phượng Đúc-Chúa-Trời.

-“Tin Lành” có ý nghĩa là hội thánh của Đức Chúa Trời trong danh Chúa Jesus Christ.( không hệ phái)
– Liên hiệp:  Khải tượng liên-kết thân Đấng Christ, theo Khải tượng của Giáo hội ; chủ động Liên-kết các HT, không phân rẽ ( Uninting chứ không phải united).
-Ba-Cụm-Bắc : Tên địa danh Xã địa  phương . Đây là  Khải tượng cứu tội nhân trong địa bàn được giao phó.
– Số 1 : Hội thánh được thành lập đầu tiên trong địa bàn theo quy định ( xã), nhắc nhở HT về sứ mạng được giao. HT được thành lập kế tiếp sẽ mang số thứ tự tiếp theo.( 2,3,4…)

 

Cãm ơn Chúa vô cùng. Hôm nay chúng ta làm lễ ra mắt và dâng cho Chúa  “Hội Thánh Tin lành Liên Hiệp Ba Cụm Bắc 1.” ở thôn A -Thi Và Chúng ta sẽ làm lễ dâng cho Chúa  ” Hội thánh Tin lành Liên hiệp Ba-Cụm-Bắc 2″ ở thôn Tha-mang. Và ” Hội Thánh Tin Lành Liên Hiệp Ba-Cụm-Bắc 3″ ở thôn Dốc-trầu.

 Hy vọng hội thánh Chúa sẽ hiện diện trong tất cả các thôn của Xã Ba-Cum-Băc này.

Cầu xin Chúa ban ân- tứ ( gifts) dư dật để con dân Chúa  hầu việc Ngài và ân-huệ (favours ) lớn lao để danh Ngài được tỏa rạng nơi đây, hầu nhiều người nhận được ân-điển ( Grace) cứu chuộc qua “Hội thánh Ba-Cụm-Bắc 1.” Của Ngài đã được thành lập tai địa phương này .

A-men.

TTV Hướng Dương

Ý NGHĨA PHỤC SINH

chua-phuc-sinh

I/ Đấng Christ phục sinh.
Chúa Jesus đã phục sinh sau khi bị hành ha, sỉ nhục và chôn trong mộ 3 ngày đêm.
Có một số sứ đồ không tin nên Ngài đã hiện ra cùng họ trong khi đang ăn và quở trách những người không tin những người đã thấy Chúa sống lại.
( Mark 16:14 ” Later Jesus appeared to the Eleven as they were eating; he rebuked them for their lack of faith and their stubborn refusal to believed those who had seen him after he had risen “. (NIV)
I Cô-rinh-tô 15:17:” Nếu Đấng Christ đã chẳng sống lại, thì đức tin anh em cũng vô ích.” ( if Christ has not been raised, your faith is futile NIV).
Chúa phục sinh là trái đầu mùa của những kẻ ngủ ( ” But  Christ has indeed been raised from the dead, the first fruits of those who have fallen asleep” I Cor 15:20   NIV ) .
Sau khi Chúa phục sinh, thân thể Ngài không còn bị ràng buộc vào những quy luật vật lý nữa. Ngài có thể xuất hiện bất cứ chổ nào Ngài muốn, ngay cả trong phòng kín đóng chặc cửa. Thậm chí Ngài có thể ngự trong lòng chúng ta nếu chúng ta mời Ngài.   Cuối cùng Ngài đã bay lên không trung để về trời theo ý muốn của cha Ngài trên trời và ngồi bên hữu Đúc Chúa Trời để cầu thay cho chúng ta.

II/ Đời Sống Phục Sinh.
Ngay sau khi một người ăn năng tội lỗi mình và tin nhận Chúa Jesus là Đức Chúa Trời đã trở thành nhục thể , chịu khổ hình trên thập tự giá đổ huyết ra vì tội lỗi mình, và huyết Ngài có thể rửa sạch mọi tộI ác của mình.
Tức thì Người đó được tha tội và được tái sinh bằng phép báp tem bằng Đúc Thánh Linh. Đây là một phép lạ và bởi quyền năng của Đức Chúa Trời để tội nhân trở thành con cái Ngài ( God’s children).
Nhưng chúng ta nên nhớ rằng người mới được tái sinh là ” con đỏ”, trong nhà Cha, nghĩa là người được tái sinh bởi Đức Thánh linh cần phải được tái tạo nhờ sự phục sinh của Cúu Chúa Jesus . Chính lời Chúa   phán trong II Cr 5: 17 rằng “ai ở trong Đấng Christ là người dựng nên mới, mọi sự cũ đã qua đi, mọi sự đểu trở nên mới” ( If anyone is in Christ, he is a new creation, the old has gone, the new has come!    NIV).

Chúng ta lưu ý là ” dựng nên mới” là một sự tái tạo không phải là vật cũ sơn phết bên ngoài cho mới. Một người tham gia mọi sinh hoạt của hội thánh như dâng tiền , hát thánh ca , đọc Kinh thánh… nhưng chưa được tái sinh thì không phải là new creation mà là người cũ mặt áo mới mà thôi.

Chính Chúa Jesus phán hãy đi khắp thế gian giảng tin lành cho mọi người. Ai tin và chịu phép báp tem, sẽ được rỗi.( “Go into all the world and preach the good news to all creation. Whoever believes and is baptized will be saved.” Mark 16:15a)

“Tin và chịu báp tem”. Khi tin, tức thì phép lạ thứ nhất ” tái sinh” được xảy ra nhưng Chúa muốn ” con đỏ” đó chịu báp tem bằng nước để sự dựng nên mới ( new creation) được tiếp tục hay nói cách khác là một đời sống ở trong Đấng Christ được thánh hoá ” tầm thước vóc dạc” theo ý muốn của Chúa phục sinh.
Chúng ta lấy bất cứ lý do gì để trì hoản làm phép báp tem cho người được tái sanh là trái với mạng linh Chúa. Làm như vậy tức là chúng ta làm gián đoạn hay trì hoản  tiến trình thánh hoá bởi quyền năng của Chúa phục sinh cho một người được tái sinh.
Tái sinh thì xảy ra một lần, còn thánh hoá cuộc sống là một TIẾN TRÌNH.
Thánh hoá bắt đầu ngay khi chúng ta được tái sinh nhưng kéo dài cho đến khi chúng ta gặp Chúa tái lâm.
Giai đoạn từ tái sinh và tiến trình thánh hoá hay làm cho nên thánh ta gọi là “đời sống mới trong Đấng Christ”. Chính Chúa phục sinh mới có thể ở trong ta và ta ở trong Ngài và làm cho đời sống thánh khiết của chúng ta ngày càng trọn vẹn hơn : ” if a man remains in me and I in him, he will bear much fruit; apart from me you can do nothing.” ( John 15:5 ) .
Chúng ta co thể thấy trong hội thánh có những người chưa được tái sinh vì họ gia nhập hội thánh hữu hình vì một lý do nào đó. Nhưng chỉ những người tái sinh mới thực sự là ở trong hội thánh mà được mua bằng chính huyết Ngài, là thân thể của Đấng Christ   mà Chúa Jesus  là đầu.

      Chúa phục sinh là trái đầu mùa của những kẻ ngủ. Chính Chúa phán trong Giăng 11:25 ” ta là sự sống lại và sự sống kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi.còn ai sống và tin ta thì không hề chết ” (Jesus said to her, “I am the resurrection and the life. He who believesin me will live, even though he dies_ NIV).

Ai đã tin nhận Chúa, mặc dù chết rồi cũng sẽ được sống lại khi Chúa tái lâm ; còn những người tin Chúa mà còn đang sống thì khi Chúa tái lâm sẽ được biến hoá và cất lên không trung mà gặp Ngài để được sống vỉnh cửu trong Nước Ngài và không qua sự chết thứ nhất của phần thân xác.

III/ Kết Luận:
Nguyện Chúa phục sinh sống trong chúng ta để chúng ta có một “Đời Sống Mới Trong Đấng Christ” làm vinh hiển danh Ngài và đem nhiều kết quả cho nhà Chúa : nhiều tội nhân được cứu .
Amen.

Mùa Phục sinh 2015

Mục sư Nguyên Đức Na.

HẬU QUẢ CỦA LÒNG THAM TIỀN BẠC

 

Hậu Quả của Lòng Tham Tiền bạc

II Các Vua 5:19b-27

 

“Vậy, người giám mục cần phải không chỗ trách được,… lại đừng ham mê tiền bạc” (1 Ti-mô-thê 3:2, 3).

Câu hỏi suy ngẫm: Động cơ nào khiến ông Ghê-ha-xi tính toán phương cách để có được lễ vật từ ông Na-a-man? Ông đã phạm vào những tội nào khi tìm cách chiếm đoạt lễ vật đó? Hậu quả là gì?

Câu chuyện ông Na-a-man được chữa lành bệnh phong hủi là một câu chuyện đẹp, nhưng tiếp theo sau đó là một chuyện đáng buồn. Khi người đầy tớ của Tiên tri Ê-li-sê là ông Ghê-ha-xi thấy thầy mình cho ông Na-a-man ra về mà không nhận lễ vật thì ông nghĩ ngay một kế hoạch để làm giàu cho mình (câu 20). Ông đã chạy theo ông Na-a-man và nói dối với ông để nhận lễ vật đem về cất giấu trong nhà mình (câu 21-24). Sau đó, ông quay trở về và một lần nữa lại nói dối với thầy (câu 25). Hậu quả là ông phải nhận lãnh bệnh phong hủi của ông Na-a-man (câu 26, 27).

Là một đầy tớ của tiên tri, một người phục vụ Chúa nhưng ông Ghê-ha-xi đã để cho lòng tham tiền bạc chiếm ngự. Chính lòng tham đã khiến ông toan tính trong lòng để tìm cách bắt ông Na-a-man phải tặng quà cho mình. Và tệ hại hơn nữa là trong sự toan tính đó ông đã lấy Danh Chúa làm chơi khi chỉ Đức Giê-hô-va Hằng Sống mà thề! Bởi lòng tham, ông Ghê-ha-xi liên tục nói dối. Ông nói dối với ông Na-a-man là có hai học trò của tiên tri mới đến thăm, cần có quà cho họ. Với chiêu lừa đảo tinh vi này, ông đã nhận được quà cáp hậu hĩ từ ông Na-a-man đem về cất giấu trong nhà mình. Khi quay trở lại với Tiên tri Ê-li-sê, ông lại tiếp tục nói dối với thầy mình cách trắng trợn, mặc dù ông từng biết thầy mình luôn được thần của Đức Giê-hô-va soi sáng. Câu 27 là một câu đáng sợ, ngoài việc ông bị phong hủi trắng như tuyết, Kinh Thánh chon ghi: “Ghê-ha-xi đi ra khỏi Ê-li-sê.” Ông Na-a-man, một Dân Ngoại đã được chữa lành bệnh phong hủi và ra về với tấm lòng thờ phượng, tôn kính Chúa Hằng Hữu; ngược lại, ông Ghê-ha-xi, một người phục vụ Đức Chúa Trời phải ra đi với căn bệnh và chìm sâu vào bóng tối của cuộc đời.

Tiền bạc thu trữ được bằng sự lừa lọc bởi lòng tham không giúp gì cho ông Ghê-ha-xi mà ngược lại, đã làm cho ông đau đớn thân thể, nhục nhã tâm linh, và mất cả cơ hội phục vụ Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phao-lô đã khuyên học trò mình là Mục sư Ti-mô-thê nên dạy người giám mục, hay người phục vụ Chúa nói chung, đừng ham mê tiền bạc. Lời dạy này cũng nhắc nhở và cảnh tỉnh mỗi chúng ta.

Tiền bạc đã tấn công bạn như thế nào? Bạn đã chiến thắng hay thất bại?

Lạy Chúa, xin giúp con sống thỏa lòng với sự ban cho của Chúa để con không rơi vào cạm bẫy của lòng tham mà hủy hoại cuộc đời.

Nguồn Vietchristian.com

BƯỚC ĐI TRONG NĂM MỚI

 nguồn Vietchristian.com        

http://www.vietchristian.com/sermon/result.asp?id=6286

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

TRÌNH DIỄN HAY NGỢI KHEN?

Ngày hôm nay, một số bạn trẻ lầm lẫn giữa ngợi khen (PRAISE) và trình diễn

(Performance). Tôi thích căn phòng được thiết kế trông rất nghệ sĩ nầy.

Untitled

Nếu chúng ta ở trong căn phòng nầy, chắc sẽ có nhiều cảm hứng để sáng tác, đàn, hát…tuy nhiên, căn phòng nghệ sĩ nầy không làm nên sự ngợi khen! Lời Chúa trong Thi Thiên 71:8 nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của sự ngợi khen! Sự ngợi khen không chỉ là hát tôn vinh tại nhà thờ, trong các buổi nhóm, buổi lễ…Sự ngợi khen Chúa không phải là trình diễn, biễu diễn…Chúng ta cần chuẩn bị những điều tốt nhất để dâng lên Chúa trong sự ngợi khen …Nhưng sự ngợi khen thật đến từ nếp sống đạo mỗi ngày! Câu hỏi cho chính tôi: những suy nghĩ, lời nói, hành động của tôi mỗi ngày có tôn vinh Chúa không?

Tôi có bắt đầu một ngày và kết thúc một ngày với sự ngợi khen Chúa không? Sư đồ Phao lô khuyên các tín hữu tại Hội thánh Cô-rinh-tô “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.” (I Cô-rinh-tô 10:31). Nếu bạn sống mỗi ngày như vậy: bạn đang tôn vinh Chúa. Sự tôn vinh Chúa không nhất thiết hay không bị giới hạn trong các giảng đường, các buổi nhóm, các sân khấu hoành tráng, các chương trình lớn…Bạn có nhớ câu chuyện của Phao Lô và Si La bị bắt, nhốt ở trong tù không? Không tòa giảng, không ban nhạc, không âm thanh, không ánh sáng…nhưng qua sự cầu nguyện và NGỢI KHEN của hai ông đã làm nên phép lạ lớn lao! “Lối nửa đêm, Phao-lô và Si-la đương cầu nguyện, hát ngợi khen Đức Chúa Trời; và những tù phạm đều nghe. Thình lình, có cơn động đất rất lớn, đến nỗi nền ngục rúng động; cùng một lúc, các cửa mở ra, xiềng tù phạm thảy đều tháo cả.” (Công Vụ 16: 25-26). Khi chúng ta hiểu được ý nghĩa của chữ ngợi khen, thì sự tôn vinh Chúa của chúng ta ở bất cứ nơi chốn nào, với bất cứ phương tiện nào… cũng sẽ được Chúa nhậm lấy, được Thần Chúa ở cùng, đụng chạm và biến đổi cuộc đời của những người nghe.

Đây là sự khác biệt giữa TRÌNH DIỄN và NGỢI KHEN!

Qua một số chương trình Thánh nhạc & Truyền giảng trong vài năm qua, tôi có dịp tổ chức và tham gia, tôi nhận thấy rất rõ về điều nầy: khi những con người góp phần trong chương trình có nếp sống ngợi khen, biết rõ Đấng mình ngợi khen, biết rõ mục đích là làm sáng danh Chúa không phải vì một con người, tổ chức…thì chương trình ấy kết quả với nhiều người được Chúa đụng chạm, nhiều linh hồn được cứu. Nguyện Đức Chúa Trời dấy lên nhiều con người có nếp sống ngợi khen đứng lên hướng dẫn dân sự của Chúa trong sự ngợi khen.

MS Nguyễn Duy Trung, mùa Xuân 2015 (Toronto, Canada)

NGÀY XUÂN SUY GẪM NGÀY ĐỜI

mua-xuan-6

NGÀY XUÂN SUY GẪM NGÀY ĐỜI
(On Spring Days, Meditate Life Days)

Những ngày Tết cổ truyền Việt nam, cũng được gọi là  những ngày ” Xuân nhựt”, sắp đến.Thật là có ý nghĩa nếu đây là dịp sum họp gia đình, vun đắp tình cảm và cảm ơn Chúa và cảm ơn nhau để tiếp nối những ngày còn lại trên đất .
Trong những ngày vui đầm ấm chúng ta hãy để ít thì giờ suy gẫm cuộc đời qua sự soi dẫn của lời Chúa ở Thi Thiên 90.
Thi Thiên 90 này được Môi se viết ra. Ta biết cuộc đời Môi se có 3 giai đoạn: Giai đoạn đầu 40 năm sống trong cung điện huy hoàng của Pha-ra-ôn. Giai đoạn giửa 40 năm tiếp theo sống bằng nghề chăn chiên âm thầm trong sa mạc Ma-di-an và giai đoạn cuối cùng 40 năm được Đức-Chúa-Trời đại dụng, làm lãnh tụ, dẫn dắt dân sự của Chúa ra khỏi xứ nô lệ Ê dip tô, Ai cập ngày nay. Họ vượt qua biển đỏ, di chuyển qua sa mạc trong 40 năm,rồi vượt qua sông Giô đanh để vào đất hứa mà Đức Chúa Trời đã hứa với tổ phụ họ trước đó 400 năm.

-Thi Thiên 90:1-2 Môi se khẳng định Đức Chúa Trời là Đấng có từ ban đầu khi núi non chưa sanh ra, Đất và thế gián chưa dựng nên. Ngài là Đấng dựng nên muôn vật từ cỏi vô hình.  Giăng 1:1 cũng khẳng định Đức Chúa Trời có từ ban đầu và mọi vật được dựng nên bởi tiếng phán của Ngài (Ngôi lời). John 1:1 “In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God.“
– Câu 3: Chúa khiến loài người trớ lại bui tro và phán rằng ” hỡi con cái loài người, hãy trở lại” Điều này há chẳng phải ” sanh hữu hạn tử vô kỳ” hoặc ” Trời kêu ai nấy dạ” như dân gian thường nói theo kinh nghiệm sống đó sao?
KT ở Truyền đạo 12:7  soi sáng cho chúng ta biết khi Chúa gọi thì phần xác chúng ta ” bụi tro trở về với đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời ban nó. Ecclesiastes 12:7 “and the dust returns to the ground it came from, and the spirit returns to Godwho gave it.”
– Câu 4-6
Đời người chóng qua, giống như một canh trong 12 canh của một đêm. giống như hoa sáng nở chiều tàn; giống như bóng câu qua cửa sổ như người đời cũng thường so sánh. Chúng ta không thể dùng thời gian để chạy trốn sự phán xét của Chúa và nhớ rằng một ngàn năm trước mặt Chúa khác nào ngày hôm qua đã qua rồi. Gióp cũng nói rằng: “Loài người bời người nữ sanh ra, sống tạm ít ngày nhưng đầy dẫy phiền muộn, như đóa hoa sớm nở chiều tàn, con người thoáng qua như chiếc bóng, không ở lâu dài.” “Man born of woman is of few days and full of trouble.  He springs up like a flower and withers away; like a fleeting shadow, he does not endure.” (Job 14:1,2). Và chúng ta nên nhớ rằng kẻ ác sẽ chẳng đứng nổi trong ngày phán xét và tội nhân cũng không được vào hội của người công bình. “Therefore the wicked will not stand in the judgment, nor sinners in the assembly of the righteous.” ( Psalms 1:5)  để hưởng trời mới, đất mới và Giê-ru-sa-lem mới. “Then I saw a new heaven and a new earth, for the first heaven and the first earth had passed away, and there was no longer any sea. I saw the Holy City, the new Jerusalem, coming down out of heaven from God, prepared as a bride beautifully dressed for her husband.” ( Revelation 21:1-2).
Câu 7-9:
Phao lô kinh nghiêm được cơn giận của Chúa đối với dân sự Ngài khi họ lằm bằm oán trách Môi se đã dẫn họ vào sa mạc, không có thịt, không có củ hành củ kiệu để ăn nhậu trong 40 cái Tết trong sa mạc. Chính bản thân Ông cũng nhận  biết sự không vừa lòng của Đức Chúa Trời khi Chúa bảo Ông lần thứ nhì hãy phán với hòn đã thì Ông  đã đập hòn đá 2 lần. Đức Giê hô va đã phán cùng Môi se rằng bởi vì 2 ngươi không đủ tin đến ta để làm tôn thánh ta trước mặt dân sự, vì cớ đó Môi se không được vào đất hứa cùng dân sự. “But the LORD said to Moses and Aaron, “Because you did not trust in me enough to honor me as holy in the sight of the Israelites, you will not bring this community into the land I give them.”  (Numbers 20:12)
Môi se nhận biết được rằng không tội lỗi nào có thể dấu kín được trước ánh sáng mặt Chúa.
Sau khi tâm thần bối rối vì ý thức rằng trong những ngày của cuộc đời có lắm khi chúng ta yếu đuối, vấp phạm làm buồn lòng Đức Thánh Linh. Nhưng bởi lòng thương xót Ngài tha thứ cho kẻ ăn năng.
Môi se lấy lại bình tỉnh để đếm các ngày trên đất: “thất thập cổ lai hy, như dân gian thường nói với ý sống đến tuổi 70 thì xưa nay là hiếm. Còn có sống đến 80 hoặc thêm nữa và ai có kiêu căng thì cũng chỉ là lao khổ và buồn thãm thôi. Lúc đó thì con cái ruột thịt cũng muốn gởi chúng ta vào viện dưỡng lảo cho rảnh nợ đời! .Ở những nước giàu có thì điều này càng làm sáng tỏ lời Chúa. “The length of our days is seventy years– or eighty, if we have the strength; yet their span is but trouble and sorrow, for they quickly pass, and we fly away.” (Psalms 90:10)
Ông cầu xin Chúa cho Ông còn sống ngày nào thì biết đếm các ngày ấy hầu cho được lòng khôn ngoan. “Teach us to number our days aright, that we may gain a heart of wisdom. (Psalms 90:12)
Thi Thiên 90:13 đến hết đoạn.
Môi se cầu xin Chúa cho Ông mỗi ngày thoả lòng về sự nhơn từ Chúa để trọn đời hát ngợi khen Chúa, kể cả những ngày hoạn nạn vì thử thách, những ngày trung tín vượt qua thử thách và hưởng được những ân huệ đặc biệt của Chúa “Blessed is the man who perseveres under trial,because when he has stood the test, he will receive the crown of life that God has promised to those who love him.” (Jame 1:12). Đặc biệt là xin Chúa bày tỏ công việc của Ngài cho tôi tớ Ngài để họ tiếp tục trong những “ngày đời” còn lại trên đất và bày tỏ sự huy hoàng (splendor) của Ngài ra cho con cái của họ, những người vâng theo ý Chúa đã vượt qua mọi gian lao thử thách. Môi se cũng cầu xin những ân huệ (favour ) để hầu việc Ngài một cách đặc biệt, xứng đáng với đặc ân Ngài ban cho như mẹ  Mary, mẹ phần thể xác của Cứu Chúa Jesus. “Hỡi Ma-ri đừng sợ, vì ngươi đã được ơn ( favour) trước mặt Đức Chúa Trời.” “But the angel said to her, “Do not be afraid, Mary, you have found favor with God.” (Luke 1:30) Hay như Manase xây vách ngoài  thành Đa-vịt  sau khi tìm cầu được đặc ân thương xót, tha thứ của Chúa. “In his distress he sought the favor of the LORD his God and humbled himself greatly before the God of his fathers. 13 And when he prayed to him, the LORD was moved by his entreaty and listened to his plea; so he brought him back to Jerusalem and to his kingdom. Then Manasseh knew that the LORD is God. 14 Afterward he rebuilt the outer wall of the City of David, west of the Gihonspring in the valley, as far as the entrance of the Fish Gate and encircling the hill of Ophel; he also made it much higher. He stationed military commanders in all the fortified cities in Judah. (II Chronicles 33:12-14).

Chúng ta hãy cầu xin đặc ân (favour/ favor) cho những mục vụ đặc biệt mà Chúa giao cho mình.

Cuối cùng để kết luận Ông thể hiện lòng tin cậy vào sự toàn năng và sự tể trị của Chúa trong cuộc đời mình bằng cách lặp lại 2 lần “xin  Chúa lập cho vững công việc của tay chúng tôi.”

“13 Relent, O LORD! How long will it be? Have compassion on your servants. 14 Satisfy us in the morning with your unfailing love, that we may sing for joy and be glad all our days. 15 Make us glad for as many days as you have afflicted us, for as many years as we have seen trouble. 16 May your deeds be shown to your servants, your splendor to their children. 17 May the favor of the Lord our God rest upon us; establish the work of our hands for us– yes, establish the work of our hands.” (Psalms 90:13-17)

Kết luận :

Chúng ta hãy biết rõ Đức Chúa Trời toàn tri và toàn năng của chúng ta. Xin Chúa dạy chúng ta biết đếm các ngày đã qua của chúng ta hầu cho được lòng khôn ngoan và giao phó trọn vẹn những “ngày đời” còn lại trong tay Chúa; chắc chắn công việc và sự vinh hiển huy hoàng của Ngài sẽ bày tỏ ra cho chúng ta và hậu duệ của chúng ta.

Mục sư Nguyễn Đức Na.

Post Navigation