Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “DƯỠNG LINH”

TẾT VUI

tet

Tết Vui

(Happy New Year)

Mathiơ 5:3

“Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy.”

I. Vui Tết

 Đối với những người Việt đang sống ở các nước tây phương, thì kể ra c/ta cũng được lợi thêm một điểm, đó là c/ta được ăn tới hai cái tết.

 Tết tây đầu năm vừa xong, thì lại lo sửa soạn để ăn mừng Tết ta (Vietnamese New Year), thường đến vào tháng Hai ngay sau đó.

 Sống bên đây tuy Tết Nguyên Đán không được nhộn nhịp/tưng bừng như ở Việt-nam, nhưng có lẽ ai nấy trong c/ta vẫn còn giữ nhiều truyền thống “ăn tết” hay của người Việt.

 Khi đề cập đến Tết thì c/ta phải nghĩ ngay đến niềm vui, vì có Tết nào buồn không?

 Tại sao c/ta vui trong những ngày Tết?

 Các em nhỏ vui vì chờ đợi nhận tiền lì xì, trong những phong bì đo đỏ mà mỗi năm chỉ có được một lần.

 Ông bà cha mẹ thì vui sướng vì thấy con cháu & gia đình ai nấy về đoàn tụ xum họp thật là vui nhà vui cửa.

 Tết vui là khi c/ta được ăn những món đặc biệt mà thường chỉ có mỗi năm một lần, nào là bánh chưng, củ kiệu, dưa hành, đủ loại các thứ mứt, hạt dưa, cùng với trò đốt pháo, múa lân, cắm mai, hái lộc thật là nhộn nhịp.

 Chưa hết, trong mùa Tết c/ta cùng chúc nhau bằng những lời hay ý đẹp thật vui tai như là Phước, lộc, thọ… an khang, thịnh vượng, may mắn, phúc lợi trong những ngày đầu xuân của năm mới.

a) Có người CHÚC MỪNG NĂM MỚI như sau: Chúc 12 tháng phú quý, 366 ngày phát tài, 8784 giờ sung túc, 527,040 phút thành công, 31,622,400 giây VẠN SỰ NHƯ Ý.

b) Người khác thì chúc: Đong cho đầy hạnh phúc – Gói cho trọn lộc tài – Giữ cho mãi an khang – Thắt cho chặt phú quý – Cùng chúc nhau Như ý.

c) Cung chúc tân niên. Vạn sự bình yên. Hạnh phúc vô biên. Vui vẻ triền miên. Kiếm được nhiều tiền. Sung sướng như tiên

d) Chúc mừng năm mới: Tiền vào như nước sông Đà, Tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin.

Những người ở Mỹ lâu cũng vui thích mùa Tết ta, là vì thường cũng là mùa đấu trận Super Football, hay ở Louisiana là mùa Mardi Gras nhộn nhịp nữa, mà được nghỉ vài ngày ăn Tết.

II. Niềm Vui Chóng Qua

 Mặc dầu Tết đến thì vui, nhưng hình như niềm vui của Tết chóng qua.

 Những lời chúc Tết thì quá mỏng manh, chỉ nghe cho vui tai một lát, vì ai biết ngày mai sẽ ra sao.

 Tiền lì xì thì có bao nhiêu đi nữa thì cũng chẳng mấy chốc sẽ xài hết ngay.

 Gia đình đòan tụ rồi lại phải chia tay, ai nấy trở về chỗ mình sinh sống để lo cho gia đình.

 Những trận đấu thể thao lại sẽ trôi qua nhanh, và những ngày nghỉ lại chấm dứt.

 Niềm vui Tết chóng qua, những cuộc vui Tết chóng tàn, và ai nấy trở lại vật lộn với những bận rộn, nợ nần, chức nghiệp trong cuộc sống của đời này.

 Đúng như người Việt c/ta nói đùa về cuộc sống này trong 4 phần: Hối hả, vội vã, buồn bã, rồi cuối cùng chỉ là mồ mã.

  Có lẽ c/ta thường thắc mắc thế nào là niềm vui thật và làm sao tôi có được đây?

 Điều căn bản để có niềm vui thật chính là những mối liên hệ tốt đẹp và lâu bền.

Tiền bạc, danh vọng chưa chắc đem đến niềm vui thật.

 Câu chuyện vị mục sư đi thăm một nhà thương tâm thần (mental hospital)

 Thấy một người đàn ông đứng ở cột tường khóc lóc thảm thiết thì hỏi vị bác sĩ tại sao?

 Vị bác sĩ nói anh này khùng vì yêu một cô ca sĩ nổi tiếng, nhưng đã không cưới được cô gái đó.

 Đi một chút, vị mục sư lại thấy một người nam khác cũng đứng cột tường khóc lóc thảm thiết thì hỏi tại sao?

 Vị bác sĩ trả lời anh này bị điên vào đây là vì chính anh đã cưới được ô ca sĩ nổi tiếng mà anh kia không được.

 Sẽ có lúc tiền bạc, nữ trang chẳng còn giá trị và không đem đến cho c/ta niềm vui nữa.

 Câu chuyện chiếc tàu Titanic.

 Khi chiếc thuyền Titanic sắp sửa chìm và một trong những người triệu phú tên là A. H. Peuchen được cơ hội xuống phao cứu cấp trước, thì sau khi được cứu sót ông làm chứng lại là trong lúc sửa soạn xuống thuyền nhỏ thì khi trở lại phòng, ông đã đành phải quyết định để lại tất cả tiền bạc, những nữ trang, những vật quí gía của mình ở lại trong phòng nghủ trị giá ~300,000 đôla.

 Nhưng chỉ đem theo có 3 trái cam mà thôi, vì biết rõ rằng tiền bạc và nữ trang trong lúc đó chẳng có ích chi cho mình và không còn là điều ưu tiên cho cuộc sống nữa.

 Các món đồ chơi hay tiền bạc chỉ đem tiện nghi và sự vui sướng một chốc lát, nhưng “tình người” là yếu tố quan trọng nhất để đem đến cho con người niềm vui bền lâu.

 Lý do là vì nhu cầu thầm kín nhất trong lòng của loài người là mối liên hệ tình cảm, vì c/ta không phải là những thứ vô tri vô giác.

 Từ lúc sanh ra, c/ta đã cần mối liên hệ với cha mẹ chăm nuôi để vui sống.

 Lớn lên c/ta cần đến mối liên hệ bạn bè, hay thầy cô hướng dẫn để thành công trong đời và vui hưởng thành quả của mình.

 Khi đến tuổi trưởng thành, c/ta cần có mối liên hệ hôn nhân và gia đình để hưởng hạnh phúc.

 Nhưng trên hết mọi mối liên hệ để c/ta gặt hái được niềm vui bền lâu là mối liên hệ bề dọc với Đấng đã sáng tạo nên chính mình, nghĩa là hiểu biết Đấng đó là ai và mục đích đời đời Ngài đã dựng nên loài người c/ta là để làm gì.

 Hay nói cách khác, khi c/ta biết và sống đúng mục đích của Đấng đã tạo dựng nên mình, thì c/ta sẽ tìm được niềm vui thật, không cần phải là mùa Tết hay bất cứ trong hoàn cảnh nào.

III. Phước của Nước Thiên Đàng

 Ngày xưa khi Chúa Giê-su, Con ĐCT đã đến thế gian, Ngài bày tỏ cho c/ta biết Đấng Sáng Tạo là ai và mục đích của Chúa cho loài người c/ta là gì.

 Một trong những lời Chúa Giê-su giảng dạy về mục đích này đó là lời giảng trên núi, đã được ghi chép lại trong Kinh Thánh, để c/ta hiểu được mục đích của đời sống và tìm được niềm vui thật.

 Trong sách Mathiơ 5:1-3 có chép – “Đức Chúa Jêsus xem thấy đoàn dân đông, bèn lên núi kia; khi Ngài đã ngồi, thì các môn đồ đến gần. Ngài bèn mở miệng mà truyền dạy rằng: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!”

 Chữ “phước” tiếng Anh là chữ “blessed,” trong nguyên nghĩa của văn tự Hy-lạp (tiếng Greek) có liên quan đến chữ “vui mừng” (hay dịch ra tiếng Anh là “happy”) hay là chữ “may mắn, tốt số…” (fortunate).

 Cho nên qua lời của Chúa Giê-su, c/ta thấy được mục đích tốt lành của Đấng Tạo Hóa dựng nên loài người c/ta là để c/ta được vui mừng, sung sướng, thỏa lòng, chứ chẳng phải để dằn vật loài người trong sự khổ sở triền miên.

 Có những lý thuyết dạy “ông Trời” như là một vị thần dữ, luôn bay vòng vòng với cái “roi mây” để tìm và quất, hay phạt những ai chẳng may mắn gặp phải Ngài?

 Trong Kinh Thánh 1 Giăng 4:8b chép “ĐCT là sự yêu thương.” Ngài yêu thương dòng giống loài người là loài mà Ngài đã dựng nên “giống hình ảnh của Mình,” để có mối liên hệ đời đời với mỗi người c/ta.

 Có chỗ trong Kinh Thánh diễn tả Đấng Tạo Hóa, ĐCT như một người Cha nhân lành yêu thương con cái mình, chăm sóc và bảo vệ từng đứa con thuộc của mình.

 Một số quí vị là cha mẹ, ông bà, quí vị biết yêu thương con cháu ra từ dòng dõi của mình, thì chắc cũng hiểu được phần nào ĐCT yêu thương mỗi c/ta.

Tình yêu thương của ĐCT là thực tế là vì Ngài muốn c/ta được vui vẻ sung sướng trong mối liên hệ đời đời với chính Chúa, nên mục đích luôn là c/ta được ở trong nước thiên đàng của Ngài mãi mãi – “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!”

 Nước thiên đàng là gì và ở đâu?

  1. a) Nước thiên đàng là một chỗ toàn hảo không còn có một sự nguyền rủa nào nữa.

Khải Huyền 21:3-4, sứ đồ Giăng cho hé thấy nước thiên đàng khi nói: “Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng. 4 Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi.”

 Nơi đó sẽ không còn một sự đau đớn, không còn nước mắt, không còn sự chết nữa, vì trái của cây sự sống chữa lành mọi bệnh tật của c/ta.

 Ai vào đó sẽ không còn mắc một chứng bịnh nào nữa: dù là nhức khớp, đau đầu, áp xuất cao, tiểu đường, bệnh lãng…

 Không ai sống ở đó còn phải lo sợ những bịnh dịch nữa… như Mad Cow, chicken flue, AIDS, westnile, hay bệnh dịch mới Zika…

 Chỗ đó c/ta sẽ không còn cần đến xe cấp cứu, và cũng không có nghĩa điạ hoặc nhà xác nữa, vì sẽ không còn có sự chết.

 Không còn chiến tranh đe doạ của bọn khủng bố ISIS nữa, cũng không cần c/trình “Homeland security” của Tổng thống Mỹ.

 Nhà cửa trên đó c/ta sẽ không cần mua bảo hiểm nữa… vì mối không đục được, lửa không làm cháy nó được, không còn giông bão nào làm nó trôi đi… và sẽ không bao giờ cần sửa chữa.

 Nơi đó không còn tội lỗi, một sự tham nhũng, bất công, hối lộ, gian ác, dối trá, tranh chấp, ghen ghét nữa, vì Chúa đã làm thẳng mọi sự cong queo của tội ác rồi.

 C/ta không cần phải chúc nhau “Phước, Lộc & Thọ” nữa, vì không còn bệnh già nua nữa, vì phước, lộc và thọ chẳng bao giờ tàn, Xuân chẳng bao giờ dứt, nên c/ta cũng không cần phải lo đến tiền về hưu 401K nữa.

2) Nước thiên đàng là chỗ có niềm vui trọn vẹn, và bền lâu mãi mãi, chứ không chóng qua như niềm vui của tết, vì có mối liên hệ đời đời với Đấng Sáng Tạo.

 Đêm không còn nữa, và nơi đó ĐCT sẽ ở với c/ta, sẽ trị vì đời đời và soi sáng trên c/ta luôn.

 Thiên đàng là nơi có một mùa Xuân bất tận, mà “cuộc vui sẽ không bao giờ tàn,” vì mùa xuân trên đó không bao giờ chấm dứt hoặc thay đổi.

 Sách Kinh Thánh Khải Huyền 22:1-5 chép về những điều sẽ xẩy đến trong tương lai, hé mở cho c/ta thấy được hình ảnh thiên đàng như sau mà sứ đồ Giăng đã thấy được: “Thiên sứ chỉ cho tôi xem sông nước sự sống, trong như lưu ly, từ ngôi Đức Chúa Trời và Chiên Con chảy ra. Ở giữa phố thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mười hai mùa, mỗi tháng một lần ra trái; và những lá cây đó dùng để chữa lành cho các dân. Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa; ngôi của Đức Chúa Trời và Chiên Con sẽ ở trong thành; các tôi tớ Ngài sẽ hầu hạ Ngài; chúng sẽ đượcthấy mặt Chúa, và danh Chúa sẽ ở trên trán mình. Đêm không còn có nữa, và chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ soi sáng cho; và chúng sẽ trị vì đời đời.”

 Thiên đàng là nơi có cây của sự sống… trổ đúng 12 mùa, mỗi tháng 1 lần ra trái, nghĩa là mỗi tháng là một mùa xuân… đây chính là mùa xuân không bao giờ tàn.

IV. Lòng Khó Khăn  

 Nhưng nếu đọc kỹ lời chúc phước của Chúa Giê-su thì thấy không phải ai cũng được phước của nước thiên đàng này, nhưng chỉ những kẻ có lòng khó khăn mà thôi – “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!”

 Đây nghĩa là sao?

 Một bản dịch Kinh Thánh khác, cho c/ta hiểu rõ hơn “tấm lòng khó khăn” có nghĩa là sao:

“Phước cho ai biết tâm linh mình nghèo khổ, thì sẽ hưởng Nước Trời!”

 Tại sao “nghèo khổ”… thì mới hưởng được “phước” này? Sự “nghèo khổ” tâm linh chi đây?

 Điều này mới nghe sao ngược “lỗ tai” vô cùng… không giống như những câu nói, mà người ta thường hay chúc nhau trong đầu năm như: thịnh vượng, giàu sang, dư dật, phát tài… chứ ai lại nhắc đến tình trạng bị nghèo nàn, hay thiếu thốn đâu?

 Nhưng khi đọc kỹ lại lời của Chúa Giê-su chúc phước cho c/ta ở đây thì sẽ thấy sự nghèo nàn ở đây… không phải là sự nghèo nàn về của cải vật chất, hay tiền bạc.

 Đây cũng không phải là sự nghèo nàn vì mình thiếu học vấn… nhưng là sự “nghèo nàn” của phần tâm linh, ở bên trong lòng của mỗi người c/ta.

1) Người có tấm lòng nghèo khổ tâm linh đây có nghĩa là một người đang ở trong tình trạng lương tâm bị cắn rứt, dằn vặt… vì ý thức được tình trạng tội lỗi xấu xa của mình: những lời ác mình đã nói, những việc ác mình đã làm, những ý tưởng ác mình đã có, và kể cả những điều lành lương tâm thúc mình làm, nhưng chưa có thể làm trọn được.

 Không phải ý thức được sự nghèo khổ của tâm linh mà thôi, nhưng còn ở trong tình trạng tuyệt vọng, vì tự biết rằng chính mình không thể tự cứu mình được, vì “cả đời làm thiện thì thiện đâu không đủ, nhưng chỉ một ngày làm ác, thì việc ác có dư rồi;” hoặc có một người nào khác có thể giúp đỡ xóa sạch tội mình được, vì “nhân vô thập toàn.”

 Giống như một người bị chìm thuyền giữa biển cả sóng vỗ… mà mình lại không biết bơi nữa, chỉ lênh bên trên mặt nước, chờ thần biển cuốn mình đi vào chỗ chết mất mà thôi.

2) Không phải vậy thôi, nhưng sự “nghèo nàn tâm linh” sẽ thúc đẩy họ đi tìm cầu một vị Cứu Tinh thật để nhận được sự tha tội, hầu cho tâm hồn được vui mừng, bình an trở lại.

 Và vị cứu tin duy nhất có quyền năng để làm sạch mọi tội của những kẻ có lòng khó khăn chính là Cứu Chúa Giê-su, Con ĐCT.

 Đấng Tạo Hóa nhơn từ vì yêu nhân thế đã sai Con Ngài xuống thế gian, chịu chết trên cây thập tự làm của lễ chuộc tội, hầu cho qua “huyết của Đức Chúa Giê-su, Con Ngài, làm sạch mọi tội c/ta,” cất đi mọi nỗi khó khăn của tấm lòng, và hàn gắn lại mối liên hệ giữa người và Trời.

 Mỗi khi bạn thấy hình thập tự là dấu của tình yêu thương tuyệt vời của Thiên Chúa cho mọi người, và cho chính bạn cùng tôi.

 Ngày hôm nay, còn biết bao nhiều người chưa nhận được “thiên phước” của Chúa Giê-su hứa ban cho, không phải vì họ nghèo đói, không nhà không cửa, hay thiếu học… nhưng chỉ vì chưa ý thức được tình trạng tội lỗi hư mất, tuyệt vọng của mình… mà tìm cầu đến Cứu Chúa Giê-su.

 Như vậy câu Chúa Giê-su chúc phước: “Phước cho ai biết tâm linh mình nghèo khổ, thì sẽ hưởng Nước Trời!” nghĩa là ai ý thức tình trạng tội lỗi hư mất của mình, ăn năn hối cãi, kêu cầu Cứu Chúa Giê-su, Con ĐCT thì Ngài sẽ lấy huyết của Mình làm sạch mọi tội người đó, hàn gắn lại mối liên hệ với ĐCT, và chờ đợi một ngày sẽ hưởng cơ nghiệp là nước Trời, là thiên đàng!

 Khi c/ta biết rõ được điều này thì mình sẽ thật sự kinh nghiệm một niềm vui vô biên, tìm ẩn bên trong mà không có gì bên ngoài có thể chi phối được.

V. Nhận Phước

 C/ta chỉ có thể cầu chúc những phước lành cho nhau… nhưng thật ra không có quyền năng ban cho phước, chỉ có một mình Đấng Sáng tạo nên sự sống… mới ban mọi phước cho c/ta.

 Ngài hứa ban cho mỗi người một món quá, một đại phước đó là sự sống lại và sự sống đời đời trong nước thiên đàng của Ngài.

 Chúa nhân từ ban cho phước lành này như một món quà không điều kiện… chỉ có cái là mình có ý thức tình trạng tâm linh khó khăn tội lỗi của mình, và tìm cầu Chúa Giê-su, Con ĐCT mà thôi.

 Trong 1 Giăng 5:11-12 chép rõ về sự ban cho này – “Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài. Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống.”

 Bạn có muốn tìm được niềm vui thật trong mùa Tết Nguyên Đán này không?

 Không phải chỉ sự vui vẻ trong 3 ngày Tết mà thôi, nhưng một niềm vui trường tồn.

 Bạn hãy đến với Chúa Giê-su mà nhận lấy phước Ngài hứa ban cho những kẻ ý thức tình trạng tâm linh khó khăn của mình.

 Không phải chỉ những phước tạm bợ ở đời này thôi… mà một cơn giông bão có thể hủy phá được trong vòng vài tiếng đồng hồ, hay 1 cơn động đất có thể chôn lấp lấy.

 Phước đó chính là nước thiên đàng đời đời dành cho bạn.

 Niềm vui đó là vì mọi gánh nặng tội lỗi của bạn đã được cất đi hết.

 Sự thỏa lòng vui sướng vì bạn sẽ được Chúa “chúc phước.

 Tôi thành thật mong khi mọi người bước sang một năm mới Bính Thân sẽ nhận được “phước Xuân vĩnh cửu” ở trong lòng, vì có lại được mối liên hệ với Đấng đã sáng tạo nên mình và sẽ ban cho mình sự sống vĩnh cửu trong nước Ngài một ngày.

 Mong bạn đến nhận món quà nước thiên đàng mà Chúa hứa ban cho bất cứ ai nhận biết lòng khó khăn và cầu xin Con ĐCT, Cứu Chúa Giê-su ngay hôm nay!

 

——— Lời Mời Gọi

 Khi tết đến, điều tự nhiên… ai nấy cầu chúc nhau được sống lâu, sống vui, sống khỏe; nhưng “con người c/ta” là giới hạn… thì không có quyền để thực hiện và làm trọn được ~điều mong ước này.

Không ai có thể ban cho c/ta một niềm vui trọn vẹn, hoặc một mùa xuân bất tận được… vì mỗi người c/ta mang trong mình con vi trùng của tội lỗi.

C/ta sanh ra và sống, nhưng rồi một ngày sẽ chết trong tội lỗi… để lãnh tiền công của nó.

Chỉ có ĐCT là Đấng quyền năng mới ban cho sự tha tội và sự sống đời đời qua chính Con một của Ngài là Đấng đã đến, đổ huyết vô tội trên thập tự gía gần 2,000 năm… hầu một ngày c/ta sẽ được sống mãi trong nước thiên đàng của Ngài.

Chúa Giê-su đã đến và qua sự chết của Ngài, mối liên hệ của c/ta với ĐCT được tái tạo và nay có đủ điều kiện để hưởng nước thiên đàng; c/ta là những người được phước và có niềm vui thật.

Thi Thiên 32:1 chép rõ – “Phước thay cho người nào được tha sự vi phạm mình! Được khỏa lấp tội lỗi mình!”

Cho bất cứ ~ai ý thức tình trạng tội lỗi hư mất của mình, ăn năn hối cãi và kêu cầu Cứu Chúa Giê-su thì Ngài hứa ban cho người ấy sự sống đời đời, một mùa Xuân bất tận trên thiên đàng.

Phước lành này Chúa Giê-su chúc phước c/ta như một món quà không đòi giá, không phải trả tiền, không mua được bằng ~công đức cá nhân của mình… nhưng chỉ lấy đức tin mà nhận lấy.

Không phải tình cờ mà mỗi người c/ta có mặt ở đây hôm nay, nhưng đây là cơ hội “Trời cho” để c/ta nghe được phước lành Chúa hứa ban cho, mà khôn ngoan nhận lấy.

Cuộc sống có ý nghĩa vì c/ta biết rõ mình sẽ đi về đâu khi bước qua cõi đời này, và đó là niềm vui thật.

Nhà triết gia nổi tiếng Plato đã nói một câu khá đúng: (The human life is a meditation about death) “Đời người là một cuộc hành trình suy gẫm, trầm tư về sự chết.”

Nhưng đối với con cái Chúa thì còn đúng hơn nữa… đó là: (The Christian life is a journey to prepare for heaven) “Đời sống của Cơ Đốc Nhân là một cuộc hành trình sửa soạn để trở về nước thiên đàng của ĐCT.”

Đó là niềm vui thật!

Bạn có sẵn sàng trở về quê Cha Thiên Thượng của mình mà hưởng “Tết vui trường tồn” chưa?

Bạn sẽ hái lộc gì trong năm nay? Bạn sẽ nhận được phước lành nào trong mùa Tết này?

Lộc trần thế hay tàn héo, hay chóng qua… nhưng “Thiên phước” – phước của Trời ban cho sẽ tồn tại đời đời đó chính là sự sống đời đời… một mùa xuân bất tận ở trên thiên đàng.

Chúa Giê-su muốn chúc phước cho bạn điều này… mong bạn mở lòng tiếp nhận lấy, ngay hôm nay, ngay giây phút này!

 Bạn có sẽ nhận “lì xì” Chúa ban cho không khi còn cơ hội?

 Có thể bạn tự nghĩ “tôi tội lỗi quá làm sao Chúa cứu?”

 Chính khi bạn biết mình là một tội nhân nghĩa là nhận biết tâm linh khó khăn, thì nếu bạn cầu cứu Ngài thì được nước thiên đàng; vì Chúa Giê-su đến không để cứu người lành, nhưng cứu những kẻ có tội!

[Tôi xin thành thật kính chúc mọi người được một mùa Xuân vui tươi, cùng một Năm Mới thật đầy đủ sức khỏe, bình an và dư dật, nhất là một niềm vui bất tận vì có lời hứa của nước thiên đàng Chúa ban cho một ngày. Amen!]

TẾT NHỚ ƠN CHÚA

smeI6NA

(Thi thiên 103:1-5, 15-17)

Nhơn dịp xuân về, tôi kính chúc Quý vị trong Năm Mới được Chúa ban cho mọi sự an lành, đầy sức khỏe và sống lâu trường thọ.

Tết là mùa Xuân, hoa nở nhiều. Trong văn chương Việt Nam, người ta thường so sánh “hoa” với “phái nữ,” như: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.” Và “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.” Đây là những câu thơ Nguyễn Du diễn tả Thúy Vân và Thúy Kiều. Nhưng Kinh Thánh thì ví sánh hoa với cả nam lẫn nữ. Thi thiên chép: “Người sanh trưởng khác nào bông hoa nơi đồng.” (Thi 103:15).

Hôm nay, nhân dịp Tết đến, nhờ cậy Chúa, chúng ta cùng suy nghĩ xem đời người trên đất có những đặc tính gì? Chúng ta nên sống theo cách nào? Khi còn đi học, chúng ta đều thấy đời mình đẹp như hoa. Các Bạn trẻ thấy tương lai mình tươi như vườn hoa mới nở. Điều nầy có lý. Vì họ thấy đời mình còn dài. Tương lai sáng lạng. Nhưng xin mỗi chúng ta nhớ rằng: “Thời gian như thể thoi đưa, Nó đi, đi mãi có chờ đợi ai!” Thời gian qua nhanh, và nó lại vô tình mang tuổi tác đặt lên vai của chúng ta, cho nên tuổi tác của chúng ta cũng chồng chất lên thật mau với năm tháng đến. Vì vậy mà Nguyễn Công Trứ nói: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.” Nguyễn Khuyến nói:

“Nhớ từ năm trước hãy thơ ngây, Phút chốc mà già đã đến ngay,
Mái tóc chùm đen, chùm lốm đốm, Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay!”

Môi se nói: “Đời sống chóng qua, rồi chúng tôi bay mất đi.” (Thi thiên 90:10). Gia cơ nói: “Sự sống của anh em là chi? Chẳng qua như hơi nước, hiện ra một lát rồi lại tan ngay.” (Gia cơ 4:14).

Nói đến cuộc sống chúng ta cũng nhận ra một khía cạnh khác là đời người vui ít và buồn nhiều. Có một bài ca hát rằng: “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn!…….” Câu hát nầy nói lên phần nào sự thật của đời người. Nếu trong đời chúng ta có được một trăm lần vui thì chúng ta đã phải trải qua một vạn (10.000) lần buồn! Thật vậy, bao phen lăn lộn với đời, Nguyễn Công Trứ viết: “Ra trường danh lợi, vinh liền nhục, Vào cuộc trần ai, khóc trước cười.” Ông Môi se nói: “Tuổi tác chúng tôi đếm được bảy mươi, còn nếu mạnh khỏe thì được tám mươi; song sự kiêu căng của nó bất quá là lao khổ và buồn thảm.”(Thi thiên 90:10). Nói tới cuộc đời buồn, chúng ta nhớ đoàn cải lương hát tuồng: “Con Gái Chị Hằng.” Các cô đào chánh là những nghệ sĩ. Họ đóng kịch rất hay. Cảnh đời chị Hằng quá khổ, vì quá thương con mà con lại không hiểu. Chị Hằng khóc hoàn cảnh buồn của mình! Mấy bà già coi cải lương cũng thi nhau khóc theo! Khóc thôi là khóc! Cảnh đời quá buồn thảm! Cải lương buồn và ngoài đời nhiều khi cũng buồn như vậy!

Còn một khía cạnh nữa về cuộc sống mà mỗi chúng ta phải để ý. Đó là: Đời sống có thể chấm dứt bất cứ lúc nào! Ngay cả làm Tổng Thống, tim cũng có thể ngừng đập bất ngờ. Tổng Thống Kennedy đã chết bất ngờ vào tháng 11 năm 1963. Còn dân giả cũng có thể chết bất ngờ. Mới đây, có cơn bão ở Phi luật tân đã giết chết nhiều ngàn người. Sự thật thì Sự chết sẽ đến, và thường thì đến rất bất ngờ, không ai biết trước và cũng không từ chối được. Như Đức Chúa Giê-su đã phán: “Có ai trong các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài thêm một khắc không?” (Luca 12:25). Thấy cuộc đời lao khổ và nhiều bất trắc, có thi sĩ nào đó viết câu thơ hỏi rằng: “Đời đáng chán hay không đáng chán?” Câu trả lời là đời đáng sống. Vì Đức Chúa Trời tạo dựng mỗi chúng ta theo ý muốn tốt đẹp của Ngài.

Muốn có đời sống đẹp lòng Chúa và hữu ích, chúng ta phải nhớ cầu nguyện như Môi se rằng: “Cầu xin Chúa dạy chúng con biết đếm các ngày của chúng con, hầu cho chúng con có lòng khôn ngoan.” (Thi thiên 90:12). Đếm ngày của chúng ta nghĩa là chúng ta sống cẩn thận mỗi ngày, khá để ý rằng mỗi ngày, mỗi giờ qua đi có ích hay không và chắc chắn là chúng ta không thể lấy lại được. Ví dụ: Chúng ta có dịp đi du lịch ở Hà Nội 5 ngày. Nếu đến Hà nội chúng ta chỉ mướn khách sạn, ở đó ngủ 5 ngày rồi về. Thế thì tiếc thời gian quá! Trái lại chúng ta phải tính ngày thứ nhất đi tham quan chỗ nào, ngày thứ hai đi thăm ai, ngày thứ ba, ngày thứ tư, ngày thứ năm…. làm gì, chúng ta không nên bỏ mặc cho thì giờ đi qua vô ích.

Đức Chúa Trời ban cho mỗi chúng ta một thời gian trải qua trên đất là 80 – 90 năm, quý vị định xử dụng thời gian nầy như thế nào? Hôm nay, từ sáng tới giờ, chúng ta có cầu nguyện với Chúa chưa? Trong tháng nầy có nói về Chúa cho ai chưa?

Tết năm nay, nhìn lại những ngày qua, Quý vị có bao nhiêu điều để tạ ơn Chúa? Có người nói: Nhiều điều lắm, không biết sao kể ra cho hết. Rồi không chịu kể cho ai nghe cả. Trong Lớp Tiểu học, cô giáo hỏi: “Các em biết chữ cám ơn nghĩa là gì không?” Có một học sinh đưa tay. Cô giáo bảo, em biết thế nào, nói đi.

– Thưa cô em biết mà em nói không được! Cô giáo không cho em điểm nào.

Quý vị đã đi nhà thờ, đã đọc Kinh Thánh, đã hát Thánh ca, đã cầu xin Chúa ban phước cho gia đình, nhưng: “Quý vị có nhớ xin Chúa Jêsus xóa tội cho Quý vị không?” Quý vị hãy nhớ rõ là “huyết của Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời, làm sạch mọi tội chúng ta.”(I Giăng 1:7b). Và “…hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời.” (Giăng 1:12). Cảm tạ ơn Đức Chúa Giê-xu, qua dòng cứu chuộc của Ngài, chúng ta hưởng được phước rất lớn mà Kinh Thánh cho biết là: Phước thay cho kẻ lỗi mình được tha thứ, tội mình được che đậy! Phước thay cho người mà Chúa chẳng kể tội-lỗi cho!” (Rôma 4:7-8).

Mỗi khi cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời” Quý vị có nhận thấy mình có phước không? Con Trời đã chết thay cho Quý vị, nhờ vậy Quý vị được phép gọi Đức Chúa Trời là Cha. Thật là phước vô cùng! Nhờ Đức Chúa Giê-xu, chúng ta thật sự có phước. Vì chính Đức Chúa Giê-su ban lời phước hạnh của Ngài cho chúng ta rằng: “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi; vì Cha các ngươi đã bằng lòng cho các ngươi nước Thiên đàng.” (Lu ca 12:32). Phước nầy lớn biết bao nhiêu, chúng ta sẽ được ở Thiên đàng phước hạnh đời đời với Cha Thiên Thượng, thoát khỏi Hồ lửa khổ hình đời đời. Cám tạ ơn Chúa.

Phao lô dạy rằng chúng ta hãy “hiểu biết những ơn mà chúng ta nhận lãnh bởi Đức Chúa Trời.” (1 Cô rinh tô 2:12). Tác giả Thi thiên nói: “Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va, Chớ quên các ân huệ của Ngài. Ấy là Ngài tha thứ các tội ác ngươi, Chữa lành mọi bịnh tật ngươi.” (Thi thiên 103:1-2). Thưa Quý vị, Tết cũng là cơ hội để chúng ta nhìn lại chính mình trong năm qua để cảm tạ ơn Chúa.

Đức Chúa Trời ban cho mỗi chúng ta có đời sống trên đất. Cầu xin Chúa dạy cho chúng ta biết dùng đời sống của chúng ta để ngợi khen Chúa. Tác giả thi thiên nói rằng: “Trọn đời sống tôi sẽ ngợi khen Đức Giê hô va; Hễ tôi còn sống chừng nào tôi sẽ hát xướng cho Đức Chúa Trời tôi chừng nấy.” (Thi thiên 146:2). Đây là một tấm gương tốt cho mỗi chúng ta. Tết năm nay, Quý vị có định làm điều gì để ca ngợi sự vinh hiển Chúa không?

Năm mới này, chúng ta suy nghĩ mình nên ca ngợi Chúa bằng cách nào? Hát một bản Thánh ca, ca ngợi Chúa. Đúng. Còn gì nữa? Sự ca ngợi Chúa rất quan trọng là qua hành vi cử chỉ trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chính Cứu Chúa dạy rằng: “Các ngươi là sự sáng của thế gian…. Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta, như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi và ngợi khen Cha các ngươi trên trời.” (Ma thi ơ 5:14,16). Sự dạy dỗ nầy có nghĩa rằng: “Nếu tội lỗi các ngươi và sự tối tăm các ngươi soi trước mặt người ta, thì họ sẽ cười chê Cha các ngươi trên trời.” Xin mỗi chúng ta nên suy nghĩ điều nầy. Thánh Phao lô cũng dạy mỗi chúng ta rằng: “Anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với đạo Tin Lành của Đấng Christ.” (Phi lip 1:27).

Quý vị nghĩ năm nay chúng ta làm gì để được Đức Chúa Trời vui thích nhất? Đi nhà thờ, hát Thánh Ca, học Kinh Thánh, dạy con cái theo Chúa….. Vâng, những điều nầy là những điều Chúa ưa thích. Có điều Chúa rất ưa thích nữa, đó là: “Linh hồn tội nhân trở lại với Ngài, để Ngài tha tội cho họ, để họ được cứu.” Vì chính Cứu Chúa của chúng ta đã phán: “Con Người đã đến…để phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người.” (Mathiơ 20:28). “Trên trời cũng vậy, sẽ vui mừng cho một kẻ có tội ăn năn.” (Lu ca 15:7). Vậy thì điều rất quý trong năm mới nầy là: Xin Chúa cho mỗi chúng ta dắt tội nhơn về với Chúa ít nhất là một người. Đời sống của một người dẫn dắt tội nhơn đến với Chúa là đời sống có ý nghĩa vì ích lợi cho người khác và làm sáng Danh Chúa. Lời Đức Chúa Trời hứa cho mỗi chúng ta rằng: “Những kẻ dắt đem nhiều người về sự công bình sẽ sáng láng như các ngôi sao đời đời mãi mãi.” (Đa ni ên 12:3). Lời hứa quý báu nầy và tấm lòng của Đức Chúa Giê su muốn tìm con chiên “bị lạc mất” (Mathiơ 18:12), thúc giục mỗi chúng ta siêng năng làm chứng về tình yêu cứu rỗi của Đức Chúa Giê su cho nhiều người biết và tin Chúa để họ sự cứu.

Tết năm nay chúng tôi xinh kính chúc Quý vị được hưởng sự bình an của “chính Chúa bình an” (2 Tê sa lô ni ca 3:16) ban cho. Tạ ơn Đức Chúa Trời Từ ái đã ban cho chúng ta cuộc đời đáng sống trên đất nhờ ơn cứu rỗi của Đức Chúa Giê-su, Ngài dành sẵn cho chúng ta nhiều phước hạnh quý báu không xiết kể trong Nước vinh hiển Ngài.

Cầu xin Chúa ban phước cho quý vị luôn. A-men.

Mục sư Trần Hữu Thành.

CHÚA LƯU ĐÀY ISRAEL ĐẾN ASIRI, BABYLON VÀ THẾ GIỚI

CHÚA LƯU ĐÀY ISRAEL ĐẾN ASIRI, BABYLON VẢ THẾ GIỚI-


Tuyển dân đã phạm tội quá sâu,
Chúa lưu đày đi cả địa cầu,
Mười chín bốn tám họ lập quốc,
Chấm dứt án lưu đày nhiệm mầu.

Exe 4:4-6- Kế đó, ngươi khá nằm nghiêng mình bên tả, và để tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên tại đó. Ngươi nằm như vậy bao nhiêu ngày, thì mang lấy tội lỗi chúng nó cũng bấy nhiêu. Vì ta đã định cho ngươi một số ngày bằng với số năm của tội lỗi chúng nó, là ba trăm chín mươi ngày, ngươi sẽ mang lấy tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên như vậy. Vả lại, khi những ngày ấy đã mãn, ngươi khá nằm nghiêng mình bên hữu, và mang lấy tội lỗi của nhà Giu-đa, trải bốn mươi ngày ta định cho ngươi mỗi một ngày thay vì một năm. 
Phục 28:64–và Đức Giê-hô-va sẽ tản lạc ngươi trong các dân, từ cuối đầu nầy của đất đến cuối đầu kia; tại đó, ngươi sẽ hầu việc các thần khác bằng cây và bằng đá mà ngươi cùng tổ phụ ngươi không hề biết. 
Lê 26: 18,21,23-24, 27-28– Nếu đến đỗi vậy mà các ngươi không khứng nghe ta, ta sẽ vì cớ tội phạm, thêm gấp bảy lần đặng sửa phạt các ngươi

Vì sau khi vào đất hứa dân Israel không giữ năm sa bát là cho đất nghỉ một năm sau 6 năm canh tác, và họ cũng đã phạm tội thờ hình tượng nên Chúa hình phạt Israel bằng cách cho lưu đày đi:

1.Lưu Đày Đến Asiri (Iraq)_
Ép ra im hay bắc quốc Israel vong quốc vào năm 721TC. Và cả 10 chi phái bị lưu đày sang Asiri.- 2 Vua 17:6–Đoạn, vua A-si-ri đi lên xâm chiếm cả xứ, đến vây Sa-ma-ri trong ba năm. Năm thứ chín đời Ô-sê, vua A-si-ri hãm lấy Sa-ma-ri, đem dân Y-sơ-ra-ên sang qua A-si-ri, lập họ ở tại Cha-la và trên bờ Cha-bo, sông của Gô-xan, cùng trong các thành nước Mê-đi. 10 chi phái nầy đi khắp địa cầu, mãi năm 1948 có một thiểu số hồi hương.

2.Lưu Đày Đến Babylon— (606-536 T.C).==70 năm
Nam quốc Giu đa bị vua Nê bu cát nết Sa, của Babylon ba lần bắt dân di lưu đày.
– Lần 1 vào năm 606 TC., có Đa niên ên và nhiều người thuộc nhà quyền quý.
– Lần 2 vào triều vua Giê hô gia kin, có tiên tri Ê xê chi ên và thợ thuyền, công nhân…
– Lần 3 vào- năm thứ 11 triều vua cuối cùng là Sê đê kia. Quân Babylon phá thành Gierusalem và đền thờ.
Kể từ năm 606 TC. đến năm đại đế Ba tư là Siru lên ngôi (536TC) cuộc lưu đày Giu Đa tại Babylơn chấm dứt.
Dân Israel, chủ yếu là người Giu đa (Do thái), Lê vi, thầy tế lễ, số lượng khoảng 50 ngàn người đã trở về Israel xây lại đền thờ và thành thánh. Dân hồi hương nầy tồn tại mãi đến thời Tân ước, để sinh ra Chúa Jesus. Rồi vào năm 70 SC. Họ lại bị lưu đày lần nữa vì ho đã giết Đấng Mê-si. Đền thờ và thành thánh cũng bị tiêu hủy lần thứ hai.

3. Lưu Đày Đến Thế Giới
Phục 28:64 nói dân israel đã bị đày khắp thế giới. như 10 chi phái Israel không hồi hương vào năm 536 T.C, họ đã lưu lạc luôn. Rồi vào năm 70 S.C., dân Giu Đa đã đóng đinh Chúa Jesus nên cũng bị lưu đày nốt.
Tôi biết có một người Do thái làm giám đốc ngân hàng tư nhân tại Saigon trước năm 1975. Rõ là họ đã lưu lạc đến mọi quốc gia trên cả địa cầu nầy.

Theo Exechien 4, chúng ta thấy Chúa phải phạt Israel 390 năm và Giu đa 40 năm, tổng cộng là 430 năm. Dân Giu đa đã bị lưu đày sang Babyon 70 năm- Giê rê mi 25:11 chép- Cả đất nầy sẽ trở nên hoang vu gở lạ, các nước nầy sẽ phục sự vua Ba-by-lôn trong bảy mươi năm.
Như vậy lấy 430 năm trừ đi 70 năm, thì Israel còn phải bị án phạt lưu dày 360 năm nữa mới đủ hạn.

Rồi theo Lê vi ký 26:18, 21, 24, 28, Chúa 4 lần nói: vì họ không ăn năn ở xứ người đang khi sống lưu đày, nên Chúa phạt họ gấp 7 lần nữa.
Như vậy 360 năm x 7= 2520 năm theo kinh thánh.
Vì Năm Kinh thánh là 360 ngày một năm, mà năm dương lịch là 365 ngàyy ¼ một năm.. Như vậy 2520 năm của Kinh thánh đổi thành 2483 năm của dương lịch quốc tế.

Họ đã hồi hương sau khi lãnh hình phạt 70 năm vào năm 536 TC..
Nay chúng ta lấy năm 536 TC làm mốc, và cộng thêm 1948 bằng 2484. Lấy 2484 – 1 = 2483 ( vì năm Chúa sinh ra là ở giữa trước Chúa ( BC) và sau Chúa ( AD).).Chúng

 ta sẽ có con số 1948. Đó là năm Israel tái lập quốc tại đất tổ, vào ngày 14/5.


Kết luận 
Sau hơn 25 thế kỷ lãnh án phạt nặng nề của Đức Chúa Trời, theo nguyên tắc tổng quát, Israel đã mản hạn án lưu đày vì tội lỗi của dân tộc mình.
Trong cơn đại nạn dân Israel còn sót lại chưa tiếp nhận Cứu Chúa Jesus, Đức Chúa Trời sẽ có phương cách cứu họ nhưng dường như qua lửa và làm thành lời hứa  đối với tuyển dân của Ngài.

Minh Khãi  và MS JosephNa .

26-1-2016

NĂM MỚI, TẤM LÒNG MỚI

Bấm vào link dưới đây để nghe.

Năm Mới, Tấm Lòng Mới

Lu-ca 2:25-40
Mục Sư Lê Duy Tín

http://www.vietchristian.com/sermon/result.asp?id=7015&qt=playa

BẢN TIN MỤC VỤ 12-2015

Từ ngày 17 đến ngày 26 tháng 12 năm 2015 mục sư Nguyễn Đức Na kiêm Trưởng Đoàn Từ thiện Joseph VN  cùng MSNC Phan Trọng Nghĩa – phụ tá Hội Trưởng đã về thăm các Hội thánh địa phương ở giáo khu Quãng Ngãi và Cần Thơ thuộc Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu- VN  và bồi linh, tặng quà cho 120 gia đình tín hữu và thân hữu trong mùa Giáng sinh năm nay.
Các quản nhiệm và ban chấp hành giáo khu cùng nhân sự của các HT cũng được bồi linh và tặng quà riêng.
MS Hội Trưởng và Đoàn cũng đã đến chào thăm Công An và phòng nội vụ của huyện Sơn Tây và Sơn Hà và UBND xã Sơn Mùa.
Sau đây là một số hình ảnh ghi nhậnđược trong chuyến mục vụ này.
Sau chuyến đi Truyền Đạo Đinh Bành QN HTTLLH Sơn Màu có báo tin là Công an huyện Sơn Tây và CA tỉnh có đến thăm và tăng quà cho HT trong dịp lễ Giáng sinh năm nay.
Thày TĐ Đinh Bành cũng được nhắc nhở là sinh hoạt tôn giáo theo đúng pháp luật và dưới sự hướng dẫn mục vụ của Giáo hội.
TTV Hướng Dương.

 

IMG_3160
Tặng quà cho QN và NS các HT ở 3 giáo khu thuộc tỉnh Quãng Ngãi.
IMG_3052
Tặng điện thoại di động cho MS Đinh Riều, QN HTTLLH Sơn Thành 1
IMG_2922
Lễ cung hiến nhà nguyện HTTLLH Sơn Màu 1
IMG_2926
Ms Hội trưởng tiếp nhận giấy cung hiến của quản nhiệm và đại diện ban chấp hành HT.
IMG_2933
Lễ công nhận HT mới.: HTTLLH Sơn Tinh 1
IMG_2943
MS Hội trưởng trao giấy công nhận Quản nhiệm cho TĐ Đinh Lành.
IMG_2963
Chương trình bồi linh làm chứng tại HTTLLH Sơn Màu.

IMG_2957

IMG_2950

IMG_2975
phát quà Giáng Sinh cho các HT thuộc giáo khu Sơn Tây.

IMG_2979 IMG_2982

IMG_3020
MS Hội trưởng giảng bồi linh cho các HT thuộc giáo khu Sơn Hà 2.
IMG_3035
Ms hội trưởng phát quà cho đại diện tất cả các gia đình trong giáo khu.

IMG_3039

IMG_3058
cuầ nguyện cho 3 thân hữu tiếp nhận Chúa và phát quà trại HT Phúc Âm Cứu Rỗi Sơn Hà

IMG_3068 IMG_3070

IMG_3074
Bồi linh và phát quà cho các HT thuộc giáo khu Sơn hà 1
IMG_3076
MSNC phụ tá hội trưởng giảng bồi linh cho HT.

IMG_3130

IMG_3120
phát quà cho các HT thuộc giáo khu Sơn hà 1
IMG_3143
Bồi linh và phát quà cho 9 QN và 9 nhân sự của 9 HT
IMG_3148
9 QN: Đinh Bành (HT Sơn Màu), Đinh Lành ( HT Sơn Tinh), Đinh Xuân Toa (HT Sơn Trung), Đinh Đùm (HT Di Lăng), Đinh Bót (HT Sơn Thượng 1), Đinh Hoàng (HT Sơn Thượng 2), Đinh Riều (HT Sơn Thành 1), Đinh Thành (HT Sơn Thành 2), Đinh Sĩ ( HT Sơn Giang1) Các nhân sự HT ngồi phía sau các QN.
IMG_3162 (1)
Các QN và nhân sự nhận quà và chụp hình lưu niệm.
IMG_3192

MSNC Nguyễn Thanh Hồng – giáo khu trưởng giới thiệu và mời MS Hội trưởng truyền giảng sứ điệp Giáng Sinh cho Giáo khu Cần Thơ tại HTTLLH Đông Thuận 1

MS Hội trưởng truyền giảng sứ điệp Giáng Sinh cho Giáo khu Cần Thơ tại HTTLLH Đông Thuận 1

  IMG_3195 IMG_3205 IMG_3206

 

MỪNG CHÚA GIÁNG SINH 2015 VÀ NĂM MỚI 2016

merry_christmas_2015_and_happy_new_year_2016_gifts

Thay mặt cho Giáo Hội Tin Lành Liên Hiêp Toàn Cầu- VN , xin gởi đến quý tôi tớ và con cái Chúa lời nguyện cầu Chúa ban Ân Điển cứu chuộc dư dật, Ân Tứ mục vụ dư thừa và Ân Huệ cuộc sống tràn đầy cùng một năm mới bình an trong ơn lành của Chúa.

Giáo Hội Trưởng
Mục sư Nguyễn Đức Na

Ban biên tập xin chân thành gửi đến quý độc giả lời cầu chúc một mùa Giáng Sinh an lành trong hồng ân của Chúa Cứu Thế Giê-xu và một năm mới tràn đầy sức sống mới Chúa ban.

Ban biên tập

 

BIẾT ĐƯỢC Ý CHÚA?

MỤC SƯ ƠI!

 -“Làm thể nào để biết được ý Chúa?”

y muon chua

-Nhiều tín hữu trẻ đang đặt câu hỏi nầy và tôi thấy đây là câu hỏi hay, xứng đáng để nghiên cứu và tìm được câu giải đáp thích hợp nhất. Tôi đọc trong một quyển sách của Mục sư Charles Stanley và thấy ông khẳng định theo kinh nghiệm của ông: “Mọi điều gì bạn làm ngoài ý Chúa đều sẽ thành tro bụi.” Cũng như  Kinh Thánh đã quả quyết: “Thế gian với sự tham dục nó đều qua đi nhưng ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (I Giăng 2: 17). Như vậy nếu bạn muốn mọi quyết định của bạn trong đời sống có giá trị lâu dài, hãy tìm kiếm ý Chúa và làm theo ý Chúa.

Có mấy nguyên tắc chúng ta cần nhớ. Trước hết, để biết ý Chúa chúng ta phải đầu phục Chúa hoàn toàn, nghĩa là chúng ta sẵn sàng nghe tiếng Chúa và quyết tâm vâng theo mọi mạng lịnh Chúa truyền cho chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thích nghe những gì mình muốn nghe thì chúng ta không thể tìm được ý Chúa. Một Mục Sư người Mỹ chia sẻ kinh nghiệm gia đình. “Nếu tôi nói với bọn trẻ: “Hãy đi ăn kem!” Hoặc, “Hè, chúng ta đi Disneyland!” thì dù nói nhỏ, các con tôi cũng nghe rõ và hưởng ứng hào hứng ngay. Nhưng nếu tôi bảo: “Hãy dọn dẹp phòng ngủ,” “Hãy xếp gọn đồ chơi,” “Hãy đem đổ thùng rác!” thì dường như bọn chúng tỏ vẻ không nghe, không hiểu tôi muốn nói gì.”

Ý Chúa luôn luôn bày tỏ ra trong Kinh Thánh. “Vậy chớ nên như kẻ dại dột, nhưng  phải hiểu rõ ý muốn của Chúa là thế nào” (Ê-phê-sô 5: 17). Trong Kinh Thánh có một số trường hợp chúng ta thấy Chúa phán rõ thành tiếng cho một số người. Chẳng hạn Chúa phán với ông Nô-ê (Sáng 7:1), với ông Áp-ra-ham (Sáng 17:1), với ông Môi-se (Xuất 3:14), với ông Giô-suê (Giô-sua 1:1-2), với Sa-mu-ên (1 Sa-mu-ên 3). Với Ê-li, Chúa lại phán với ông trong tiếng nói êm dịu nhỏ nhẹ (1 Vua 19:12). Khi đứng trước mặt Phi-lát, Chúa Giê-su nói, “Hễ ai thuộc về lẽ thật thì nghe tiếng ta” (Giăng 18:37). Chúa cũng phán, “Chiên ta nghe tiếng ta” (Giăng 10:4, 27). Nếu bạn muốn biết rõ ý Chúa là gì bạn hãy mở Kinh Thánh ra, đọc, suy gẫm và hứa làm theo. Hãy để ý tìm xem chỗ nào có nói đến ý muốn Chúa. Chẳng hạn: “Hãy vui mừng mãi mãi, cầu nguyện không thôi, phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa, vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-su đối với anh em là như vậy (1 Tes. 5:16-18). Chúa muốn chúng ta cảm tạ Chúa luôn. Hoặc: “Ý muốn của Đức Chúa Trời là khiến anh em nên thánh: tức là phải lánh ô uế, mỗi người phải biết giữ thân mình cho thánh sạch và tôn trọng, chẳng bao giờ sa vào tình dục luông tuồng như người ngoại đạo, là kẻ không nhìn biết Đức Chúa Trời” (1 Tes:3:3-5). Chúa muốn chúng ta sống thánh khiết luôn.

Nếu chúng ta không nghe được tiếng Chúa thì thường là vì chúng ta không chịu lắng nghe. Chúng ta quá bận với công việc và không có thì giờ dành cho Chúa. Chung quanh chúng ta từ sáng tới tối có bao nhiêu âm thanh ồn ào chi phối. Trên xe hơi chúng ta mở radio, mở CD nghe nhạc, nghe tin thế giới. Tối về đến nhà chúng ta mở TV nghe tin tức thời sự, xem phim. Suốt ngày chúng ta nghe chuông reo điện thoại, cell phone, quảng cáo. Chúng ta không có chút thì giờ để đọc Kinh Thánh, để cầu nguyện tìm kiếm Chúa. Và chúng ta than, “Tại sao Chúa không nói chuyện với tôi?” Thật ra, Chúa có nói đấy, nhưng chúng ta không có chú ý lắng nghe.

Có lẽ nhiều khi chúng ta chỉ muốn nghe Chúa phán cách to lớn phi thường chẳng hạn qua trận động đất, trong cơn bão tố, trong trận hoả hoạn. Chúng ta thường muốn có dấu hiệu rõ rệt là Chúa đang nói. Thay vào đó, nhiều lần Chúa phán thật nhỏ nhẹ, rõ ràng, trầm lặng và muốn nghe Chúa phán chúng ta phải hết sức chú ý lắng nghe. Cũng có nhiều khi Chúa phán với sâu thẳm lòng ta, tự lòng chúng ta biết. Đó là những lúc Chúa phán với chúng ta khi đọc Kinh Thánh, khi cầu nguyện, khi đang suy gẫm hay khi đang tiếp xúc người khác. Tôi có kinh nghiệm thường dành thì giờ ngồi thinh lặng một mình, sáng sớm, đêm khuya, tắt hết mọi thứ âm thanh xung quanh, và nhắm mắt mở tai lắng nghe Chúa nói, Chúa dạy và Chúa nhắc.Trong những giờ phút đó, tâm hồn tôi (noi gương của Sa-mu-ên) lên tiếng: -“Lạy Chúa, xin hãy phán, kẻ tôi tớ Ngài đang nghe.”

Muốn nghe biết ý Chúa, mỗi người trong chúng ta phải quyết tâm làm theo lời Chúa dạy. Nếu Chúa bảo chúng ta làm gì đó mà chúng ta quyết định không làm theo, Chúa sẽ không có gì để phán nữa. Chẳng hạn, Chúa dạy hãy tha thứ. Hãy tha thứ cho người khác trước khi kêu cầu Chúa. Chúa nhắc chúng ta hãy vâng lời ngay. Có một lời nhắc nhở của Chúa được chép trong Kinh Thánh: “Nếu lòng tôi chú về điều ác, ắt Chúa chẳng nghe tôi” (Thi Thiên 66:18). Vậy hãy dò xét lòng mình, giữ cho mối liên hệ cá nhân giữa mình với Chúa thông suốt trước khi tìm kiếm tiếng nói của Chúa.

discerning

Cũng nên nhớ có nhiều khi chúng ta thấy ý Chúa quá rõ, chúng ta không cần đi tìm làm chi. Chẳng hạn chúng ta không cần cầu nguyện để xem có nên hay không nên nói dối, hay làm chứng dối. Đây là một trong 10 điều răn của Chúa. Cũng không cần cầu nguyện để hỏi là ý Chúa có cho tôi ăn cắp hay không? Điều răn của Chúa nói rõ không được trộm cắp, giết người, gian dâm, tham lam…

Những điều gì hoàn toàn trái với lời Chúa thì không thể là ý Chúa. Chúa sẽ không cho chúng ta làm điều chi trái với bản tánh của Chúa. Chẳng hạn ý Chúa là “chớ lấy ác trả ác cho ai.” “Sự trả thù thuộc về ta, ta sẽ báo ứng.” Ý Chúa thể hiện rõ ràng qua những mạng lịnh bắt đầu bằng chữ “Hãy…”” Chớ…””Đừng…””Phải…” (Xem Rô-ma 12-16). Ý Chúa là mỗi người tin Chúa phải sống thánh khiết, sống yêu thương, làm sáng danh Chúa trong cách ăn nết ở của mình. Mỗi người chồng hay vợ đều phải biết thương yêu nhau, kính nhường nhau, xây dựng gia đình hạnh phúc, và bảo vệ gia đình tồn tại. Hãy thường hỏi: – “Việc nầy có làm sáng danh Chúa hay không?”

Hãy cùng tôi suy gẫm đến một lời hứa của Chúa về sự tìm biết ý Chúa. Sứ đồ Phao-lô viết thư cho người La Mã như sau: “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào” (Rô-ma 12:1-2).

Đây là một lời hứa có điều kiện. Lời hứa gì? – Chúng ta có thể biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời. Điều kiện gì? 1-Dâng thân thể mình làm một sinh tế sống cho Đức Chúa Trời. 2-Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình. Qua lời dạy của Phao-lô chúng ta cần tấm lòng hiến dâng, chúng ta cần đổi mới tâm trí mình. Những gì thế gian xuí giục, cám dỗ, lấn áp, mời gọi, đầy ắp trong tâm trí thì chúng ta phải xoá bỏ đi, giống như cách xử dụng máy tính (computer) là delete hết và hãy thay thế vào đó bằng lời dạy của Đức Chúa Trời. Hãy tập học thuộc lòng Kinh Thánh (nhất là những câu nói về ý Chúa và những câu lời hứa của Chúa).

Con người chúng ta được điều khiển bởi tâm trí chúng ta. Vì thế muốn đời sống được đổi mới chúng ta cần đổi mới tâm trí chúng ta.  Phao-lô viết: “Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều chi chân thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thanh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến. Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an sẽ ở cùng anh em” (Phi-líp 4:8-9). Đổi mới tâm trí bằng cách thay đổi nếp suy nghĩ. Hằng ngày. Nghe và làm theo lời Chúa bạn sẽ được phước. Hãy quyết tâm làm người mới, suy nghĩ theo lời Chúa, hãy noi gương Phao-lô, noi gương Chúa Giê-su, mỗi ngày gần guĩ với Chúa, bạn sẽ được đổi mới, bạn sẽ sống bình an.

Mục sư Greg Laurie có chỉ dẫn chúng ta áp dụng những nguyên tắc sau đây khi tìm kiếm ý Chúa:

  1. Nghiên cứu Lời Chúa trong Kinh Thánh.

  2. Hãy chú ý xem hoàn cảnh đang xảy ra khi Chúa dẫn dắt.

  3. Tìm kiếm sự bình an của Chúa trong tâm hồn mình.

Mục sư Greg Laurie có chỉ dẫn chúng ta áp dụng những nguyên tắc sau đây khi tìm kiếm ý Chúa: Nghiên cứu Lời Chúa trong Kinh Thánh. Hãy chú ý xem hoàn cảnh đang xảy ra khi Chúa dẫn dắt. Tìm kiếm sự bình an của Chúa trong tâm hồn mình.

Khi bạn biết kiên nhẫn chọn điểm hẹn và giữ giờ hẹn với Chúa mỗi ngày trong đời sống theo Chúa, bạn sẽ nghe được ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Chúa. Cũng hãy tiếp tay với chúng tôi để nói với các thân hữu người Việt của chúng ta rằng: ý muốn của Chúa là không muốn một người nào chết mất, nhưng muốn mọi người ăn năn để được Chúa cứu và được đến thiên đàng.

Mục Sư Nguyễn Văn Huệ

BIẾT ƠN ĐẤNG TẠO HÓA

Biết Ơn Đấng Tạo Hóa

Sứ điệp truyền giảng Thanksgiving 2015

• Mục sư Lê Văn Thể

• Kinh Thánh: Giăng 3: 16-21

• Câu gốc: “Tạ ơn Đức Chúa Trời, vì sự ban cho của Ngài không xiết kể.” (2 Cô-rinh-tô 9: 15)

Kính thưa quý tôi tớ Chúa, quý ông bà anh chị em và quý thân hữu. Xin thay cho Hội Thánh Nước Hằng Sống, chúng tôi kính gửi đến quý ông bà anh chị em lời chào mừng thân ái trong tình yêu của Chúa Jê-sus. Chúng tôi hân hoan chào mừng quý thân hữu đã nhận lời mời của Hội Thánh chúng tôi, đến đây tham dự chương trình này. Chúng tôi không quên chào mừng quý vị phụ huynh của lớp Việt Ngữ, đã nhận thư mời của chúng tôi và có mặt hôm nay. Cầu xin Ba Ngôi Đức Chúa Trời ban phước dư dật trên quý ông bà anh chị em, quý vị thân hữu một Lễ Tạ Ơn tràn đầy niềm vui và phước hạnh!

Thưa quý ông bà anh chị em,

Mỗi năm một lần, tại xứ sở Hoa Kỳ, nơi chúng ta đang sinh sống đây, khắp mọi nơi từ gia đình cho đến Hội Thánh, cho dù tin Chúa hay chưa tin Chúa, người ta cũng thường tổ chức Lễ Thanksgiving để bày tỏ lòng biết ơn Chúa; hoặc tổ chức những buổi tiệc mừng để gia đình đoàn tụ trong những dịp này. Như vậy, ý nghĩa của Thanksgiving là gì? Tại sao chúng ta phải biết ơn Đấng Tạo Hóa? Nương trên lời Chúa, chúng tôi xin lần lượt giải bày qua hai phần giảng luận sau đây:

I. Ý nghĩa Thanksgiving

Thanksgiving trong tiếng Anh là danh từ kép: Thanks là cảm ơn; giving là sự ban cho. Trong tiếng Việt, chúng ta có thể hiểu Thanksgiving là sự tạ ơn Đức Chúa Trời về sự ban cho của Ngài. Thông thường trong văn hóa và ngôn ngữ của người Việt, chúng ta dùng động từ “tạ ơn” là một hành động biết ơn kèm theo một của lễ, với thái độ khiêm cung, kỉnh kiềng đối với người đáng kính trọng. Còn biết ơn một người nào đó, đôi khi chỉ là những lời nói bày tỏ sự cảm ơn chân thành, một ánh mắt thân thiện, một nụ cười diễn tả sự cảm nhận trước sự giúp đỡ của người khác. “Tạ ơn ” dịch từ tiếng Anh “Thanksgiving” ở đây, mang ý nghĩa biết ơn Đấng cao trọng, đáng kính, và được tôn thờ ở vị trí cao nhất trong đời sống của chúng ta ; chính là Thượng Đế, là Đức Chúa Trời .

Thanksgiving gắn liền với lịch sử nước Mỹ, khi những người đi tìm Tự Do vì chế độ hà khắc trong việc thu thuế cao của chính quyền Anh Quốc. Đặc biệt trong số đó, có nhiều con dân của Chúa tin nhận Chúa Je-sus, thờ phượng Đức Chua Trời bị bắt bớ đạo, tìm đất mới để được tự do thờ phượng và thực hành nếp sống đạo của mình.

Theo tài liệu của Wikipedia (Bách khoa toàn thư) có ghi chép:

1. Lễ tạ ơn và lịch sử nước Mỹ

Lễ Tạ ơn gắn liền với các lễ hội ngày mùa thường được tổ chức ở châu Âu từ xưa.

Trong truyền thống Anh, ngày tạ ơn và nghi lễ tôn giáo tạ ơn đặc biệt trở nên quan trọng trong quá trình “Cải chánh” tại Anh trong thời kỳ trị vì của vua Henry VIII.

Tại Bắc Mỹ, lễ hội này đầu tiên được tổ chức tại Newfoundland bởiMartin Frobisher và nhóm Thám hiểm Frobisher năm 1578, để mừng tạ ơn Chúa đã cho sống sót, qua cuộc hành trình dài và nhiều bão tố từ Anh. Một lễ hội khác được tổ chức vào ngày 4 tháng 12 năm 1619 khi 38 người khai hoang từ giáo khu Berkeley xuống thuyền tại Virginia và tạ ơn Thượng đế.

Tuy nhiên trước đó, cũng có thông tin về một buổi tiệc Tạ ơn tổ chức bởi Francisco Vásquez de Coronado (cùng với nhóm người da đỏ Teya) ngày 23 tháng 5 năm 1541 tạiTexas, để ăn mừng việc họ tìm ra lương thực. Một số người cho rằng đây là cuộc tổ chức Tạ ơn thật sự đầu tiên tại Bắc Mỹ. Một sự kiện tương tự xảy ra một phần tư thế kỷ sau, vào ngày 8 tháng 9 năm 1565 tại St. Augustine, Florida khi Pedro Menéndez de Avilés gặp đất liền; ông và những người trên thuyền đã tổ chức một buổi tiệc với người bản xứ.

2. Sự tích về Lễ Tạ ơn

Vào khoảng thế kỷ 16-17, một số người theo Công giáo và Thanh giáo tại Anh bị hoàng đế lúc đó bắt cải đạo để theo tôn giáo của ông ta, trong cuộc Cải cách Tin Lành. Những người này không chấp nhận và bị giam vào tù. Sau khi giam một thời gian vị hoàng đế truyền họ lại và hỏi lần nữa, họ vẫn quyết không cải đạo. Hoàng đế không giam họ vào tù nữa mà nói với họ rằng nếu họ không theo điều kiện của ông ta thì họ phải rời khỏi nước Anh.

Những người này rời khỏi Anh đến Hà Lan sinh sống nhưng họ sớm nhận ra mình không thể hoà nhập ở nơi này và lo sợ con cháu của họ sẽ bị mất gốc, một số nhóm người rời khỏi Hà Lan để đến Tân Thế Giới (Châu Mỹ) sinh sống, và sau này thường được gọi làNgười lữ hành (Pilgrims). Những người này đi trên một con thuyền tên là Mayflower, họ đặt chân đến Thuộc địa Plymouth thuộc vùngTân Anh (New England) khi đang mùa đông. Đói và lạnh, một nửa trong số họ không qua nổi mùa đông khắc nghiệt. Đến mùa xuân, họ may mắn gặp được những thổ dân da đỏ tốt bụng và cho họ ít lương thực. Người da đỏ dạy họ những cách sinh tồn ở vùng đất này như cách trồng hoa màu, săn bắt,… Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Đức Chúa Trời vì đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ. Từ đó về sau, hằng năm con sống. cháu của người Pilgrims luôn tổ chức lễ tạ ơn để cảm ơn cho những gì tốt đẹp đã đến với cuộc sống.

Tại Hoa Kỳ, Tổng Thống George Washington lúc lên cầm quyền đã chọn ngày 26 tháng 11, năm 1789 là ngày Lễ Tạ Ơn chung cho toàn quốc. Sau đó thì mỗi tiểu bang có một ngày Lễ Tạ Ơn riêng. Đến năm 1863, Tổng Thống Lincoln chọn ngày Thứ Năm chót của tháng 11 là ngày Lễ Tạ Ơn chung cho toàn quốc cả Nam lẫn Bắc. Tới năm 1939, TổngThống Roosevelt ấn định lại ngày Lễ Tạ Ơn cũng vào ngày Thứ Năm tháng 11, nhưng sớm hơn một tuần. Năm 1942, Quốc Hội quyết định ngày Lễ Tạ ơn trở lại ngày cũ của Tổng Thống Lincoln.

3. Tổ chức truyền thống: 

Theo tài liệu, buổi Lễ Tạ Ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ, do người Pilgrims tổ chức, là vào năm 1621 tại Thuộc địa Plymouth, ngày nay thuộc Massachusetts, sau một vụ thu hoạch được mùa. Gà tây nướng lò, một món ăn thường thấy trong ngày Lễ Tạ Ơn & Bánh Pumpkin (Pumpkin pie) thường dùng trong mùa Lễ Tạ Ơn tại Bắc Mỹ.

Lễ Tạ Ơn thường được tổ chức với một buổi tiệc buổi tối cùng với gia đình và bạn bè với món thịt gà tây. Tại Canada và Hoa Kỳ, nó là một ngày quan trọng để gia đình sum họp với nhau, và người ta thường đi xa để về với gia đình. Người ta thường được nghỉ bốn ngày cuối tuần cho ngày lễ này tại Hoa Kỳ. Lễ Tạ Ơn thường được tổ chức tại nhà, khác với ngày Lễ Độc lập Hoa Kỳ hay Giáng Sinh.

II. Tại sao chúng ta phải biết ơn Đấng Tạo Hoá ?

1. Noi gương Chúa Je-sus

Thưa quý ông bà anh chị em! Kinh Thánh (2 Cô-rinh-tô 9: 15) có chép rằng:

“Tạ ơn Đức Chúa Trời, vì sự ban cho của Ngài không xiết kể.”

Sự biết ơn Đức Chúa Trời là nếp sống tự nhiên của Cơ Đốc Nhân. Sự biết ơn là nền tảng đạo đức mà Đức Chúa Trời đã đặt trong lòng của mỗi con người mà Ngài đã tạo dựng. Chúa Jê-sus cũng đã làm gương cho chúng ta trong sự tạ ơn Đức Chúa Trời:

“Đức Chúa Jêsus lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn, rồi bẻ bánh ra mà trao cho môn đồ, đặng phát cho đoàn dân; lại cũng chia hai con cá cho họ nữa.” (Mác 6:41). 

Trong đời sống của chúng ta, chắc không ai muốn lam một kẻ vô ơn, bội nghĩa đối với những người đã từng giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, khó khăn. Thái độ biết ơn vừa là một nét văn hóa tốt đẹp của con người, thuộc bất cứ dân tộc nào. Thái độ đó làm vui lòng mọi người. Biết ơn người khác, cho dù chỉ là sự giúp đỡ mình nhỏ nhặt trong cơn khốn khó, hoặc sự thăm viếng, an ủi, trong những lúc gia đình gặp tang chế, tai nạn, ốm đau, vv… Dù sự ban ơn trong hoàn cảnh nào đi nữa, là con người biết đạo nghĩa, chúng ta không thể quên ơn. Ngược lại, kẻ vô ơn luôn bị xã hội lên án, khinh rẻ. Tôi có đọc được một bài viết mà tác giả so sánh giữa hai hạng người ” biết ơn” và “vô ơn” như sau:

” Người càng biết ơn càng thấy mình hạnh phúc vì tất cả những gì họ lãnh nhận được từ Thượng Đế, từ những người khác đều nhắc nhở họ về cái nguồn gốc hạnh phúc mà mình có được. Họ biết rằng họ được thương yêu, và được mọi người giúp đỡ. Cũng như họ biết họ phải làm gì đối với những người kém may mắn và đang cần sự giúp đỡ của họ.

Biết ơn và vô ơn là hai thái độ sống mà chỉ cần quên đi cái cội nguồn của mình, quên đi con người thật của mình là con người rất dễ rơi vào lối sống vô ơn. Vì thái độ và lối sống vô ơn không gì khác hơn chính là chối bỏ tất cả những gì mình đã và đang lãnh nhận từ Thượng Đế, từ cha mẹ, ông bà, tổ tiên, từ sự giúp đỡ của anh chị em, những người chung quanh, hay từ xã hội.

Đối với những kẻ vô ơn, thì mặc cảm nhận ơn dẫn đến lối sống ích kỷ của họ. Những người vô ơn chính là những người không muốn trao ra, không muốn để mình bị ràng buộc bởi thái độ biết ơn để rồi phải trả ơn. Nhưng càng ích kỷ sống cho riêng mình, những người vô ơn càng trở thành nghèo nàn, cô độc, và dĩ nhiên cuộc sống của họ là một chuỗi những bất hạnh. Họ luôn luôn canh chừng có ai đó đến xin xỏ, hoặc cặp mắt họ phải nhìn thấy những hình ảnh đánh động lương tâm mà họ phải ra tay giúp đỡ. Đối với họ, một đồng giúp đỡ người nghèo khó là một nhát giao cắt tỉa vào cái túi tham và ích kỷ của họ. Họ là những người thực hiện đúng nhất câu: “Đồng tiền liền khúc ruột.” Và chính vì vậy, họ khổ sở, đau đớn mỗi khi bất đắc dĩ phải cho ai, giúp ai dù chỉ là một đồng, hoặc ngay cả đến một ánh mắt yêu thương, một nụ cười cảm thông. Những người vô ơn, do đó, luôn sống trong tâm lý nghèo nàn, co cụm. Họ không có bạn bè; không có ai thân thiết.

Ngoài thái độ ích kỷ, người vô ơn còn rơi vào tư tưởng tự tôn và tự đại. Họ sống với ảo tưởng cho rằng tất cả những gì họ đang có là đến từ tài năng, trí tuệ, và sức lao động của họ. Ảo tưởng tự mình mà có ấy cũng dẫn đến thái độ chối bỏ tất cả. Không nhìn nhận sự hiện diện của Thượng Đế trong đời sống của mình, người vô ơn cứ tưởng rằng mình là chủ vũ trụ này, là chủ cuộc đời này, và là chủ của chính mình. Do đó, khi việc gì xảy ra không như ý họ muốn, lập tức họ trở nên cay đắng, giận hờn, và thù ghét tất cả kể cả chính họ. Họ sống trong tâm lý bất an. Thêm vào đó, tâm lý tự tôn cũng làm cho họ chối bỏ những đóng góp của mọi người. Người vô ơn không hiểu được câu nói: “Không ai là một hòn đảo.” Chính vì tự cho mình là một hòn đảo giữa biển trần mênh mông, nên đời sống của những ngưòi vô ơn rất cô đơn, lạc lõng…(1)

Quả thật như vậy, chúng ta thường thấy người vô ơn luôn sống trong bất hạnh vì mọi người xa lánh. Người vô ơn không biết ” vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc” như sự dạy dỗ của lời Chúa. Thấy anh em mình gặp khốn khó, họ giả bộ làm ngơ. Thấy anh em mình nhận được nguồn phước hạnh nào đó, họ trốn tránh không muốn chia sẻ niềm vui, vì tấm lòng nhỏ mọn và ganh tị. Thật đáng thương thay!

Người vô ơn chỉ muốn sống trong cái vỏ sò cô độc, họ giao du với người khác chẳng qua là để lợi dụng. Sau đó, họ liền quên ơn, bội bạc. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) Ông đỗ Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) của nước Việt đã từng than thở:

” Còn bạc còn tiền, còn đệ tử

” Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi!

Ca-dao Việt Nam có câu:

” Thớt có tanh tao ruồi muỗi đậu

” Gan không mật mỡ kiến bò chi!

2. Gìn giữ nét văn hóa tốt đẹp

Trở về với câu chuyện của người Việt của bốn mươi năm trước. Tôi không muốn nhắc lại những dấu ấn thương đau này; bởi vì tôi rất sợ khơi lại những vết thương lòng; tưởng chừng như đã chôn sâu vào quá vãng. Nhưng, sự thật những vết thương ấy vẫn còn ở đâu đó trong tâm khảm của những người dân Việt chúng ta, thật khó phai mờ! Làm sao quên được những ngày lênh đênh trên biển cả, biết bao nhiêu anh chị mình, con cháu mình, bạn bè và thân hữu của mình đã nằm xuống trong tức tưởi, bởi những nỗi oan khiêng. Họ đã chết vì cướp biển, bị hãm hiếp, bị bão tố, bị đói lạnh và kiệt sức. Họ đã làm mồi cho cá, bỏ thây trên những mồ chôn tập thể. Những kẻ sống sót vì đã kêu cứu “Ông Trời.” “Ông Trời” đã nghe thấy và đáp lời giải cứu họ khỏi sự hiểm nguy. Khi đến được bến bờ tự do, thay vì thờ phượng “Ông Trời”, một số đông người trong chúng ta lại đi thờ lạy “ông bình vôi”, “ông địa…” được nắn lên bằng đất sét, bởi tay người làm ra, là những vật câm, điếc, vô tri, vô giác. Điều đó, có hợp lý chút nào không, thưa quý ông bà anh chị em?

Giả sử chúng ta biết ông Nguyễn Văn X là cha đẻ của mình; nhưng chúng ta từ chối ông X, không bào giờ nhận ông ấy là cha, không hề thăm viếng, chuyện trò hay chăm sóc. Chúng ta xem ông ấy như người xa lạ, chẳng quen biết gì với mình! Chúng ta đi nhận người hàng xóm làm cha nuôi. Chúng ta mua thức ăn, hoa quả cung phụng cho người hàng xóm đó. Thử hỏi người cha ruột của mình có vui lòng chăng?

3. Sự hiểu biết Kinh Thánh

Cũng một thể ấy, Đấng Tạo Hoá chính là Đức Chúa Trời, Ngài đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật và con người, trong đó có ông bà tổ phụ chúng ta, và chúng ta ra từ cha mẹ ông bà tổ phụ của mình. Nhưng, chúng ta từ chối Đấng Tạo Hóa, phủ nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời; thay vì thờ phượng Ngài, chúng ta đi thờ ma lạy quỷ, thờ tiền tài, danh vọng, thờ điểu thú côn trùng Điều đó có hợp lý không, thưa quý ông bà anh chị em?

Kinh Thánh Cựu Ước, sách Sáng Thế Ký chép như thế này:

” Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất (Chương 1:1)

” Đức Chúa Trời phán rằng phải có các vì sáng trên trời, đặng phân ra ngày và đêm, và dùng làm dấu để định thì tiết, ngày và năm (Chương 1: 14)

” Đức Chúa Trời lại phán rằng: Đất phải sanh các vật sống tuỳ theo loại, tức súc vật, côn trùng,và thú rừng đều tùy theo loại, thì có như vậy.” (Chương 1: 24). 

” Đức Chúa Trời phán rằng: “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên đất và khắp cả đất ( Chương 1: 26). 

Thưa quý ông bà anh chị em,

Kinh Thánh là quyển sách độc nhất vô nhị không bao giờ sai trật. Nếu sai trật thì đã bị đào thải từ lâu rồi. Nhưng từ bao nhiêu thế kỷ qua, trước khi Chúa Je-sus ra đời thì Kinh Thánh Cựu ước đã có. Sau khi Chúa Jesus vào đời, Kinh Thánh Tân ước đã được viết và tồn tại ho đến ngày nay. Hàng tỉ người trên thế giới đang đọc, học, và suy gẫm Kinh Thánh từng phút giây. Kinh Thánh là quyển sách bán chạy nhất trong tất cả những quyển sách trên thế gian này. Như vậy, Kinh Thánh không thể là quyển sách chép những chuyện hoang đường. Sách Tân ước, Ti-mô-thê (chương 3: 16) khẳng định: ” Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ich cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình.”

Chúng ta tạ ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã dựng nên muôn loài vạn vật, và con người. Còn một lý do khác nữa là chính vì tình yêu của Đức Chúa Trời đối với loài người. Chúng ta đã và đang vấp phạm nhiều tội lỗi, từng trải từ bản thân những suy nghĩ, hành động, lời nói… theo đều ác. Chúng ta ít nhiều cũng đang nhìn thấy những gì đang xảy ra cho thế giới ngày hôm nay. Con người đang say sưa chém giết, khủng bố, ôm bom tự sát, giết chết đồng loại vô tội, gần đây nhất là biến cố thứ Sáu ngày 13 tháng 11 vừa qua xảy ra tại Paris, giết chết 129 người vô tội và hàng trăm người khác bị thương tích. Thế giới diễn ra mỗi ngày, những bức tranh con người tra tấn con người, bóc lột tận cùng những kẻ nghèo khó, neo đơn, hà hiếp kẻ bần cùng, khố rách, vv…

Thay vì hủy diệt con loài người như cơn lụt đại hồng thủy được chép trong Thánh Kinh Cựu ước; Đức Chúa Trời lại sai Chúa Je-sus là Con độc sanh của Ngài, xuống trần gian làm người và chịu chết trên thập tự giá cách đây 2015 năm; để chuộc tội lỗi của chúng ta. Kinh Thánh (Giăng 3: 16) chép:

“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”

Đức Chúa Trời vì quá yêu thương loài người mà chính Ngài đã nắn lên từ bụi đất, nhưng con loài người đã không vâng theo đường lối của Ngài, cho nên hai con người đầu tiên là A-đam và Ê-va đã phạm tội trong vườn Ê-den, chống nghịch lại mạng lịnh của Đức Chúa Trời, đã ăn trái cấm. Từ đó, con người bị đuổi ra khỏi vườn, và đó là nguyên nhân tạo nên sự lao khổ và cái chết. Đức Chúa Trời không muốn con loài người bị chết mất trong lửa điạ ngục, nên Ngài đã ban Con của Ngài xuống trần gian, và Ngài đã chết thay cho chúng ta, để cứu vớt linh hồn của chúng ta có được sự sống đời đời.

Người dân Hoa Kỳ hôm nay biết ơn Đấng Tạo Hóa qua Lễ Thanksgiving; vì họ tưởng nhớ đến sự ban cho của Đức Chúa Trời qua những vụ được mùa, có đầy đủ luơng thực trong những ngày đông lạnh lẽo, đi tìm đất mới. Còn chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta được sống sót sau những cuộc hành trình vượt biển đầy chết chóc, chúng ta được sống sót qua những trại tù kinh khiếp mà con người bị đối xử tàn bạo hơn bao giờ hết. Hôm nay đây, chúng ta có nhà ở, có xe hơi đi lại, có lương thực dư thừa, nhất là có hai chữ TỰ DO. Nhận được những ân sũng như vậy, chúng ta có nên biết ơn Đức Chúa Trời hay từ chối Ngài vĩnh viễn, gạt bỏ luôn Chúa Je-sus là Đấng đã chết thay cho tội lỗi chúng ta?

Kết luận:

Tôi xin kể câu chuyện sau đây về tấm lòng biết ơn của một người học trò có tên là James Mitchener. Ông ta là một nhà văn danh tiếng, được Tổng Thống Eisenhower mời dự một dạ tiệc tại Tòa Bạch Ốc ở Hoa Thịnh Đốn. Nhưng nhà văn viết thư từ chối, lời lẽ đại khái như sau:

– Thưa, Tổng Thống, ba ngày trước nhận được thư mời của Tổng Thống, tôi lại được một trường trung học nhỏ mời dự bữa ăn tối, và nhân dịp này tôi được nói ít lời để tỏ lòng biết ơn một vị giáo sư đã dạy tôi ở ban trung học, là người tôi hết sức kính mến. Tôi nghĩ rằng trong buổi dạ tiệc ở dinh Tổng Thống, tôi có mặt hay không cũng không quan trọng. Nhưng, nếu tôi vắng mặt ở buổi tiếp tân của trường trung học ở đây, chắc giáo sư của tôi sẽ buồn lắm.

Khi nhận được thư từ chối này, Tổng Thống Eisenhower liền trả lời rằng:

– Trong một đời người, chúng ta có thể có đến mười lăm hay mười sáu vị Tổng Thống, nhưng không dễ gì có được một vị giáo sư đáng kính mến như vậy.

Thưa quý vị thân hữu,

Thế gian này, đầy những trò lừa thầy, phản bạn. Nhưng, cao quý thay còn có những người như nhà văn James Mitchener còn nhớ đến vị thầy của mình và biết ơn thầy, sợ thầy buồn khi mình vắng mặt. Nếu mỗi chúng ta không biết ơn và không thờ phượng Đấng tạo Hóa thì chắc chắn chúng ta sẽ bị đóan xét, nghĩa là chúng ta sẽ bị hư mất trong lửa điạ ngục. Lời Chúa dạy:

” Hỡi kẻ trẻ kia, hãy vui mừng trong buổi thiếu niên, khá đem lòng hớn hở trong khi còn thơ ấu, hãy đi theo đường lối lòng mình muốn, và nhìn xem sự mắt mình ưa thích, nhưng phải biết rằng vì mọi việc ấy, Đức Chúa Trời sẽ đòi ngươi đến mà đoán xét ( Truyền đạo 11:9)

” Trong buổi còn thơ ấu, hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hoá ngươi, trước khi những ngày gian nan chưa đến, trước khi những năm tới mà ngươi nói rằng: Ta không lấy làm vui lòng, trước khi ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và các ngôi sao chưa tối tăm, và mây chưa lại tuôn đến sau cơn mưa (Truyền đạo 12: 1,2)

Thưa quý vị thân hữu,

Lời của Chúa cho chúng ta biết rằng, mọi thứ rồi sẽ đi qua, không có gì tồn tại vĩnh viễn. Như vậy, đừng mãi mê chất chứa của cải trần gian, đừng mãi chạy theo những danh vọng hão huyền! Khi ngày Chúa Je-sus đến, những kẻ chối Chúa không thờ phượng Ngài sẽ nhận lấy số phận kinh khiếp, đó chính là hồ lửa của điạ ngục. Lời của Chúa được chép trong sách Giăng (chương 3: 17, 18) khẳng định điều này:

” Vả, Đức Chúa Trời đã sai con Ngài đến thề gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho thế gian nhờ Con ấy mà được cứu. Ai tin Ngài thì chẳng bị đoán xét đâu, ai không tin Ngài đã bị đoán xét rồi vì không tin đến danh Con một Đức Chúa Trời.”

Thưa quý vị thân hữu!

Qua các tiết mục tôn vinh Chúa, cũng như nội dung bài giảng luận của chúng tôi hôm nay, tôi tin rằng quý vị thân hữu và các bạn đã hiểu được ý nghĩa về ngày Lễ Tạ Ơn. Là một tôi tớ của Đức Chúa Trời, tôi thiết tha kêu gọi quý ông bà anh chị em hãy bày tỏ sự biết ơn Đấng Tạo Hóa; bằng cách tiếp nhận Chúa Je-sus làm Cứu Chúa của mình ngay hôm nay và giờ này. Ngày Thanksgiving năm nay sẽ đánh dấu sự cứu rổi mà quý vị và các bạn nhận được từ Chúa Jesus.

Từ đây, cuộc đời của quý vị và các bạn sẽ sang trang. Một con người mới sẽ bắt đầu những ngày tháng phước hạnh, hy vọng, tràn ngập niềm vui trong tâm hồn. Quý vị sẽ không còn cảm thấy cuộc đời vô vị, trống không khi tuổi mỗi ngày mỗi lớn. Quý vị sẽ không hối tiếc những ngày đáng sống, vì được làm con của Đấng Tối Cao, là Đức Chúa Trời Hằng Hữu. Quý vị sẽ được bàn tay của Chúa Je-sus nắm lấy bàn tay của mình, dắt đi trên mọi nẻo đường. Quý vị sẽ không bước đi trong cô đơn, buồn tủi. Trái lại, những ngày tháng được Chúa Thánh Linh đồng hành, quý vị sẽ nếm trải được tình yêu vô bờ bến mà Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho mình qua Chúa Cứu Thế Je-sus. Kinh Thánh (Giăng 3: 16) đã hứa: ” Hễ ai tin Con ấy, thì không bị hư mất mà nhận được sự sống đời đời.” 

Quý vị và các bạn ôi! Ngay trong giờ phút trọng đại này, cuộc sống của quý vị và các bạn sẽ bước sang một ngã rẽ mới đầy ý nghĩa; nếu quý vị sẵn sàng mời Chúa Jesus ngự vào lòng và làm chủ cuộc đời của mình. Vì vậy, chúng tôi thiết tha kêu gọi quý vị thân hữu và các bạn hãy mạnh dạn rời chỗ ngồi của mình, lên đây chúng tôi sẽ hướng dẫn cho quý vị và các bạn tiếp nhận Chúa Jê-sus làm Cứu Chúa của mình.

Hãy nhanh chân, đừng bỏ qua cơ hội quý giá này!

Mục sư Lê Văn Thể

________________________________

(1) Trần Mỹ Duyệt

LÀM SAO SỐNG CHẲNG CÒN LO PHIỀN

Để quý tôi con của Chúa vừa nhận được sự dạy dỗ của lời Ngài và trau dồi tiếng Anh. Ban Biên Tập đăng kèm phần dịch của Mục sư Nguyễn Đức Na,   sát nghĩa  của từ ( words) và sát với cấu trúc ngữ pháp ( grammartical structure) trong câu mà vẫn giữ được ý nghĩa trong sáng của toàn  bài viết bằng tiếng Anh.

(Philíp 4:6)

“Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, 

và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời.”

( Do not be anxious about anything, but in every situation, by prayer and petition,

with thanksgiving, present your requests to God.)

I. Mục Đích của Ma Quỉ

     God has a prosper plan and a great future for His children, as promised in Jeremiah 29:11“For I know the plans I have for you,” declares the Lord, “plans to prosper you and not to harm you, plans to give you hope and a future.”

(Đức Chúa Trời có chương trình riêng và tương lai tuyệt vời cho con dân Ngài theo lời hứa  như trong Giêrêmi 29:11 chép rõ – “Vì chính Ta biết rõ chương trình Ta hoạch định cho các ngươi. Ta có chương trình bình an thịnh vượng cho các ngươi, chứ không phải tai họa. Ta sẽ ban cho các ngươi một tương lai đầy hy vọng.”)

A good picture for this blessed life in the Bible is like “a tree planted by streams of water, which yields its fruit in season and whose leaf does not wither— whatever they do prospers.”

(Hình ảnh của một đời sống phước hạnh  được diễn tả trong Kinh Thánh như “cây được trồng gần dòng nước, sanh bông trái theo thì tiết, lá nó cũng chẳng tàn héo – Mọi sự người làm đều sẽ thạnh vượng.”)

But the devils also have a plan to destroy God’s church and choke our faith.

(Nhưng cùng một lúc ma quỉ  cũng có một kế hoạch phá hoại hội thánh của Đức Chúa Trời và làm rúng động đức tin của chúng ta .) 

In addition to all kinds of temptations they are throwing at us, the devils also cast a big worry net over our life, to weaken our faith in God.

(Ngoài những cám dỗ, ma quỉ xuí dục và dụ dỗ chúng ta làm những điều ác nghịch cùng Chúa, ma quỉ còn bủa giăng một mẻ lướibuồn phiền phủ trên cuộc sống của chúng ta để làm cho  đức tin của chúng ta trong Chúa bị suy kém.)

  Who would not be worry in this life?

( Ai sẽ không lo lắng trên đời này ? )

It is strange that America is the richest country in the world, but we are those who appear to have a lot of worries?

(Điều kỳ lạ là nước Mỹ một đất nước giàu nhất thế giới, nhưng có lẽ chúng ta lại là những người đang tỏ ra  nhiều  nỗi lo lắng nhất?) 

What are some of things we are worrying?

(Chúng ta đang lo lắng những gì?)

1) The majority of people living in US worries about their job security

( Đa số những người sống ơ Mỹ hay lo lắng  về công ăn việc làm của họ.)

Not just for those who are looking for works, but also those are hiring workers worrying about the rise of minimum wages.

(Không chỉ những người đang tìm việc làm, nhưng những người đang thuê  mướn người làm  cũng đang lo lắng về sự gia tăng lương tối thiểu.) 

2) Parents worry for their kids growing up whether they will make wise decisions in life?

(Các bậc làm cha mẹ lo cho con cái mình khi lớn lên không biết chúng nó có những quyết định khôn ngoan trong cuộc đời hay không?)

 3) Some people worry about all kinds of sicknesses.

(Một số người lo sợ có sẽ bị mắc đủ thứ bịnh,)

4) Others worry who they will mary.

(Số người khac thì  lo lắng không biết sẽ lập gia đình với ai.)

5) Young people today worry a lot about how the crowds would accept them, this calls pure pressures.

(Giới trẻ ngày nay thì thường lo lắng nhiều làm sao đám đông chung quanh sẽ chấp nhận họ, điều này gọi là những  áp lực thuần tuý/ trong sáng.)

6) We living in America are worrying of the home-grown ISIL terrorists.

(Chúng sống ở Hoa kỳ đang lo lắng cho nan đề bành trướng của bọn khủng bố  ISIL ngay trong nước .)

7) We worry about our nation security from computer hacking, theft identity, to drones used as terrorism weapons.

(Chúng ta lo lắng  về sự an ninh quốc gia, không biết chính phủ có bảo vệ khỏi những cuộc khủng bố vì tin tặc, nhất là với kỹ thuật hi-tech ngày hôm nay người ta có thể dùng những máy “drone” (máy bay nhỏ)  được dùng như vũ khí để khủng bố.)

8) Nations worry about wars, and destructive nuclear bombs.

( Các quốc gia thì lo lắng về chiến tranh, bom nguyên tử tàn phá hủy diệt.)

9) We also worry about the decay of morality.

(Chúng ta cũng  lo lắng cho đạo đức của xã hội đang suy đồi/ bại hoại .)

 In Matthew 13, Jesus taught the parable of a Sower about the seed and 4 diffferent types of soil.

(Trong  Kinh Thánh Mathiơ 13  Chúa Jesus dạy về ẩn dụ của người gieo giống; và 4 loại đất khác nhau . )

Seed represents the Good news of salvation to be “spreaded” throughout the world, and soil represents the heart of those who will receive.

(“Hạt giống” là tượng trưng cho Tin Lành cứu rỗi được “gieo ra” khắp thế gian, còn “đất” tiêu biểu cho tấm lòng của những người nghe mà họ sẽ tiếp nhận ).

In this parable, Jesus mentioned 4 different kinds of seeds. The good soil produces fruits in the order of 30, 60, even 100 folds.

(Trong ẩn dụ này Chúa lưu ý đến 4 loại giống khác nhau.  Loại đất tốt sanh ra và kết quả theo thứ tự được 30, 60, ngay cả 100 lần ).

But the other 3 types of soils could not produce good fruits because they are choked by small rocks and bushy thorns as said in Matthew 13:22 – “The seed falling among the thorns refers to someone who hears the word, but the worries of this life and the deceitfulness of wealth choke the word, making it unfruitful.”

(Còn 3 loại đất còn lại thì vì có ít đất, nhiều đá sỏi hay những bụi gai mà khi hạt giống tốt nẩy mầm thì đã bị chẹt, làm cho không thể lớn lên hay sanh trái được, như có chép trong Mathiơ 13:22 có chép về loại đất có những bụi gai là gì? “Kẻ nào chịu lấy hột giống nơi bụi gai, tức là kẻ nghe đạo; mà sự lo lắng về đời nầy, và sự mê đắm về của cải, làm cho nghẹt ngòi đạo và thành ra không kết quả.”) 

Anyone here has an allergy problem would know what “choking” mean.

(Có ai ở đây bị mắc bịnh Allergy, dị ứng mũi chưa, thì biết “nghẹt “  là thế nào.)

Your nose will get stuffed up, you cannot breath and function as normal; so just as worries that can choke our faith to enjoy a blessed life and being effective for God.

(Khi mũi bị nghẹt làm chúng ta khó thở, có người phải ngũ ngồi mới thở được, và chúng ta chẳng còn hoạt động như bình thường được nữa, thì cũng vậy sự lo lắng ở đời này Chúa Giê-su nói đến cũng làm ngẽn sức năng tâm linh để hưởng một đời sống phước hạnh đem lại nhiều kết quả cho  Chúa.)

II. Những Tai Hại của sự Lo Lắng

 ( The Damages of worries )

  How do worries affect our life?

(Sự lo lắng ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta như thế nào?)      

1) First, it can harm us physically by causing all kinds of symptoms from headaches to depression.

(Thứ nhất, sự lo lắng gây ra nhiều tai hại cho phần thuộc thể trong đời sống của chúng ta. Nó sanh ra đủ thứ chứng bịnh: Từ đau đầu cho đến các thứ bịnh liên hệ đến suy nhược.)

A survey showed that more than half of people in the hospital are related to depression due to worry problem.

(Thống kê cho biết hơn nửa số người đang nằm trong các bệnh viện chữa bịnh có liên quan đến sự suy nhược vì vấn đề lo lắng.)

Worries surely produce white hair, skin wrinkles, and causes a difficult to have a good night sleep – a disease called insomnia.

(Lo quá sức làm cho tóc mau bạc, da mau nhăn và mắc phải bịnh mất ngủ – một bệnh được gọi là ” ínomnia”.)

A story about a death angel comes to a town and said to an old man that he will come back tomorrow night to take 100 lives with him.

(Câu chuyện huyền thoại về vị thần chết đến thăm một  thị trấn kia và gặp trước một  ông già và Thần chết nói: “Đêm mai ta sẽ đến và lấy đi mạng sống của 100 người trong làng này.”)

The old man comes into town and alerts the people. The next morning, there are 1,000 people died.

(Người đàn ông kia chạy về làng và loan báo cho mọi người biết tối nay thần chết sẽ đến lấy đi 100 mạng sống; Sáng hôm sau thì có đến 1,000 người mất mạng.)

The old man asks the death angel when he comes back why 1,000 lives – didn’t you say only 100?

(Người đàn ông trở lại gặp vị thần chết và hỏi: “Tại sao có đến 1,000 người chết, ông đã nói với tôi hôm qua là chỉ có 100 người thôi mà?”)

The death angel said: “Yes, I said 100, but the other 900 died because they were worry so much after hearing the bad news. (Thần chết nói: “Đúng rồi! Ta chỉ tính lấy đi 100 mạng sống thôi, còn 900 người kia chết là vì họ quá lo lắng khi nghe đến tin xấu mà thôi!”) 

It’s true when someone said: “Worms eat you when you’re dead; but worries eat you when you’re alive.”

( Thực ra khi ai đó nói rằng.” Những con dòi bọ đục khóet xác chết của ngươi khi ngươi qua đời; nhưng sự lo lắng của đời này đục khoét ngươi khi ngươi còn đang  sống.”)

2) Worries also affect our spiritual life, choking our faith to be effective for the services to the Lord Jesus.

(Sự lo lắng ảnh hưởng rất nhiều trong đời sống tâm linh của con cái Chúa, vì nó cản trở chúng ta trong sự hầu việc Chúa mà không đem đến kết quả chi cho Ngài.)

The word “worry” in Greek is from the word “merimnao” meaning “divided mind.”

(Chữ “lo lắng” từ chữ “Merimnao” trong tiếng Hylạp mà ra, có nghĩa là  tâm trí bi phân chia 

A lot of people are distracted by spending so much time regretting the past and worrying about the future, and they have no time to enjoy and be thankful for today!

(Biết bao nhiêu người đang sống dìm mình trong sự hối tiếc của những quá khứ và lo lắng về những việc tương lai, nhưng lại không thì giờ để  sống vui thỏa và cãm ơn  cho ngày hôm nay! )

A survey showed that in 100 things we worry, only about 10 things that we can actually have control and change.

(Thống kê cho thấy 100 điều người ta lo lắng thì 10 điều chúng ta thực sự có kiểm soát và có thay đổi.)

This means that we are wasting 90% of our time and energy for the things that may not happen in the future or we cannot do anything about.

( Điều này có nghĩa là chúng ta đang phung phí thì giờ và năng  lực của chúng ta cho những việc mà có lẻ nó không xảy ra trong tương lai hoặc là chúng ta không có thể làm bất cứ điều gì được.)

It’s true that “Worry does not empty tomorrow sorrows, it empties today strength.”

  Thật ra “Sự lo lắng không làm vơi bớt những nỗi đau buồn của ngày mai, nhưng nó làm cạn đi sức mạnh của ngày hôm nay.”

  The more we worry, the smaller our faith is, and the result is that we can no longer “move the mountains” for God.

(Khi chúng ta càng lo lắng, thì đức tin của chúng ta nơi Chúa càng bị thu nhỏ lại; khi đức tin bị nhỏ lại, và kết quả là chúng ta không còn có  thể “dời núi” được, nghĩa là làm những việc lớn và khó cho Chúa nữa.)

When we worry, we trust less in God, but on our own ability and understanding; as a result, we make so many bad choices in life and reap consequences.

(Khi chúng ta lo lắng thì chúng  ta  tin cậy nơi Chúa ít hơn,  nhưng sẽ dựa trên khả năng, ỷ vào sức riêng của mình mà làm mọi việc, thì chúng ta dễ có những lựa chọn sai lầm, để rồi gặt những hậu quả đau thương.)

III. Lý Do Tại Sao Chúng Ta Lo Lắng

 Why are we worry?

(Tại sao chúng ta hay lo lắng?)

1) First, because the future is uncertain.

(Thứ nhất, là vì tương lai thi không có gì chắc chắn)

 If we know ahead where the terrorists will strike to prevent it happen then no more worry?

(Nếu biết trước chỗ nào bọn khủng bố sẽ phá hoại để có thể ra tay ngăn chận, đề phòng trước thì chẳng có gì phải lo?)

If we know exactly how the ecomony heading to choose the right acedamic degree so that we will surely have jobs in the future then there is nothing to worry.

(Nếu biết rõ kinh tế thương mại trong tương lai sẽ như thế nào, để chọn học đúng ngành và ra có việc làm chắc chắn ngay thì chẳng còn có điều gì phải lo?)

2) The second reason we worry because we cannot control what happens in the future.

(Lý do thứ hai mà chúng ta lo lắng là vì mình không thể kiểm soát được những gì xảy ra trọng tương lai.

Who can stop a storms eventhough we know it’s coming?

(Ai có thể ngăn chận những cơn bão mặc dù biết là nó đang đên.)

IV. Phương Cách Đương Đầu với Lo Lắng

1) To control our worries, the Bible teaches that we must learn to trust God in prayer – “Do not be anxious about anything, but in every situation, by prayer and petition, with thanksgiving, present your requests to God.”

(Lời Chúa dạy muốn làm chủ được sự lo lắng, chúng ta phải tập tin cậy và tìm kiếm Chúa trong sự cầu nguyện – Philíp 4:6 – “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời.”

a) The first thing to pray is that we must know Who is the God that we pray to.

. (Điều căn bản trước tiên để  cầu nguyện đó là chúng ta phải hiểu biết rõ  Chúa là ai mà mà chúng ta tìm cầu.)

b) To know God is almightymeans to know that He knows everything about you, including all your worries.

( Để Biết Chúa là Đáng Toàn năng nghĩa là biết rằng Ngài biết mọi chuyện về bạn bao gồm những lo lắng của bạn.)

Jesus knows even the number of hairs on your head.

( Chúa Jesus biêt ngay cả những sợi tóc ở trên đầu anh em) .

 More than that, God plans everything out in the future according to His good will, in another word, He á Jesusholds our future.

(Không phải Chúa chỉ biết những điều hiện tại mà thôi, nhưng Ngài còn xếp đặt những chương trình trong tương lai theo ý tốt của Ngài, nói một cách khác Ngài là Đấng nắm giữ tương lai của chúng ta.

Not only knowing, God can meet all our needsaccording to His perfect wisdom.

(Chúa là Đấng quyền năng nghĩa là Ngài không phải chỉ biết thôi, nhưng có thể đáp ứng mọi nhu cầu cần thiết của mỗi chúng ta theo sự khôn ngoan hoàn hảo của Ngài.)

Jesus mentioned about an example in Matthew 6 about the birds and flowers that God cares everyday for them – shouldn’t we be more valuable than them to God?

(Chúa Giê-su  lưu ý về một ví dụ có chép trong Mathiơ 6:25-29 về chim và hoa mà Đức Chúa Trời còn chăm sóc chúng mọi ngày. Chúng ta há không quý trọng hơn chúng đối với Đúc Chúa Trời sao?  

God challenges us to open our eyes and see how He cares for the birds and flowers, and cares for us even more by giving up His only Son to redeem us back to Him.

(Chúa kêu gọi chúng ta hãy mở mắt ra mà nhìn các loài chim trên trời hoặc những đoá hoa dại ngoài đồng mà Ngài chăm sóc chúng như thế nào, thì huống gì chúng ta là con cái yêu dấu của Ngài, mà chính Chúa đã hy sinh Con một của Mình trên thập tự để cứu chúng ta, thì chẳng lẽ Chúa sẽ quên và bỏ chúng ta sao mà chúng ta quá lo lắng?)

It is contradicting when we come to church and sing “How Great Thou art” and go home worry about the little things in life.

( thật là máu thuẫn  khi chúng ta đến nhà thờ tôn vinh Chúa bài Thánh Ca: “Lớn Bấy Duy Ngài” nhưng ra về lại dìm mình trong những sự lo lắng nhỏ nhặc của cuộc đời.)

c) Trusting in God means to present all our worries to Him in prayer.

(Nhờ cậy Chúa qua sự cầu nguyện, nài xin trong đức tin mà trình mọi sự lo lắng của mình cho Ngài.) 

  1. i) Our attitude in prayer must be humble, patient and persistent.

(Sự cầu nguyện phải trong đúng thái độ “nài xin” nghĩa là hạ mình, khiêm nhường, nhận biết ý muốn và chương trình của Ngài là điều tốt hơn và mong ý Chúa được nên. Nài xin trong sự kiên nhẫn mà kêu cầu Chúa cứu giúp mình.)

  1. ii) Presenting to God our worries means to spell them all out,one by one.

(“Trình mọi sự” có nghĩa là trao cho Chúa tất cả mọi điều lo lắng của mình cho Ngài.)

God didn’t teach us to do nothing about our worries, but pray and cast all our worries to Him.

(Chúa không dạy chúng ta không làm gì hết cho những lo lắng, nhưng hãy trình mọi điều đó cho Ngài.)

To cast to God our worries we need to first let them go.

(Trình cho Chúa thì phải bằng lòng buông và trao tất cả, đừng dằn co mà cầm giữ một chút gì lại cho mình.)

 A story of a Vietnamese lady first time sat in the back of a truck but still carrying her potato basket on her head, because she was afraid to put extra weights on the truck.

(Câu chuyện bà cụ ngồi đằng sau xe truck ( của vị mục sư) nhưng vẫn còn đội thúng khoai trên đầu mình, vì sợ làm nặng  thêm xe truck của vị mục sư hơn.) 

 Every burden we cast to God, we will have rest; the burdens we still keep with us will become liked “eggs” producing more worries.

(Tất cả những gánh nặng, lo âu nào chúng ta quyết định trình dâng lên cho Chúa thì chúng ta sẽ được nhẹ nhàng; nhưng những gánh nặng/lo lắng nào chúng ta chưa chịu dâng lên cho Ngài mà cứ còn giữ lấy thì nó sẽ trở nén giống như những “quả trứng” sẽ sinh sôi nẩy nở nhiều sự lo lắng hơn.)

2. We also need to have a heart of gratitude; it is the good medicine to treat worries.

(Điều thứ hai, chúng ta cũng cần có một tấm lòng biết ơn ; đó sẽ là một phương thuốc hay để chửa trị lo lắng .)

We worry many things because we are not content with what we already have.

(Chúng ta lo lắng nhiều thứ  lý do chính là vì chúng ta chưa thỏa lòng với những gì mình đang có.)

 The world is full of greediness – demaniding us to have “More,” to be “nicer, bigger, faster, flatter…”

( Thế giới nầy thif đầy sự ham muốn, thèm khát – đòi hỏi chúng ta phải có “nhiều hơn” phải ( là) ” đẹp hơn, to lớn hơn, nhanh hơn,hoàn toàn hơn” .)

  Don’t forget that the Bible teaches that contentment is one of the great gains in this life.

( Đừng quên Kinh Thánh (1 Timôthê 6:10 )dạy chúng ta phải tập có sự thỏa lòng vì: “Sự tin kính cùng sự thoả lòng là một lợi lớn trong đời nầy.)

3.To know that, we should learn to live a simple lifestyle, pursuing the things that have eternal values.

(Nếu biết vậy rồi thì hãy hãy tập sống một mẫu sống đơn giản, và đeo đuổi những điều có gía trị bỏng cửu. ) 

a) Charactersare more important than outside make-ups and beauty. A healthy and happy home is more important than the value of the house, your clothes or shoes’ brand names.

(Những điều ưu tiên là đức hạnh, nết na bên trong hơn là cách ăn lối mặc, trang sức bên ngoài; Hạnh phúc mái ấm gia đình là điều ưu tiên hơn là gía trị căn nhà cao cửa rộng, hay áo quần, hay dày dép hàng hiệu).

b) Eternal lifeis more important than the world popularity and fame, because when we lay down into the earth, everything must be left behind.

(Sự cứu rỗi, sự sống đời đời trên nước thiên đàng là điều quan trọng hơn là thâu lượm nhiều danh tiếng ở trên đời này, mà khi chúng ta nằm xuống không đem theo được qua cõi bên kia.) 

After the billionaire John D. Rockefeller died, the family asked how much estate did he leave behind? The lawyer said: “everything!.”

(Khi nhà tỉ phú dầu hỏa John D. Rockefeller qua đời, gia đình của ông sau khi làm đám tang xong thì hỏi vị luật sự là ông Rockefller chết rồi thì để lại của cải mình bao nhiêu? Vị luật sư trả lời: “Ông để lại tất cả…” (vì không mang theo được một vật chi hết.)

 This world is not our home, but the kingdom of heaven; so don’t spend too much to worry about the things of this world.

(Thế gian này không phải là quê hương của mình, nhưng đích tới của chúng ta là nước thiên đàng.)

The Bible does not teach us to be lazy, but Jesus taught that we must seek first God’s kingdom, then all our worries will be taken care of.

(Lời Kinh Thánh không  dạy chúng ta lười biếng nhưng Chúa Jesus dạy rằng chúng ta phải tìm kiếm nước Đúc Chúa Trời và rồi thì tât cả những sự lo lắng của chúng ta sẽ được lo toan.)

The secret of controlling all our worries is to be still in prayer and know that God is in control.

(Bí quyết để làm chủ sự lo lắng đó là chúng ta phải tập có thì giờ tĩnh nguyện  và biết rằng Chúa đang cai trị.)

   The more we trust God, the less we will worry; consequently, the more we will be happy, content, and fulfilling our services to Him.

(Càng tin cậy vào Đức Chúa Trời thì chúng ta càng ít lo lắng; do vậy chúng ta  càng hạnh phúc, thỏa lòng, và tạ ơn thì càng bớt lo phiền, thì tự nhiên càng có sự bình an, vui mừng, càng làm trọn sự phục vụ Chúa của chúng ta.)

 A story on a plane when people suddenly hear on the speaker phones from the pilot requesting everyone must bucket their seat belts because the plane was about to enter a storm.

(Câu chuyện trên một chuyến máy bay đang di chuyển; bỗng nhiên mọi người nghe trên loa phát thanh tiếng của phi công trưởng cho biết mọi người phải buộc chặc dây nịt ghế lai .)

Few minutes later, the plane begun experiencing terrible turbulent. Some people started to pray, others were shouting, but for sure on all faces, people were very worried for their lives.

(Vài phút sau thì máy bay trải qua một cuộc rung lắt/ chao đảo kinh khiếp . Một số người đã bắt đầu cầu nguyện, những người khác thì la hét, nhưng chắc chắn trên tất cả các gương mặt, người ta tỏ ra lo lắng cho sinh mạng của họ.)

Except for a little girl who sat comfortably and peacefully, stretching her legs and arms, just as nothing happened.

 (Ngoại trừ có một em bé gái thì cứ  ngồi yên thoải mái, bình an, dũi hai chân , hai tay ra y như không có việc gì xảy ra.)  

For a while then the plane returned to normal and everyone held back their emotions.

(Một hồi lâu sau thì máy bay trở lại bình thường, ai nấy phục hồi lại sự bình tỉnh.)

After the plane landed, one man came over to the little girl and asked – why didn’t you worry during the storm?

(Sau khi  máy bay hạ cánh   thì có người đàn ông đến cháu bé gái và hỏi tại sao trong cơn giông bão, máy bay nhồi lắt như vậy mà cháu không sợ sao?)

The little girl answered: “Nope, because the pilot is my dad and he said he will bring me home!”

(Đứa bé gái trả lời: “Con không có sợ là vì ông phi công là cha của con, hứa sẽ đem con về nhà bình an mà.”)

The secret of overcoming all our worries is to trust in God and asking Him to be involved in our worried life.

(Bí quyết để thắng hơn mọi sự lo lắng đó là luôn tin tưởng vào Chúa và kêu cầu Ngài để được lưu tậm vào cuộc đời đầy lo âu của chúng ta,)

  Seek the Lord Jesus in prayer, Who is holding our future; cast all our worries to Him, be silent and wait to see what the Lord will do through us so that we can know Him and experiencing a blessed and peaceful life.

( Hãy tìm kiếm Chúa Giê-su trong sự nguyện cầu, Đấng đang nắm giữ tương lai mình; hãy trao mọi diều lo Âu cho Ngài, hãy yên lặng và chờ đợi để thấy những gì  Chúa sẽ làm qua đời sống chúng ta để chúng ta có thể biết Ngài và trải nghiệm một đời sống bính an và Phước hạnh.)

 So do you want to have this blessing or are you continuing to worry?

(Vậy bạn có muốn được phước hạnh này trong cuộc sống không, hay bạn cứ còn tiếp tục  lo lắng mãi ?)

 

 Translator: ( Người dịch)

        MS Nguyễn Đức Na.

HAI CON CHIM SẺ

1-chim-se-1392243992576

“Hai con chim sẻ há chẳng từng bị bán một đồng tiền sao? Và ví không theo ý muốn Cha các ngươi, thì không hề một con nào rơi xuống đất.”
MA-THI-Ơ 10:29-31

Hai con chim sẻ há chẳng từng bị bán một đồng tiền sao? Hai con chim sẻ bán một đồng tiền. Chữ đồng tiền đây trong nguyên văn Hy-lạp là assarion, mà các học giả dịch ra là đồng một xu (penny). Như vậy, giá của con chim sẻ tính ra chỉ đáng một nửa xu Mỹ.Đã thế mà mua nhiều lại càng rẻ. “Năm con chim sẻ giá hai đồng tiền” (Luca 12:6). Vậy thì, cứ mua hai đồng tiền, tức là hai xu Mỹ chim sẻ, thì được cho không một con. Căn cứ vào giá nầy, cứ mua một đô la chim, thì được hai trăm năm chục con. Căn bản thì như vậy, chớ mua theo giá sỉ, tức là một đô la chắc chắn phải được nhiều chim hơn. Rẻ quá!Đây chắc phải là giá chim sẻ tại xứ Palestine thời xưa. Ở Việt nam chỉ thấy người ta bán chim mía chớ không thấy ai bán chim sẻ. Tuy nhiên, nói chung thì chim sẻ là loại chim xoàng. Ở quê tôi người ta nuôi sáo vì nó khôn, biết tự bay đi kiếm ăn và trở về nhà, nuôi nhồng vì biết nói, nuôi cò vì biết bắt ruồi, nuôi chim cu để đi mồi, nuôi họa mi vì hót hay, nuôi két vì bộ lông đẹp. Cũng có người nuôi cà cưỡng và quốc, mà tôi không biết là nuôi để làm gì. Dầu vậy, tôi vẫn không thấy ai nuôi chim sẻ.

Ở Mỹ người ta nuôi nhiều thứ chim làm vật nuôi, nhưng cũng không thấy ai nuôi chim sẻ. Rõ ràng là chim sẻ rất ít giá trị.

Và ví không theo ý muốn Cha các ngươi, thì không hề một con nào rơi xuống đất. Chim sẻ ở khắp mọi nơi. Một vài giống chim như chim cánh cụt chỉ thấy ở Nam cực, chim emu, chỉ có bên Úc, loại chim nhỏ nhất, chuyên môn hút mật hoa, gọi là hummingbird chỉ thấy ở Bắc Mỹ, nhưng chim sẻ thì ở khắp mọi nơi. Ở Palestine xưa và nay, ở Việt nam, ở bên Tàu, bên Mỹ, ở bên Úc, bên Canada, bên Âu châu…đâu đâu cũng có chim sẻ.

Chẳng những chim sẻ có mặt khắp nơi, mà lại có nhiều. Ở sau vườn tôi, tôi có treo một cái đồ cho chim ăn, tiếng Mỹ gọi là bird feeder. Tôi sắm cái nầy, là sắm chủ ý để đãi ngộ mấy con chim cu và chim robin vì chúng chiếu cố đến vườn nhà tôi, và đẻ con tại đây. Nhưng lần nào cũng vậy, mười lần đủ chục, mỗi khi tôi châm thêm ngũ cốc vào, đang khi các giống chim quý kia chưa đến, thì đã thấy chim sẻ từng đàn xông vào ăn. Ban đầu tôi tưởng đây là toàn bộ dân số sẻ của cả xóm loan báo cho nhau đến ăn sớm, như cách người Mỹ rủ nhau đi mua hàng on sale “early bird”, nhưng sau đó tôi ra phía trước, lại cũng thấy trước nhà và nhà bên cạnh từng đoàn chim sẻ đùa giởn inh ỏi. Căn cứ vào đó, tôi tin rằng dân số của giống sẻ chắc phải đông hơn dân số của giống người mình, mà hiện nay đã vượt cả con số sáu tỷ sáu.

Nhiều đến thế mà chẳng giây phút nào Đức Chúa Trời tỏ ra quên chúng, hay ngừng chăm nom chúng, hay bỏ mặc chúng trôi theo dòng đời, hay chẳng có chương trình gì cho “cuộc đời” của chúng. “Ðức Chúa Trời không quên một con nào hết” (Luca 12:6), “Và ví không theo ý muốn Cha các ngươi, thì không hề một con nào rơi xuống đất (Ma-thi-ơ 10:29). Đây là lời của chính miệng Cứu Chúa phán ra. Xin chúng ta hãy dừng lại một chút để suy nghĩ đến điều này: Đức Chúa Trời hằng ngày không quên bất cứ một con chim sẻ nào hết, Đức Chúa Trời đã định ngày sinh ra và ngày chết đi của mỗi một con. Cha trên trời có chương trình hoàn hảo cho mỗi một con chim sẻ, dù đó chỉ là một con chim mới nở ngày hôm qua trong hàng chục tỷ con, hay dù đó chỉ là một con “chim sẻ hiu quạnh trên mái nhà” (Thi Thiên 102:7).

Cho nên hỡi bạn là những Cơ-đốc nhân đang chịu cảnh thử thách, hỡi bạn là những con trai con gái đang cảm thấy mình hoàn toàn bị bỏ quên, hãy biết rằng Cha trên trời hoàn toàn không chút quên bạn. Dầu hiện nay lòng bạn có đang bị đánh đập đến đổi phải bị khô héo như cỏ, dầu hiện nay niềm đau lâu ngày có đang hành hạ bạn, và bạn phải than thở rên siết, dầu hiện nay bịnh tật hoành hành và người bạn chỉ còn xương bọc lấy da, dầu hiện nay bạn thấy mình lẻ loi cô đơn như “con chàng bè nơi rừng vắng, khác nào chim mèo ở chốn bỏ hoang” (Thi-Thiên102:6), hãy nhớ rằng Đức Chúa Trời đang chú ý đến bạn, Ngài đang mong mỏi từng giây phút sự đầu phục hoàn toàn của bạn để Ngài có thể thực hiện chương trình tối hảo mà Ngài đã hoạch định cho đời sống bạn.

Bạn chỉ có mỗi một cuộc đời để sống, Ngài không muốn bạn hoang phí cuộc đời. Ngài không muốn bạn sống một cuộc đời an nhàn vô nghĩa.

Vì vậy Ngài đang cân đo đong đếm từng giọt thời gian của đời bạn.

Vậy, hỡi những con “chim sẻ hiu quạnh trên mái nhà”, hãy reo vui lên đi. Hãy đổi giọng chiêm chiếp buồn thảm thành giọng vui ngợi khen. Đừng tưởng rằng không ai thấy, không ai nghe mình. Đức Chúa Trời và các thiên sứ Ngài đang lắng tai chờ đợi bạn đấy.

Và chắc chắn những năm tháng đau đớn, buồn thảm, mất mát, tật bệnh, sỉ nhục, sầu nảo…và những giờ phút dường như hoàn toàn vô vọng của bạn, đều đã được Ba Ngôi Đức Chúa Trời tính toán, cân nhắc rất kỷ, từ rất lâu năm về trước. Chúng được tính trong số những ngày phước hạnh, những ngày vàng xâu bằng dây bạc của đời bạn. Thậm chí, kể cả nước mắt của bạn, vâng, đúng vậy, nước mắt của bạn cũng đã được giữ lại rất kỷ trong các chai lọ bằng ngọc của Chúa, chúng được tính từng giọt và đã được ghi chép cẩn thận vào sổ sách của thiên đàng.

Vậy, hỡi những con “chim sẻ hiu quạnh trên mái nhà”, hãy reo vui lên đi. Hãy đổi giọng chiêm chiếp buồn thảm thành giọng vui ngợi khen. Đừng tưởng rằng không ai thấy, không ai nghe mình. Đức Chúa Trời và các thiên sứ Ngài đang lắng tai chờ đợi bạn đấy.

Mục Sư Dương Ðức Hiền

Post Navigation