Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “DƯỠNG LINH”

TIN LÀNH THỊNH VƯỢNG?

Một số hội thánh ngày nay không đề cập gì đến sự đau khổ. Micro chỉ dành cho những người nói rằng Chúa đã chữa lành họ, trong khi những người khác vẫn đang trong cơn hoạn nạn thì cảm thấy xấu hổ và im lặng, hoặc bị dẫn đi cửa sau.

Bài tham khảo, bản gốc Tiếng Anh: The Poison of Prosperity Gospel – Blog – Eternal Perspective Ministries

Chuyển ngữ: Mục sư Lê Minh Đạt

11049457_747282118722240_1917031546357378878_o

Độc tố của Thần học thịnh vượng

Thần học thịnh vượng dạy rằng Đức Chúa Trời sẽ ban phước dư dật về vật chất và sức khỏe cho những ai vâng phục Ngài và công bố lời hứa của Ngài. “Chúng ta không cần phải chờ phước hạnh của Chúa trong đời sau. Ngài sẽ ban cho chúng ta điều ấy ngay tại đây và ngay bây giờ,” quan điểm thần học này hứa hẹn như thế.

Sự dạy dỗ được nhiều người biết đến qua khẩu hiệu “hãy gọi tên và công bố” còn được gọi là tin lành sức khỏe và giàu có. Nó không chỉ giới hạn trong một số hội chúng nhưng đã thâm nhập vào các hội thánh tin lành dòng chính, rồi từ đó len lõi cách tinh vi vào thế giới quan của nhiều Cơ đốc nhân.

Tác giả cuốn sách Total Life Prosperity (Thịnh vượng mọi mặt trong đời) viết rằng, “Sự thịnh vượng theo Kinh Thánh là khả năng kiểm soát mọi tình huống, hoàn cảnh xảy đến trong đời bạn. Bất cứ điều gì xảy ra, dù là tài chính, xã hội, sức khỏe, hôn nhân, thuộc linh hay cảm xúc, sự thịnh vượng kiểu này giúp bạn kiểm soát mọi hoàn cảnh”

Một tác giả khác lại viết rằng, “Sự nghèo khó là không cần thiết. Những mất mát thật đau đớn…Tôi ghét phải chịu đau. Cơn đau đớn của bạn có thể chấm dứt. Tôi muốn bạn được chữa lành hoàn toàn. Đó là lý do tôi viết sách này”

Thế giới quan sai trật này nuôi dưỡng sự giả tạo, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến Phúc Âm, và khiến người ta đi đến chỗ tin rằng, khi điều ác và hoạn nạn xảy đến với họ, Đức Chúa Trời không chân thật trong lời hứa của Ngài.

Sự thịnh vượng theo Kinh Thánh là khả năng kiểm soát mọi tình huống, hoàn cảnh xảy đến trong đời bạn. Bất cứ điều gì xảy ra, dù là tài chính, xã hội, sức khỏe, hôn nhân, thuộc linh hay cảm xúc, sự thịnh vượng kiểu này giúp bạn kiểm soát mọi hoàn cảnh

Vấn đề không phải là Đức Chúa Trời thỉnh thoảng chữa lành chúng ta, hoặc chúng ta có nên cầu nguyện xin Chúa chữa lành hay không. Dĩ nhiên, Ngài có làm điều ấy, và dĩ nhiên, chúng ta nên cầu nguyện xin điều ấy. Nhưng sau khi cầu nguyện ba lần để được chữa lành những đau đớn trong thân thể, Phao-lô tín thác nơi ân điển Đức Chúa Trời sẽ sử dụng hoạn nạn của ông vì cớ vinh hiển của Ngài (II Cô 12:7-10). Khi chúng ta vẽ ra một Đức Chúa Trời luôn luôn hứa hẹn những chữa lành ngắn hạn tại đây và ngay bây giờ, chúng ta đang hiểu sai Ngài.

Bi kịch là, tinh lành thịnh vượng đã đem bã độc vào hội thánh và làm suy yếu khả năng của chúng ta đối diện với điều ác và hoạn nạn. Một số hội thánh ngày nay không đề cập gì đến sự đau khổ. Micro chỉ dành cho những người nói rằng Chúa đã chữa lành họ, trong khi những người khác vẫn đang trong cơn hoạn nạn thì cảm thấy xấu hổ và im lặng, hoặc bị dẫn đi cửa sau.

Quan điểm của Phao-lô rất khác biệt, “Ngài nhân Đấng Christ, ban ơn cho anh em, không những tin Đấng Christ mà thôi, lại phải chịu khổ vì Ngài nữa.” (Phi-líp 1:29).

“Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian,” Chúa Giê-xu đã hứa như thế (Giăng 16:33). Chúng ta cũng nên đón nhận lời hứa này như đã đón nhận lời hứa trong Giăng 3:16.

Câu chuyện đầu tiên trong thế giới sau Sự Sa Ngã là Cain giết A-bên, một người ngay lành đẹp lòng Chúa và phải chịu hậu quả trực tiếp của tội lỗi. Nô-ê, Áp-ra-ham, Giô-sép, Môi-se, Đa-vít, Đa-ni-ên, Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô và hầu như tất cả những nhà tiên tri không phải là những người công bình tình cờ bị hoạn nạn. Nói cho đúng, họ gặp hoạn nạn vì cớ họ là người công bình.

Vẫn còn tiếp tục trong Tân Ước, với Chúa Giê-xu là ví dụ điển hình. Chúa Giê-xu nói rằng Giăng Báp-tít là người lớn hơn hết (Lu-ca 7:28). Chẳng lâu sau đó, những kẻ ác đã bỏ Giăng vào ngục, rồi chặt đầu, và nhạo cười đặt đầu ông trên một cái dĩa (Ma-thi-ơ 14:6-12). Còn gì có thể trái ngược hơn với tin lành sức khỏe và giàu có?

Đức Thánh Linh đầy dẫy trong Ê-tiên, và ông bị kẻ ác ném đá đến chết. Hê-rốt Ạc-ríp-pa chém đầu Gia-cơ. Nê-rô chém đầu Phao-lô. Truyền khẩu nói rằng Phi-e-rơ và An-rê bị đóng đinh, Ma-thi-ơ tuận đạo, Thô-ma bị người ta dùng giáo đâm chết. Những người Pha-ri-si ném Gia-cơ con A-phê từ trên đền thờ xuống đất, ném đá ông đến chết, và lấy dùi cui trây óc của ông vương vãi. Thư I Phi-e-rơ được dành riêng cho Cơ đốc nhân phải chịu những bất công vì cớ Đấng Christ.

Larry Waters viết rằng, “Chúng ta được hứa và được trải nghiệm phước lành, nhưng sự hoạn nạn cũng không loại trừ. Đúng ra là, đời sống bình thường của một người theo Chúa gồm cả phước lành lẫn khổ nạn.”

Lạc quan cách mấy đi nữa, cũng thấy rằng Cơ đốc nhân đã phải chịu hoạn nạn trong thế giới cổ đại. Ngày nay vẫn tiếp diễn như thế. Những Cơ đốc nhân không chịu khổ vì bắt bớ thì vẫn phải làm việc chân tay, chịu đau khi sinh nở, bệnh tật và chết, như mọi người khác.

Những xưng nhận của tin lành giàu có và sức khỏe rõ ràng là đối nghịch với rất nhiều phân đoạn Kinh Thánh đến nỗi khó mà tưởng tượng được rằng làm thể nào nhiều Cơ đốc nhân tin nhận những điều ấy, nếu không phải là từ quyền phép dối gạt của Satan.

Sứ đồ Phi-e-rơ viết rằng, “Hỡi kẻ rất yêu dấu, khi anh em bị trong lò lửa thử thách, chớ lấy làm lạ như mình gặp một việc khác thường. Nhưng an hem có phần trong sự thương khó của Đấng Christ bao nhiêu, thì hãy vui mừng bấy nhiêu, hầu cho đến ngày vinh hiển của Ngài hiện ra, thì anh em cũng được vui mừng nhảy nhót.” (I Phi 4:12-13)

Chúng ta chớ nên ngạc nhiên khi gặp phải hoạn nạn – dù đó là bắt bớ, tai nạn, hay đau bệnh. Chúa đã hứa điều đó. Một trong nhựng bi kịch đối với tin lành sức khỏe và giàu có là khiến Đức Chúa Trời giống như một người nói dối. Khi người ta tin rằng Chúa hứa giữ gìn họ khỏi hoạn nạn, thì khi hoạn nạn đến họ sẽ thấy rằng Chúa là không đáng tin.

Khi khó khăn đến, người ta nên từ bỏ đức tin nơi một tín lý sai trật, chứ không nên bỏ Chúa. Trái ngược với những nhà truyền giảng giàu sang, Phao-lô nói trước rằng, “Chúng ta phải trải qua nhiều nỗi khó khăn mới vào được nước Đức Chúa Trời.” (Công 14:22

Nếu chúng ta tin Chúa, Ngài sẽ cứu chúng ta khỏi sự khổ nạn đời đời. Và bây giờ Ngài cho chúng ta nếm thử sự sống trong sự hiện diện của Ngài. Đó chính là điều Chúa hứa.

MS LÊ MINH ĐẠT

http://huongdionline.com/

ĐẠO ĐỨC CƠ ĐỐC

CÁC KHÁI NIỆM VỀ ĐẠO ĐỨC.

gal 2 20
Trước khi nói đến đạo đức Cơ đốc, chúng ta sẽ xem xét các khái niệm về đạo đức.
Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của con người. Đạo đức là tập hợp những quan điểm của một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội.

Khái niệm đạo đức

Trong tâm lý học, đạo đức có thể được định nghĩa theo các khía cạnh sau:
– Nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân – cá nhân và quan hệ cá nhân – xã hội.
– Nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình.

Một số phạm trù cơ bản của đạo đức:

– Nghĩa vụ của đạo đức thể hiện ở chỗ khi con người tham gia vào các hoạt động cộng đồng, anh ta ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với người khác và đối với cộng đồng. Nghĩa vụ đạo đức đã xuất hiện rất sớm và nó tồn tại với thời gian, tồn tại qua các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người. Điều đáng chú ý là việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức bao giờ cũng mang tính tự giác và do chính bản thân đã nhận thức rõ vấn đề. Do vậy, khi thực hiện nghĩa vụ đạo đức con người luôn có cảm giác hạnh phúc, hài lòng vì tình cảm cao thượng, vì lòng tự trọng và phẩm giá của con người. Nghĩa vụ đạo đức của con người có mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa vụ pháp lý. Nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lý của con người đều có chung mục đích là nhằm điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với quy tắc, chuẩn mực chung của xã hội.
Nghĩa vụ không hình thành một cách tự nhiên, nhất thời mà nó được hình thành và hoàn thiện trong quá trình giáo dục, tự giáo dục, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân, thậm chí qua quá trình đấu tranh, thử thách của cuộc sống.

– Lương tâm có thể được hiểu như tiếng nói bên trong đầy quyền uy chỉ dẫn, thôi thúc con người ta làm những điều tốt, ngăn cản, chỉ trích làm những điều xấu. Khi con người làm điều xấu, lương tâm sẽ “bật đèn đỏ” cảnh báo: dừng lại. Khi con người làm điều tốt sẽ cảm nhận một lương tâm thanh thản.
Theo quan điểm biện chứng của đạo đức học thì lương tâm là ý thức trách nhiệm và tình cảm đạo đức của cá nhân về sự tự đánh giá những hành vi, cách cư xử của mình trong đời sống xã hội. Sự hình thành lương tâm vốn đã có từ buổi bình minh lịch sử và nó tiếp tục phát triển trong lịch sử của con người. Có thể nêu ra các mức độ phát triển của lương tâm như sau:
• Ý thức về cái cần phải làm do sự sợ hãi bị trừng phạt bởi thiết chế xã hội hoặc ý niệm tâm linh.
• Ý thức về cái cần phải làm, cần phải tránh vì xấu hổ trước người khác và trước dư luận xã hội.
• Ý thức về cái cần phải làm vì xấu hổ với bản thân. Khi cá nhân xấu hổ với bản thân, với những hành vi của mình là bước đầu của cảm giác lương tâm. Từ cảm giác đó đến sự phán xét các suy nghĩ, hành vi của mình thì đó chính là lương tâm. Vì thế lương tâm có quan hệ chặt chẽ với ý thức nghĩa vụ của con người.

Khi con người làm những điều xấu, độc ác thì lương tâm cắn rứt. Trái lại khi cá nhân làm những điều tốt, cao thượng thì lương tâm thanh thản. Do vậy, trong cấu trúc của lương tâm tồn tại khái niệm xấu hổ, hối hận. Giữ cho lương tâm trong sạch là một tiêu chí hạnh phúc và tiêu chí sống của con người.

– Thiện và Ác là cặp phạm trù đối lập nhau trong mọi thời đại, là thước đo đời sống đạo đức của mọi cá nhân. Thiện và Ác cũng là phạm trù cơ bản làm thước đo đời sống đạo đức của con người.
Cái Thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong cuộc sống hàng ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu và sự tiến bộ xã hội. Cái thiện phải được thể hiện qua việc góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đem lại lợi ích cho mọi người trong xã hội. Làm điều thiện là phấn đấu cho cuộc sống của con người ngày càng trở nên cao thượng hơn, tốt đẹp hơn và giàu tính nhân văn hơn.
Cái Ác là cái đáng ghét, ghê tởm, cái cần phải gạt bỏ trong đời sống cá nhân và xã hội. Cái ác làm mất đi cái văn minh, cao thượng của cuộc sống con người. Quan điểm về thiện và ác mang tính lịch sử và có thể hoán đổi cho nhau. Cái thiện và ác được chúng ta đánh giá tùy thuộc vào nó có thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của xã hội, hạnh phúc của con người. (1)

Đạo đức dưới lăng kính của Thần học.

Trước khi có Kinh Thánh thì đạo đức đã có và tồn tại với con người và xã hội loài người (2). Đạo đức được Đấng tạo hóa phú cho con người theo luật lương tâm, điều này xem như là mặc khải tổng quát ứng dụng trong phương diện đạo đức. Luật này dựa trên khuynh hướng tự nhiên của tạo vật để hành động đúng hay hướng đến điều đúng. Từ ngữ đạo đức trong tiếng Hy lạp là ethos, nomos có nghĩa là những thói quen hay tập tục được nhiều người chấp nhận, nó là những qui ước chung trở thành chuẩn mực đạo đức. Từ góc độ này thì đạo đức là một hiện tượng tinh thần, môt hình thái ý thức xã hội nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội con người.

Trong quan điểm của Phương Tây, đạo đức có hai phần gắn liền: đạo và đức. Đạo là thực thể tuyệt đối có trước khi trời đất sinh ra, là cội nguồn, là đường đi, là sự sống (3). Đức là biểu hiện của Đạo, là nguyên tắc luân lý mà mỗi người phải tuân theo (4).
Một bài nghiên cứu của tác giả Đặng thị Lan nhấn mạnh: Con người cần quay trở về hay gắn bó với Đạo mới có sự sống và sự hòa hợp hạnh phúc giữa vũ trụ. Đạo gắn liền với đức trong quá trình phản ánh tồn tại xã hội, giữa hình thái ý thức tôn giáo và hình thái ý thức đạo đức luôn có mối quan hệ tương tác, đan xen và thâm nhập lẫn nhau. (5)

William Barlay, một học giả về Kinh Thánh cho rằng: Đạo đức và tôn giáo có mối liên hệ gắn bó, vì đạo đức là một phần trong giáo lý tôn giáo dạy con người phải ứng xử như thế nào? (6)
Bây giờ chúng ta nói đến đạo đức Cơ đốc.

2 co 5 17
1. Đạo đức Cơ đốc là gì?
Đạo đức Cơ đốc là đạo đức của Chúa Jesus Christ. Nói rõ hơn, nó là đạo đức theo gương mẫu đời sống và những lời dạy của Chúa Jesus. Những tiêu chí và giá trị của đạo đức Cơ đốc là:

– Đạo đức Cơ đốc được thiết lập trên nền tảng của Kinh Thánh.

– Tinh hoa của đạo đức Cơ đốc xuất phát từ mười điều răn. Trong đó có bốn điều liên quan đến Đức Chúa Trời là Đấng tạo hóa, và sáu điều răn còn lại dành cho con người khi chung sống với nhau. Trong Tân Ước Chúa Jesus tóm lược luật pháp trong hai điều: kính Chúa, yêu người (7). Hai điều tóm lược này nhấn mạnh nguyên tắc phát xuất từ nội tâm yêu kính Chúa và thương yêu tha nhân như chính mình. Đạo đức Cơ đốc được xây dựng trên cơ sở kính sợ Chúa. Nếu không có nền tảng căn bản này thì mọi điều còn lại sẽ không bao giờ trở nên thực tế. Và sứ đồ Phao-lô cũng nói trong 1 Cô-rin-tô 13:13, “Nên bây giờ còn có ba điều nầy: Đức tin, sự trông cậy, tình yêu thương; nhưng điều trọng hơn trong ba điều đó là tình yêu thương”. Tình yêu thương là tinh hoa, là điểm cao nhất của đạo đức Cơ đốc. Tình yêu thương này chỉ có khi Chúa Jesus làm chủ cai trị tấm lòng của con người. “Đức Chúa Trời là tình yêu.” (1Giăng 4:8). Điều này có nghĩa con người có khả năng yêu thương và hy sinh cho nhau khi trong lòng họ có Đức Chúa Trời. Những loại tình yêu khác chưa đi qua con đường thập tự giá của Chúa Jesus đều có một giới hạn nhất định.

– Đạo đức Cơ đốc nhấn mạnh đến nguồn gốc đạo đức lưu xuất từ chính Đức Chúa Trời, bản chất của nó phản ánh ý chỉ của Đấng tối cao trong sự tạo dựng và cứu rỗi nhân loại. Đạo đức Cơ đốc là đạo đức của Đức Chúa Trời được bày tỏ qua thân vị và công tác của Chúa Jesus Christ trên đất.

– Giáo lý của Cơ đốc giáo chủ trương đạo đức Cơ đốc có nghĩa là môn đồ của Chúa có ơn kêu gọi, có thiên chức do Chúa chỉ định gắn liền với trách nhiệm xã hội của chính người đó (1 Côr. 7:17-24). Sự chu toàn các bổn phận trong thế gian tương ứng với chức phận trong cuộc sống dành cho mỗi người trong cộng đồng xã hội. Những quan điểm trước đây của Giáo hội cho rằng chỉ có công việc của hàng giáo phẩm và các tu sĩ trong các chủng viện mới được gọi là thánh chức, thì ngày nay không còn phù hợp với các hội thánh Tin lành. Với quan điểm của Martin Luther căn cứ trên Kinh Thánh (1 Côr. 1:26; 4:1-4; 2 Tês. 1:11; 2 Phil. 1:10) thì chức nghiệp của mỗi người đang làm đều có giá trị tôn giáo, đáng trân trọng và có giá trị thiêng liêng giữa xã hội.

martin luther

(Martin Luther)

– Nhận thức đúng đắn của người tín hữu Cơ đốc về Đức Chúa Trời và ân sủng của Ngài là một yếu tố tích cực thuyết phục họ bắt chước theo gương mẫu đạo đức của Chúa Jesus Christ. Tham gia vào các công tác xã hội phục vụ cộng đồng, cứu giúp người nghèo khổ, bảo vệ môi trường xanh…. là những công tác tự nhiên của Cơ đốc nhân. Người tín hữu Cơ đốc làm những điều này không phải vì bị ép buộc hay chạy theo một phong trào, nhưng đó là hành động tình nguyện được phát sinh từ sự sống của Đấng Christ bên trong người đó.

– Max Weber đã viết trong tác phẩm của ông là bổn phận được thực hiện thông qua các nghề nghiệp trần thế là hoạt động đạo đức cao nhất mà con người có thể đảm nhận ở đời này (8). Điều này biểu lộ trong quan điểm Thần học của các giáo phái Tin Lành về mục đích và nghĩa vụ của cuộc sống. Đạo đức Cơ đốc không còn là bổn phận nặng nề nhưng là thánh chức của mỗi Cơ đốc nhân. Điều này đối kháng với chủ trương của Giáo hội thời trung cổ vốn phân biệt các điều răn của đạo đức thành những mệnh lệnh hay nếp sống đạo đức cao đẹp phải vượt lên trên luân lý thế tục bằng lối sống khép kín trong các tu viện (9). Cái đó chắc chắn không phải là đạo đức Cơ đốc.

– Đạo đức Cơ đốc hay đạo đức của Chúa Jesus thì cao hơn những tiêu chuẩn đạo đức trong Cựu Ước. Chúa Jesus đã dạy:
Các ngươi có nghe lời phán rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Song ta bảo các ngươi, đừng chống cự kẻ dữ. Trái lại, nếu ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa má bên kia cho họ luôn; nếu ai muốn kiện ngươi đặng lột cái áo vắn, hãy để họ lấy luôn cái áo dài nữa; nếu ai muốn bắt ngươi đi một dặm đường, hãy đi hai dặm với họ. Ai xin của ngươi, hãy cho, ai muốn mượn của ngươi, thì đừng trớ. Các ngươi có nghe lời phán rằng: Hãy yêu người lân cận, và hãy ghét kẻ thù nghịch mình. Song ta nói cùng các ngươi rằng: Hãy yêu kẻ thù nghịch, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi, hầu cho các ngươi được làm con của Cha các ngươi ở trên trời; bởi vì Ngài khiến mặt trời mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ lành, làm mưa cho kẻ công bình cùng kẻ độc ác. (Ma-thi-ơ 5: 38-45)
Các ngươi có nghe lời phán rằng: Ngươi chớ phạm tội tà dâm. Song ta phán cho các ngươi biết: Hễ ai ngó đàn bà mà động tình tham muốn, thì trong lòng đã phạm tội tà dâm cùng người rồi. (Ma-thi-ơ 5:27-28).

new

• Như vậy ở đây Chúa Jesus đã đưa chuẩn mực đạo đức trong Tân Ước lên cao hơn Cựu Ước. Làm sao để người tín hữu có thể thực hiện hay áp dụng lời dạy của Chúa Jesus? Nếu bằng sức riêng con người thì mạng lệnh mà Chúa Jesus đưa ra là bất khả thi. Nhưng với Đức Chúa Trời thì không việc gì là không thể. Chính sự sống của Chúa Jesus bên trong người tín hữu sẽ thực hiện các mạng lệnh “bất khả thi” mà Đức Chúa Trời muốn con cái của Ngài phải đạt đến sự trọn lành. Đây chính là điều mà sứ đồ Phao-lô muốn nói đến trong thư tín Ga-la-ti, “Tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi” (Gal 2:20). Khi Đấng Christ nội trú bên trong tâm hồn, tâm linh của người tín hữu, thì đạo đức Cơ đốc bên trong của người đó được lưu xuất một cách tự nhiên ra bên ngoài. Đây là điểm khác biệt giữa đạo đức Cơ đốc với các giá trị, tiêu chuẩn đạo đức của các nền văn hóa và tôn giáo khác trên thế giới. Đạo đức của các nền văn hóa và tôn giáo là con người nhờ giáo dục, tu thân, tự điều chỉnh bản thân để trở nên tốt đẹp. Nhưng đạo đức Cơ đốc thì khác. Đó là đạo đức của Chúa Jesus đang nội trú bên trong người tín hữu được lưu xuất ra bên ngoài qua hành động. Chính bản thân người tín hữu không có khả năng sống đời sống theo tiêu chuẩn đạo đức Cơ đốc, nhưng sự sống của Chúa Jesus ở bên trong sẽ chi phối, kiểm soát và hướng dẫn người tín hữu vươn tới chuẩn mực của Đức Chúa Trời. Con người không thể làm được. Nhưng với Đức Chúa Trời thì mọi sự đều có thể.

2. Một xã hội không có nền đạo đức Cơ đốc sẽ như thế nào?

Chúng ta không phủ nhận một nền đạo đức theo tiêu chuẩn con người. Từ trong sâu thẳm của lương tâm và trái tim, con người muốn vươn đến chân thiện mỹ để hoàn thiện chính mình, nhưng mọi nỗ lực cá nhân đều thất bại khi con người loại bỏ Chúa Jesus ra khỏi cuộc sống. Một xã hội mà không có nền đạo đức Cơ đốc thì giống như thế giới này không có muối và ánh sáng. Hãy suy gẫm về những lời dạy của Chúa Jesus:

Các ngươi là muối của đất; song nếu mất mặn đi, thì sẽ lấy giống chi mà làm cho mặn lại? Muối ấy không dùng chi được nữa, chỉ phải quăng ra ngoài và bị người ta đạp dưới chân. Các ngươi là sự sáng của thế gian; một cái thành ở trên núi thì không khi nào bị khuất được: Cũng không ai thắp đèn mà để dưới cái thùng, song người ta để trên chân đèn, thì nó soi sáng mọi người ở trong nhà. Sự sáng các người hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời (Ma-thi-ơ 5:13-16).

Nền đạo đức Cơ đốc chiếm vai trò chủ đạo và nó phải ảnh hưởng lên các giá trị đạo đức của con người. Nếu nền đạo đức đó không tồn tại trên thế giới, thì thế giới này sẽ rơi vào tình trạng không có muối và ánh sáng. Hậu quả là gì? Người viết không thể hình dung được một thế giới không có muối và ánh sáng!
Khi một xã hội hay một quốc gia loại bỏ những tiêu chuẩn đạo đức theo Kinh Thánh, chắc chắn những cộng đồng đó sẽ sống trong tình trạng xáo trộn. Nơi đó người ta coi việc nói dối hay gian trá với nhau là điều bình thường. Khi Chúa Jesus bị loại bỏ thì con người sẽ thay vào đó những tiêu chí, tiêu chuẩn của họ. Và những điều đó trước mặt Chúa là đáng hổ thẹn. Kinh Thánh nói gì về điều này?
Chúng đều dùng lời dối trá mà nói lẫn nhau,
Lấy môi dua nịnh và hai lòng,
Mà trò chuyện nhau. (Thi 12:2)
Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được? (Giê-rê-mi 17:9)
Một dân tộc hay một quốc gia chỉ có thể vươn lên khỏi vũng bùn lấm về phương diện đạo đức khi mà dân tộc hay quốc gia đó thực sự nhìn biết Đức Chúa Trời.

Một xã hội không có nền đạo đức Cơ đốc sẽ rơi vào những tình huống sau đây:

a. Con người sẽ thay thế đạo đức Cơ đốc bằng đạo đức tự nhiên theo luật lương tâm. Và đôi khi lương tâm này cũng bị chính con người làm cho sai trật. Những cảm nhận của nó không còn đúng nữa. Nền đạo đức của con người có thể tốt trong một chừng mực nào đó, nhưng chắc chắn nó có nhiều khiếm khuyết. Một nền đạo đức đúng nghĩa phải ra từ Đức Chúa Trời và hướng về Đức Chúa Trời nhằm tôn vinh Ngài.

b. Một nền giáo dục tốt như Nhật Bản cũng có thể tạo ra những nhân cách tốt, thế nhưng cái mà con người xem là tốt đẹp thì đôi khi lại trái ngược với cái nhìn của Đức Chúa Trời (10). Nói một cách tổng quát, một xã hội không có nền đạo đức Cơ đốc luôn là một xã hội mà mọi giá trị luân lý của nó được xây dựng theo mô hình của tháp Ba-bên – nghĩa là con người tự tôn cao chính mình, hoặc tôn cao lãnh tụ trần gian, hoặc tôn cao một học thuyết mà bị vua cầm quyền chốn không trung là Sa-tan chi phối. Và cuối cùng của tháp Ba-bên (Sáng 11) là gì? Đó là ngôn ngữ bất đồng, người ta không thể hiểu nhau, ai nói người ấy nghe và họ tự phân tán ra mỗi người một lãnh địa.

c. Khi một xã hội không có đạo đức Cơ đốc chi phối hay gây ảnh hưởng, thì mọi giá trị đạo đức bị xáo trộn và đảo ngược. Tại đó người ta thay thế sự chân thật bằng những điều dối trá, hận thù được kích hoạt và không có chỗ đứng cho tình yêu thương, sự tha thứ hay lòng bao dung. Điều này là một thực tế đau thương cho các quốc gia đã loại bỏ Đức Chúa Trời và Lời của Ngài là Kinh Thánh. Hậu quả của một xã hội phi Cơ đốc chính là bạo lực, hận thù, gian dối và quyền làm người bị loại bỏ, nhân phẩm phụ nữ bị chà đạp. Một hiện tượng gần đây nhất là tổ chức khủng bố IS, nó đã gây nên bao nỗi kinh hoàng trên thế giới. Tại sao? Vì trong tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo IS đó, những người lãnh đạo đã thay thế Đức Chúa Trời và Kinh Thánh bằng học thuyết của họ. Khi Kinh Thánh bị con người loại bỏ sang một bên, thì bất cứ điều gian ác, tệ hại nào cũng có thể xảy ra. Những tội ác của Nhà nước Hồi giáo IS như: giết con tin, bắt cóc, chặt đầu nhà báo, binh lính, và gần đây nhất vào thứ sáu ngày 13 tháng 11 năm 2015 là vụ khủng bố kinh hoàng ở Paris đã gây ra sự phẫn nộ trên toàn thế giới (11). Tại sao như thế? Vì con người đã loại bỏ đạo đức Cơ đốc và chọn cho mình con đường diệt vong.

paris

Khi Kinh Thánh bị con người loại bỏ sang một bên, thì bất cứ điều gian ác, tệ hại nào cũng có thể xảy ra. Những tội ác của Nhà nước Hồi giáo IS như: giết con tin, bắt cóc, chặt đầu nhà báo, binh lính, và gần đây nhất vào thứ sáu ngày 13 tháng 11 năm 2015 là vụ khủng bố kinh hoàng ở Paris đã gây ra sự phẫn nộ trên toàn thế giới (11). Tại sao như thế? Vì con người đã loại bỏ đạo đức Cơ đốc và chọn cho mình con đường diệt vong.

3.Làm thế nào để đạo đức Cơ đốc đi vào xã hội?

Đạo đức Cơ đốc chỉ có thể đi vào xã hội khi công tác truyền bá Phúc Âm kết quả lan rộng trong xã hội. Tuy nhiên đây vẫn chưa phải là điều kiện đủ để trả lời cho câu hỏi này. Nếu mỗi môn đồ của Chúa Jesus không sống đúng với Lời dạy của Chúa thì rõ ràng là chúng ta sẽ không có câu trả lời ở đây. Tuy nhiên có một thực tế đáng mừng là đạo đức Cơ đốc đã và đang tiếp tục đi vào các hoạt động trong đời sống. Lúc đầu tiên nó có thể chỉ là một ngọn lửa bé nhỏ từ một que diêm, nhưng khi có hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu người đốt lên những que diêm khác thì đó sẽ là một ánh sáng lớn lan tỏa chung quanh. Trong tác phẩm Nền Đạo đức Tin Lành và tinh thần của Chủ nghĩa tư bản tác giả đã nhận định: “Nền đạo đức Cơ đốc đã có một vai trò rất lớn góp phần trong việc mang đến sự phồn vinh thịnh vượng của Phương Tây và Hoa kỳ.” Một học thuyết đạo đức như vậy nên được áp dụng cho mọi quốc gia. Điều này tùy thuộc vào sự cầu nguyện của Hội thánh, bởi vì khi Hội thánh cầu nguyện thì Đức Chúa Trời hành động. Lòng các vua ở trong tầm kiểm soát của Chúa, Ngài có thể điều khiển họ theo ý Ngài (Châm 21:1). Thực ra chính Hội thánh của Đức Chúa Trời nắm quyền điều khiển dòng lịch sử của mọi quốc gia bằng sự cầu nguyện. Đây là uy quyền mà Chúa đã ban cho Hội thánh, như lời Chúa Jesus đã phán dạy trong Phúc Âm Ma-thi-ơ (12).. Khi Hội thánh thực hiện chức năng đóng và mở ở dưới đất, thì trên trời Chúa cũng sẽ đóng và mở. Vì vậy người viết lịch sử không phải là các thể chế đời này mà chính là Hội thánh. Thế nhưng khi Hội thánh đánh mất uy quyền quản trị thế giới của mình vì cớ tội lỗi, thì đó là một bi kịch. Khi ấy Satan dường như thắng thế, nhưng đến cuối cùng nó chắc chắn sẽ bị tiêu diệt (13).

Trong phạm vi bài viết này, người viết xin trình bày một số phương án để đạo đức Cơ đốc đi vào xã hội:

• Các hội thánh Tin lành nên đẩy mạnh sự tham gia và mở rộng các hoạt động xã hội vì cộng đồng. Khi Hội thánh trưởng thành về phương diện thuộc linh thì Hội thánh cũng được Chúa ban phước để có thể tiến hành các chương trình phục vụ cộng đồng.

• Mỗi một Cơ đốc nhân cần được dạy dỗ và ý thức trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nếp sống đạo giữa xã hội. Những người làm công tác mục sư phải làm gương trong điều này, và dạy cho các thành viên trong hội thánh. Không có công tác nào có thể thay thế cho nếp sống đạo của Cơ đốc nhân. Nếu có những công tác tốt nhưng phẩm hạnh của người Cơ đốc không tốt theo tiêu chuẩn của Kinh thánh thì hệ quả theo sau nó là người ta sẽ không tin vào hệ thống hay học thuật đạo đức Cơ đốc. “Các anh dạy cho người ta sống tốt theo gương mẫu Chúa Jesus, nhưng cách sống của các anh thì ngược lại với những gì anh dạy”. Lời phản ánh này sẽ là một bi kịch cho Cơ đốc giáo và nền đạo đức Cơ đốc. Đạo đức Cơ đốc có nghĩa là người môn đồ của Chúa Jesus phải sống giống như thầy mình. Đó là con đường thập tự giá.

• Những nhà lãnh đạo Cơ đốc phải là những người xây dựng chiến lược và kế hoạch để quảng bá đạo đức Cơ đốc ra toàn xã hội. Muốn thực hiện điều này, nhu cầu hiện nay của hội thánh là phải có những người lãnh đạo được học tập và trang bị mọi kiến thức, hiểu biết về nghệ thuật lãnh đạo. Khi chưa xuất hiện những nhà lãnh đạo như vậy, hội thánh chỉ có thể thực hiện những công tác giới hạn theo tầm nhìn của hội thánh. Hãy nhìn xem Hội thánh Saddleback ở miền Nam California do Mục sư Rick Warren quản nhiệm. Đây là một hội thánh có chiến lược quảng bá nền đạo đức Cơ đốc ra bên ngoài xã hội thông qua các chương trình phục vụ cộng đồng (14). Sự thành công của Mục sư Rich Warren được nhà báo Đoàn Thanh Liêm ghi nhận như sau:
“Điều đáng ghi nhận hơn cả về vị mục sư danh tiếng này, chính là việc ông đã tổ chức cho các tín đồ và các bạn hữu thân tín của mình tham gia dấn thân nhập cuộc với các dự án hết sức lớn lao về xã hội, y tế, giáo dục và phát triển có tầm vóc toàn cầu.” (15)

muc-su-Rick-Warren-227x300

• Như vậy đạo đức Cơ đốc không còn là giáo điều, nhưng là hành động cụ thể vì phúc lợi của cộng đồng. Cộng đồng đó có thể là một quốc gia nghèo đói ở Châu Phi đang cần tình yêu của Chúa Jesus chia sẻ cho họ hay bất kỳ một nhóm người nào trên thế giới đang sống trong những điều kiện thiếu thốn và chưa có cơ hội tiếp xúc với Kinh Thánh.

4. Kết luận.

Đạo đức Cơ đốc là đạo đức của Chúa Jesus Christ. “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống” (1 Giăng 5:12). “Sự sống” mà câu Kinh Thánh này đề cập đến bao hàm luôn cả đạo đức Chúa Jesus trong đó. Đạo đức Cơ đốc bắt đầu từ khi Chúa Jesus nhập thế làm người, và nó sẽ tiếp diễn cho đến khi Chúa Jesus Christ tái lâm và cả trong cõi đời đời, vì nó chính là đạo đức của Đức Chúa Trời.
Chúng ta với tư cách là những Cơ đốc nhân, chúng ta có Thánh Linh sự sống (Rô-ma 8:2) ở bên trong có thể thoát khỏi những ràng buộc của luật pháp, để có khả năng tái hiện đời sống Chúa Jesus trên đất. Đây chính là đạo đức Cơ đốc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

(1) https://vi.wikipedia.org
(2) Charles E. Curran, Richard A. McComick. Reading in Moral Theology, Volume 7, Nxb Paulist Press, Newyork , 1991, tr 239
(3) Giăng 1:4-5.
(4) Nguyễn Ngọc Long, Giáo trình Đạo đức học, Nxb Chính Trị Quốc gia, H. 2000, tr. 8.
(5) Đặng thị Lan. Về vai trò của đạo đức tôn giáo trong đời sống xã hội. Tạp chí Triết học. http://chungta.com
(6) William Barlay. Ethics in a Permissive Society, Harper & Row, Publisher, Inc, Newyork 1971, p. 13.
(7) Ma-thi-ơ 22:37-39
(8) Max Weber. Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Nxb. Trí thức, 2008, tr. 131-145.
(9) Đạo đức thời kỳ này được Giáo hội Công Giáo ngày nay đánh giá rằng: “nặng về mặt tiêu cực, dạy điều cấm hơn khuyên phải làm, dạy tránh tội hơn là làm phước, sợ hình phạt do phạm tội hơn là mất ân sủng của Chúa ban. Đạo Chúa như là con đường đi qua bãi mìn hơn là con đường thoải mái đưa đến hạnh phúc thật”. Trương Như Vương. Tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong Kinh Thánh. Nxb. Tôn giáo. Tr. 2.
(10) 1 Sa-mu-ên 16:7
(11) http://vietdaikynguyen.com/
(12) Ma-thi-ơ 18:18
(13) Khải huyền 20:10
(14) https://vietbao.com/
(15) https://vietbao.com/

TƯỜNG VI

http://huongdionline.com/

KÝ ỨC PHỤC SINH

the_walk_to_emmaus

MỪNG CHÚA PHỤC SINH 2016

Thay mặt Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam

Hội trưởng: Mục sư Nguyễn Đức Na

KÝ ỨC PHỤC SINH
( The Resurrection Memory )

Trong mùa Phuc sinh năm nay tôi muốn cùng tôi con của Chúa suy nghĩ về những ký ức đã được sống lại trong số các môn đồ (disciples) và các sứ đồ của Chúa (apostles) trong khoảng thời gian  từ khi Chúa bị bắt bớ, chịu thương khó và sống lại từ âm phủ .

I/ SƠ LƯỢT VỀ KÝ ỨC:

(Generality of Memory)

Ký ức (Trí nhớ) là khả năng của trí óc có Thể nhớ lại những sự kiện mà nó đã ghi nhận. Khi chúng ta không nhớ nổi một sự kiện mà ai đó nhắc lại, ta thường nói tôi e rằng sự kiện đó đã trượt khỏi ký ức của tôi .(I am afraid that the fact slipped my memory.)
Trong nảo bộ của con người, khoa học tìm thấy rằng có một vùng gọi là ” hạnh nhân” (amygdala) nó  tạo cảm xúc và in dấu những ký ức của con người.  Lớp ngoài của vỏ nảo lưu giữ trí nhớ ( ký ức) dài hạn ở những khu vực khác nhau.Một Vùng sâu trong nảo bộ (hippocampus) sẽ có nhiệm vụ duy trì ký ức.

 II/ ĐIỀU KIỆN ĐỂ KÝ ỨC HỒI SINH.

 (Conditions for resurrection memory)

 1/ Hiện Tượng Sinh Học:

 ( Biological phenomena )

 Muốn ký ức tái xuất hiện, ký ức phải được in dấu trong vỏ nảo và được lưu giữ ở đó.

 2/ Hiện Tượng Tâm lý.

 ( Psychological phenomena )

Một người có lòng nhân ái (charity) thì ký ức dễ tái hiện.

Hai môn đồ đi về làng Em-ma-út cùng với Chúa, họ đã chân tình với lòng nhân ái, giục Ngài vào làng nghĩ lại đêm vì trời đã sập tối. Họ lo cho sự an nguy của người khách bộ hành xa lạ với hành trình tiếp theo trong đêm tối. (Luke 24:29 ) But they urged him strongly, “Stay with us, for it is nearly evening; the day is almost over.” So he went in to stay with them.”

Giả sử họ không nhiệt tình mời Chúa với lòng Trắc ẩn (compassion) thi họ đã không gặp được “Chúa Phục Sinh”,hay nói cách khác ký ức về Chúa không có dịp hồi sinh đúng lúc.

3/ Hiện Tượng Hướng Thượng.

 (Spiritual phenomena )

Một tấm lòng hướng thượng cũng là một điều kiện để ký ức hồi sinh.

Hai môn đồ tìm kím Chúa nhưng không gặp, lòng họ buồn bã không biết Chúa mình đang ở đâu vì như Chúa quở trách họ  là “ngu dại và có lòng chậm tin vào những lời tiên tri.” “How foolish you are, and how slow of heart to believe all that the prophets have spoken” ( Luke 24:25).

Tuy vậy lòng họ lúc nào cũng suy nghĩ về Chúa mình. Một tâm hồn hướng thượng.

Chúng ta ai cũng biết rằng Juda là sứ đồ của Chúa, nhưng lòng Ông hướng về vật chất nên lời quở trách của Chúa trực tiếp đến với Ông không được kích hoạt để in dấu ở vỏ nảo để được duy trì. Do đó Juda không có một ký ức nào để hồi sinh! Và Ông đã treo cổ tự vận!

4/ Đức Thánh Linh Hành Động .

Trong đời sống thuôc linh, những người thuộc về Đức Chúa Trời thì Đức Thánh Linh là Đấng sẽ hành động trong chúng ta để ký ức của chúng ta tái xuất hiện với mục đích làm cho chúng ta ăn năng, nóng cháy và đứng dậy Phuc sự Ngài.

” But the Councellor,  the Holy Spirit, whom the Father will send in my name, will teach you all things and will remind you of everything.”

III/ NHỮNG YẾU TỐ GIÚP KÝ ỨC HỒI SINH:

  (Elements to support the resurrection of memory)

1/ Hành Động. (Action).

 Đang khi ngồi ăn cùng 2 môn đồ, thì Chúa hành động với tư cách là Chúa của họ chứ không phải là khách mời. Ngài chủ động lấy bánh, cảm tạ, bẻ ra và phân phát cho họ. Ngài biết rằng hành động của Ngài sẽ tái hiện ký ức về Chúa của họ vì nhiều lần các môn đồ này đã ghi nhận hình ảnh Chúa lấy bánh , tạ ơn rồi bẻ ra và phân phát cho môn đồ. Thay vì Chúa nói với họ Ta là Chúa phục sinh đây, Ngài cho họ  một hành động , tức thì mắt họ mở ra và nhận biết Ngài.

” When he was at the table with them, he took bread, gave thanks, broke it and began to give it to them. Then their eyes were opened and they recognized  him, and he disappeared from their sight.”

  2/ Âm Thanh. (Sound)

 Phi-e-rơ trong khi đứng trước uy quyền đã để cho tâm thần mình yếu đuối cho nên đã chối Chúa đến 3 lần.Tức thì gà gáy, một âm thanh vang lên trong khoản không gian tỉnh mịnh va lạnh lẻo “tiếng gà gáy “. Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa phán “Trước khi gà gáy,  ngươi sẽ chối ta 3 lần.”  Mặc dù trước đó Phi-e-rơ đang nói những lời mạnh mẽ, quyết chí theo Chúa tưởng chừng không ai bằng.

“Immediately a cock crowed . Then Peter remembered the words Jesus had spoken: Before the cock crows, you will disown me three times.”

Âm vang tiếng gà gáy đã hồi sinh ký ức của Phi-e-rơ. Ông đã đi ra ngoài và khóc lóc đắng cay.

” And he went outside and wept bitterly.”

3/ Hình ảnh. (Image)

Khi tiên tri Giô-na đã theo ý mình, không vâng lời Chúa đến cảnh cáo thành Ni-ni-ve mà đi Ta-rê-si, bảo tố nổi lên và người ta trên thuyền phát hiện lý do bảo tố là vì Giô-na.

Giô-na bằng lòng để người ta liệng mình xuống biển để sóng yên gió lặng.

Chúa đã dự bị một con cá lớn nuốt Giô na vào bụng.

Trong bung cá, Giô-na để cho ký ức mình hồi sinh. Ông thấy đền thánh mà Ông đã từng ở trong đó nguyện cầu.

Giô na nói rằng tôi đã bị ném khỏi trước mặt Ngài; dầu vậy tôi còn nhìn lên đền thánh của Ngài.

“I have been banished from your sight; yet I will look again towards your holy temple.” ( Jonah 2:4) 

Giô-na đã cầu nguyện với ký ức là mình đang ở trong đền thánh và đã cầu nguyện rằng khi linh hồn tôi mòn mõi trong tôi, thì tôi nhớ đến Đức Giê Hô Va, và lời cầu nguyện của tôi đạt đến Ngài, vào đền thánh Ngài.

 “When my life was ebbing away, I remember you, Lord, and my prayer rose to you, to your holy temple.”

LỜI KẾT:

Mong rằng khi đọc những giòng chữ này, lòng của quý vị hãy rộng mở với lòng vị tha, nhân ái, mọi tự ái , tị hiềm nhỏ nhen nhường chỗ cho tình yêu của Chúa Phục sinh để những ký ức đáng trân quý trong mỗi chúng ta được Đức Thánh Linh làm cho sống lại . Khi đó chúng ta cũng sẽ nói như các môn đồ có ký ức về Chúa phục sinh rằng : “Lòng chúng ta há chẳng nóng nảy sao? Nội giờ đó họ liền đứng dậy, trở về thành Giê ru sa lem gặp mười một sứ đồ cùng các môn đồ khác đương nhóm lại nói với họ rằng: Chúa thật đã sống lại, và hiện ra với Si môn”.( Luca 24: 32-34). 

Và nếu có ai hỏi bằng cớ Chúa sống đâu nào, “rằng Chúa sống trong lòng này” một cách chân thành không hề dối trá, hay tô vẻ cho mình một hình thức “Phục sinh” bên ngoài với đủ mọi nhản mác (lables) để tự đánh lừa mình và đánh lừa người khác.

Một đời sống thực sự Phục sinh là một đời sống nóng cháy phục vụ tha nhân theo gương “Chúa Jesus Phục Sinh.”, là một đời sống đích thực phước hạnh.

 

Amen.

Mục sư JosephNa.

KỶ VẬT ĐỂ LẠI

ky vat

Gia đình của Paul Weeks đi du lịch từ Australia đến Malaysia vào đầu tháng 4 năm nay. Họ được hạnh phúc bên nhau tại đất nước xinh đẹp có tòa tháp đôi Petronas. Vì tài chánh eo hẹp, họ chỉ có ít ngày đi chơi ngắn ngủi rồi phải chia tay nhau. Vợ anh, Danica và hai con sẽ bay về lại Australia, còn anh sẽ bay đi Mông-Cổ.

Hôm nay, họ thực hiện cuộc chia tay đó và cùng ra sân bay trên một chiếc taxi trong thời tiết nắng đẹp…

Ngồi thoải mái ở băng ghế trước, Weeks quay lại hào hứng nói với Danica:

– Anh đến Mông-Cổ làm kỹ sư cơ khí cho một hãng xưởng chuyên sản xuất máy móc nông nghiệp. Anh sẽ ký hợp đồng với họ trong thời gian 5 năm với mức lương cao. Mỗi năm, anh được nghỉ phép nửa tháng để về thăm em và các con một lần. Vì cuộc sống, chúng mình đành phải tạm xa nhau vậy.

Dù đã được nghe Weeks nói vài lần và cả hai vợ chồng nằm đêm tâm sự với nhau, Danica cũng không khỏi chạnh lòng khi mình sắp sửa xa cách người chồng yêu dấu. Cô nói nhỏ với chồng:

-Em biết, anh yên tâm mà đi. Ở nhà, em sẽ lo cho hai đứa nhỏ.

Lincoln Weeks, thằng con trai lớn 3 tuổi, nghe lõm bõm được câu chuyện, dù không hiểu hết, nó chen vô:

-Ba cứ đi đi, ở nhà con sẽ ngoan với mẹ.

-Ừ, con trai của ba, giúp ba nhé. Lại trông chừng em nữa đó!

-Dạ.

Còn Jack Weeks 11 tháng tuổi thì đã ngủ ngon ở băng sau trong chiếc ghế dành cho trẻ em, gương mặt như thiên thần.

Họ lại im lặng với nhau, mỗi người một ý nghĩ cho đến khi taxi đưa gia đình Weeks đến sân bay…

Paul Weeks và Danica đã lập gia đình với nhau được 5 năm. Cuộc sống hôn nhân của họ không được suông sẻ lắm. Thời trẻ, Weeks nhập ngũ trong quân đội New Zealand. Sau khi giải ngũ, anh theo học ngành cơ khí nông nghiệp và tốt nghiệp bằng kỹ sư. Mãi đến năm 34 tuổi anh mới gặp được Danica, một cô giáo tiểu học còn rất trẻ. Weeks da ngăm đen, cao lớn và rắn rỏi còn Danica thì dáng thon thả, da trắng như trứng gà bóc nhưng họ yêu nhau nhiệt thành và cưới nhau luôn trong năm. Căn nhà của họ ở Christchurch sau vài năm chung sống không may bị động đất tàn phá nên gia đình phải chuyển tới sinh sống ở Australia. Ở đây, công ăn việc làm có phần khó khăn, nhất là sau khi Danica sinh đứa con thứ hai, cô ấy phải nghỉ dạy học để ở nhà chăm sóc hai đứa trẻ. Trong hoàn ảnh như vậy, đọc được thông tin tuyển việc làm là người nước ngoài trên báo, Weeks liên lạc với họ và quyết định đi Mông Cổ với hy vọng đổi đời.

Hôm nay, ngày ấy đã tới, anh như chạm được vào cánh cửa của ước mơ đã biến thành sự thật…

Xuống xe taxi, Weeks đẩy xe hành lý cùng vợ và các con vào quầy làm thủ tục cho cả hai chuyến bay. Anh sẽ lên chuyến bay MH.370 của Malaysia Airlines từ Kuala-Lumpur đi Bắc Kinh, rồi sau đó chuyển tiếp máy bay khác đi Mông-Cổ, vợ và hai con sẽ đi một chuyến bay khác sau đó vài giờ để về Australia.

Trong phòng chờ trước khi vào phòng cách ly, vì chuyến bay của Weeks cất cánh sớm hơn chuyến bay của Danica, anh tháo chiếc nhẫn cưới và chiếc đồng hồ đang đeo ra, nói với Danica:

– Đây là kỷ vật trong ngày cưới của chúng ta. Nếu có chuyện gì xảy ra với anh, nhẫn cưới của chúng ta sẽ được trao lại cho đứa con nào cưới vợ trước. Đứa cưới vợ sau sẽ có cái đồng hồ này của anh.

Danica giận dỗi:

– Sao anh lại nói gở như thế! Anh không giữ gì để kỷ niệm cho mình, để nhớ em và các con sao?

– Không sao đâu, hình ảnh em và các con nằm trong tim anh, làm sao quên được. Nhưng tính anh cẩn thận, lo xa như thế cũng không thừa đâu.

Danica buộc phải cầm lấy kỷ vật của chồng, cô rơm rớm nước mắt:

– Em cầu Chúa ban bình an và phúc lành cho anh.

– Anh cũng chúc em và các con vui vẻ, về Úc bình an. Anh đã nhờ nhân viên trợ giúp đưa em và các con lên máy bay rồi. Anh sẽ điện thoại ngay khi tới nơi.

Weeks ôm vợ hôn thật lâu, anh xúc động muốn khóc, hai mắt đỏ hoe. Lincoln thấy thế kêu lên:

– Kìa, ba lớn rồi mà còn khóc!

Nói xong, nó lại khóc òa lên làm thằng Jack cũng giật mình khóc theo.

Weeks luống cuống, anh rời khỏi tay vợ ôm lấy Lincoln:

–  Lincoln, con đã hứa với ba là ngoan mà, nín đi con, ba đi rồi ba sẽ về lại với con thôi.

Thằng bé chỉ còn thút thít. Weeks quay sang vợ, Jack vẫn đang khóc. Anh đỡ lấy con từ Danica, hôn lấy hôn để vào đôi má đỏ hồng của nó, thằng bé cũng im bặt. Weeks hôn vợ lần nữa, nắm tay các con thật chặt, che dấu những giọt nước mắt vụng về rồi vội vã vào phòng cách ly, mặc cho Lincoln khóc thét và gào lên:

–            Ba ơi, cho con đi với ba!

Trong cửa kính, Weeks đưa tay chào cả nhà một lần nữa. Danica ngồi sụm xuống ghế, mắt nhòa lệ…

images (1)

Nhưng định mệnh thật trớ trêu, chỉ một tiếng đồng hồ sau khi máy bay cất cánh từ Kuala-Lumpur ngày 8/3/2014, Weeks cùng 238 người khác cùng đi trên chuyến bay MH.370 đã biến mất trên bầu trời cách bí ẩn. Thật không ngờ buổi chia tay tạm biệt đó trở thành một cuộc chia ly dài vô tận. Ước mơ của Weeks như tưởng nằm trong tầm tay lại vụt bay đi. Weeks không tới được Mông-Cổ để thực hiện ước mơ đổi đời và bao nhiêu “chuyến đi cuộc đời” bị lỡ chuyến, không tới được nơi mình định đi đến. Thật là một thảm họa trong lịch sử hàng không thế giới.

Danica không hề hay biết gì hết, cô cùng hai con đáp một chuyến bay khác sau đó vài tiếng đồng hồ và về Australia bình an. Ngày hôm sau, tin tức truyền thông loan báo chuyến bay MH.370 mất tích nhưng Danica không nhớ rõ số hiệu chuyến bay của chồng và cũng không nghĩ rằng chuyến bay đó có Weeks. Lo lắng, Danica gọi điện thoại đến văn phòng Malaysia Airlines để xác minh, cô đổ gục xuống sàn khi nhân viên sân bay thông báo có tên Paul Weeks trong danh sách. Không hết hy vọng, Danica gọi điện cho bạn của chồng mình, người sẽ đón anh ấy tại Mông-Cổ để xem thử anh ấy đã đến chưa, cô ngã xuống một lần nữa khi nghe tin không có anh ấy trong chuyến bay đến Mông-Cổ sáng hôm nay.

Danica không dám cho Lincoln biết, nó hãy còn quá nhỏ không thể hiểu và hình dung được điều gì mà có thể sẽ bị sốc nữa. Cô cam chịu một mình, chưa vội tin cho gia đình vì Danica vẫn hy vọng máy bay đang ở đâu đó…

Hai ngày, ba ngày, năm ngày… và nhiều ngày trôi qua máy bay vẫn bặt vô âm tín, hy vọng trong cô giảm dần và gần như tuyệt vọng. Cha mẹ, anh em đôi bên gia đình đã biết tin, họ đến để cùng chia sẻ nỗi đau với Danica. Cô nói cứng với mọi người:

-Tôi không thể từ bỏ hy vọng. Tôi muốn được nhìn thấy anh ấy như thường ngày. Anh ấy sẽ đi làm về, đứng trước cửa ra vào và chúng tôi sẽ lao ra ôm anh ấy. Rồi tôi có thể nhìn thấy anh ấy mọi nơi trong căn nhà!

Tuy nói như vậy nhưng trong lòng Danica như có ai vò nát từng cơn, mỗi lúc mỗi nóng hơn, rát hơn. Cô bắt đầu đau dạ dày, không ăn uống và cũng không ngủ được chút nào. Các con của Danica đã được người nhà nhận chăm sóc, còn cô suốt ngày ngồi cạnh tivi, máy tính để cập nhật tin tức về chuyến bay, trả lời điện thoại và khóc…

Chuyến bay đã biến mất một cách kỳ lạ, không để lại một thông tin nào. Đến nay, mọi cố gắng tìm kiếm đều thất bại. Người ta tin rằng biển sâu trên 4.500m ở Nam Ấn-độ -dương là mồ chôn tập thể vĩnh viễn chiếc Boeing 777-200 với 239 nhân mạng.

Danica không còn sức để khóc. Cô như người mất hồn. Ngày nào cô cũng lấy hai kỷ vật để lại của chồng ra mân mê, ngắm nghía, nói lẩn thẩn một mình:

– Cái nầy của Lincoln, cái nầy của Jack, còn của em đâu Weeks? Anh biết lần nầy sẽ đi xa, xa lắm và không trở về nữa, sao anh không cho em cùng đi với anh? Tại sao? Người ta chuẩn bị để sống còn anh chuẩn bị để chết? Sau nầy, em sẽ trả lời với con ra sao khi chúng hỏi về anh đây hả Weeks?

Ai nghe Danica lẩm bẩm mà không khỏi cầm được nước mắt? Mọi sự an ủi lúc nầy có vẻ như thừa, chỉ có thời gian mới chữa lành được vết thương lòng. Và thật vậy, thời gian dần trôi, nỗi đau như được chữa lành, Danica đã vững vàng hơn nhiều.

Trong buổi cầu nguyện tại nhà thờ nhân kỷ niệm một tháng ngày máy bay mất tích, Danica nhớ từng lời của vị mục sư nói:

– Chúa có chương trình tốt đẹp cho mỗi người chúng ta. Mọi người sinh ra trên đời đều có một thời gian dành cho mình dài hay ngắn là tùy theo ý muốn và là bí mật của Ngài. Ai trong chúng ta cũng phải từ giã cõi đời, chỉ khác là sớm hay muộn và ra đi như thế nào mà thôi. Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã sống thế nào trong quỹ thời gian ít ỏi mà Thiên Chúa ban tặng cho ta đó?

Paul Weeks đã sống một cuộc sống có giá trị, biết yêu thương và chia sẻ rồi anh đã ra đi như một người dũng cảm ở tuổi 39. Weeks đã giã từ chúng ta để đi xa cùng với rất nhiều người nhưng ta tin rằng anh ấy đã chuẩn bị để đến được cõi vĩnh hằng. Danica cùng các con của cô và chúng ta đau buồn vì không còn anh ấy ở đây nhưng ít nữa chúng ta cũng được sự an ủi nầy: Chúa đã tiếp đón Weeks vào trong vòng tay của Ngài.

Điều Thiên Chúa đã lấy đi ít hơn điều Danica còn lại: Cô ấy còn hai đứa con là hình ảnh của Weeks cùng kỷ vật để lại của anh: Một chiếc nhẫn cưới, một cái đồng hồ đeo tay. Hai kỷ vật nầy thật là ý nghĩa cho Lincoln và Jack cũng là niềm tự hào cho Danica nữa.

Danica, cô còn hơn nhiều người lắm! Cô có những ngày hạnh phúc với Weeks, có kỷ vật để lại của anh và những phút giây chia tay thật cảm động nhưng những người khác thì không có được như vậy. Đó là niềm an ủi cho cô. Cầu Chúa ban bình an cho cô và các cháu…

Tôi rất xúc động khi viết lại câu chuyện nầy dưới hình thức một truyện ngắn và xin dừng lại ở đây với một câu hỏi cho mình và cho bạn:

–  Vì ngày mai là một bí mật nên chúng ta đã chuẩn bị gì cho chuyến đi của mình và định để lại kỷ vật nào cho những người thân yêu?

THUẬN THIÊN

ĐỪNG HAM CHỨC VỤ

Dường như sự cô đơn là cái giá mà ông phải trả cho sự kêu gọi của mình. Khi nghĩ về những ngày đã qua, về họ, những người ông yêu thương nhất cũng lại là những người đem đến cho ông nhiều nỗi đau nhất.

Họ không hiểu sự kêu gọi của ông!

Ông mang ơn chị, người đã cứu ông thoát chết khi còn nhỏ, người đã đi cùng ông suốt những ngày khó khăn trong đồng vắng. Nhóm múa Mi-ri-am của chị đã truyền lửa mạnh mẽ cho cả trại quân.

A-rôn lại giúp ông nói chuyện với Pha-ra-ôn, rồi khi vào đồng vắng anh ấy giúp ông chăm sóc bầy chiên của Chúa trong vai trò thầy tế lễ thượng phẩm.

Hai người ấy luôn ở bên phải ông vậy. Ông sống một mình đã lâu, vợ ông đã bỏ đi kể từ ngày ông quay lại Ai Cập, chỉ còn họ là anh, chị, là bạn đồng lao của ông. Vậy mà họ cũng nghi ngờ ông, nghi ngờ thẩm quyền mà Chúa đặt để ông, họ thắc mắc tại sao chỉ một mình ông được ra mọi quyết định, tại sao lúc nào cũng là ông mà không phải là họ: thầy tế lễ thượng phẩm A-rôn hay nữ tiên tri Mi-ri-am. Họ nghĩ ông độc đoán và tự tôn cao mình.

Mi-ri-am khó chịu về điều này, chị ấy kéo A-rôn vào cuộc. A-rôn thì vẫn vậy, tính anh ấy dễ cả nể lắm, không quyết đoán được. Bởi vậy mà bị dân sự lôi theo làm bò vàng để thờ, nhờ Chúa thương nhận lời cầu thay của ông chứ không thì bị phạt chết rồi. Lần này cũng thế, chẳng suy tính gì cả, nghe theo Mi-ri-am kiện cáo ông. Họ nghĩ ra kế rằng ông phạm tội vì cưới người Cu-sơ làm vợ. Nhưng lúc đó Chúa chỉ cấm lấy người Ca-na-an thôi, chứ đâu cấm lấy người Cu-sơ là một dân tộc ở gần Ai-Cập. Thực ra là chị ấy ghen tỵ vì Chúa chỉ phán với ông không phán với chị ấy.

Ông thì lại khác, ông muốn tất cả mọi người đều nói tiên tri được, ông muốn thêm nhiều người giúp ông gánh vác công việc nặng nề này nhưng chị ấy mất bình an. Chị ấy cảm thấy giá trị của mình bị ảnh hưởng, đặc biệt là sau khi bầu thêm bẩy mươi trưởng lão, chị ấy cảm thấy vị trí của mình không còn quan trọng như trước nữa.

Chị ấy lớn lên ở Ai Cập, dân tộc chị bốn trăm năm làm nô lệ, đã có bao giờ được tôn trọng, được vị thế đâu nên địa vị, quyền lực quan trọng lắm. Ông thì lớn lên ở cung điện, ông có nó ngay từ nhỏ, nó chẳng làm cho ông thấy thỏa mãn hay dễ chịu gì.

Mọi chuyện làm sao dấu được Chúa, Chúa giận lắm, phạt chị ấy bị bệnh phong da thịt thối rữa hết một nửa.

Cả trại quân đều biết hết, A-rôn sợ lắm, A-rôn hoảng hốt xin ông hãy cầu thay cho chị ấy.

Làm sao ông có thể quên được cái giây phút ấy, đau đớn, xót thương khi nhìn thân thể của chị mình đang thối rữa ra. Ông nài xin Chúa chữa lành cho chị ấy, Chúa nhận lời ông, nhưng chị ấy vẫn phải ở ngoài trại quân một tuần cho lành hẳn mới được vào lại.

Môi-se dừng lại lấy khăn chặn những dòng nước mắt đang chảy dài trên đôi gò má nhăn nheo của tuổi 120. Đám thanh niên yên lặng, một vài tiếng sụt sịt trong góc lều trại của mấy đứa con gái. Ông ngẩng đầu nhìn bọn trẻ nhẹ nhàng căn dặn:

“Các cháu nhớ nhé, đừng ghen tỵ với người khác, mỗi người có một sự kêu gọi, hãy trung tín với sứ mạng của mình. Địa vị không làm cho chúng ta giá trị hơn đâu, địa vị chỉ là chức việc. Nếu cháu được kêu gọi làm người giúp đỡ thì đừng cố tranh giành để làm lãnh đạo, đừng khó chịu khi thấy người khác hơn mình, Chúa không đẹp lòng đâu và các  cháu sẽ phải gánh hậu quả cho sự ghen tỵ của mình đấy.”

Tác giả khách: Debbie Thuy

RU-TƠ VÀ CHÚA CỨU THẾ

2016_02_21_x6tweckzuyf

Cuối bài trước, Ru-tơ xin Bô-ô chuộc sản nghiệp nàng bởi vì ông là người bà con. Bô-ô ưng thuận, nhưng phải hỏi ý một “người chuộc lại – redeemer”gần hơn. Chữ “người chuộc lại” được dùng mười lăm lần và là một trong những từ quan trọng nhất của cả Kinh Thánh. Từ nầy thường được dùng để chỉ về Chúa Jesus, Ðấng Cứu Chuộc.

Theo Lê-vi-ký 25:48, một người nô lệ có thể được chuộc lại, được mua lại. Một người rơi vào cảnh túng thiếu, phải bán sản nghiệp, thì người bà con gần nhất có quyền chuộc lại (Lê-vi 25:25). Một người chết mà không có con trai, một người anh em chồng có quyền lấy vợ người chết, để nối dõi cho người chết (Phục-truyền 25:5). Ðây là trường hợp “chuộc lại” của Bô-ô và Ru-tơ.

Người chuộc lại” phải là bà con, có khả năng và sẵn lòng chuộc lại. Ru-tơ 2:1 xác định cả ba điều kiện nầy:Na-ô-mi có một người bà con bên chồng tên là Bô-ô, một người quyền thế và giàu có, thuộc gia tộc của Ê-li-mê-léc.”

Vì sẵn lòng chuộc lại sản nghiệp cho Ru-tơ, Bô-ô phải xác định một chỗ họp, mời người bà con gần hơn, mời nhân chứng và công bố rõ vấn đề (Ru-tơ 4:1-4). Bô-ô đến cổng thành chờ người bà con, “mời anh ngồi đây.” Bô-ô cũng mời mười trưởng lão. 

Bô-ô nói với người bà con: “Trước sự chứng kiến của các trưởng lão, xin anh mua lại sản nghiêp của Ê-li-mê-léc cho Na-ô-mi, nếu không thì hãy cho tôi biết, vì sau anh, quyền nầy thuộc về tôi.” Bô-ô tiếp: “Khi mua ruộng, anh cũng lấy Ru-tơ người Mô-áp, để lưu danh người quá cố.”

Câu 6: “Người có quyền chuộc sản nghiệp đáp: ‘Tôi không thể chuộc, sợ làm hại đến sản nghiệp của tôi. Xin anh thay tôi chuộc sản nghiệp ấy.” Ông là người bà con gần nhất, có quyền và có tiền nhưng lại không sẵn lòng.

Bô-ô nói với các trưởng lão và cả dân chúng: “Hôm nay, các ông làm chứng rằng tôi mua tài sản thuộc về Ê-li-mê-léc, Ki-li-ôn và Mạc-lôn và cũng lấy Ru-tơ người Mô-áp, vợ của Mạc lôn làm vợ, để lưu danh người quá cố” (câu 10).

Mọi người ở cổng thành và các trưởng lão đều nói: Chúng tôi làm chứng về điều đó. Chúc anh được nổi danh ở Bết-lê-hem. Nguyện dòng dõi mà Ðức Giê-hô-va ban cho anh qua thiếu phụ nầy sẽ làm cho nhà anh giống như nhà của Pha-rết mà Ta-ma đã sinh cho Giu-đa vậy!” (câu 11).

Mọi người chúc mừng vợ chồng mới sinh được nhiều con, vì “con cái là cơ nghiệp Ðức Giê-hô-va ban cho. Bông trái của tử cung là phần thưởng” (Thi thiên 127:3). Con cái là nguồn phước. Còn được nổi danh? Anh, Chị biết Bết-lê-hem là quê hương của ai? Bết-lê-hem còn được gọi là thành Ða-vít!

Người bà con gần không lấy Ru-tơ vì sợ hại đến sản nghiệp mình. Không ai biết tên ông. Còn Bô-ô được nổi danh suốt lịch sử vì tin cậy Chúa! Sách Ru-tơ bắt đầu buồn thảm nhưng kết thúc với đám cưới hân hoan – như Thi thiên 30:5 mô tả: “Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, Hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.”

Di sản của sách Ru-tơ là con cái – nguồn phước, niềm hân hoan Chúa ban cho người mẹ và gia đình. Câu 13-17:Như vậy, Bô-ô cưới Ru-tơ làm vợ. Họ ăn ở với nhau, Ðức Giê-hô-va cho nàng thụ thai và sinh một con trai. Phụ nữ trong thành nói với Na-ô-mi: ‘Nguyện cháu được nổi danh trong Israel.’ Na-ô-mi bồng đứa trẻ vào lòng mình và chăm sóc nó. Phụ nữ láng giềng đặt tên nó là Ô-bết. Ô-bết là cha của Gie-sê, ông nội của Ða-vít.”

Trước kia ở Mô-áp, Ru-tơ làm vợ Mạc-lôn gần mười năm nhưng không con. Trở về Bết-lê-hem Nhà Bánh, Ðất Hứa phước hạnh, chỉ một năm, Ru-tơ có chồng, có con và cả gia đình chuộc lại được sản nghiệp đã mất.

Câu 15 tuyệt vời ân hậu, ngọt ngào: Ðứa bé ấy sẽ an ủi bà, nuôi dưỡng bà lúc về già, vì con dâu bà đã sinh nó cho bà. Con dâu bà quý hơn bảy con trai.” Vì Ru-tơ chân thành, tận tâm yêu thương mẹ chồng và tin cậy Ðức Giê-hô-va, nàng được phước. Ru-tơ đem phước hạnh chan hòa cho mẹ chồng, đến độ cả thành xem nàng quý hơn bảy con trai.

Ðứa bé là niềm vui và nguồn phước cho cả xóm, vì phụ nữ láng giềng đặt tên cho nó. Ðây là chỗ duy nhất trong cả Kinh Thánh, với người ngoài đặt tên cho con. Ô-bết có nghĩa là “người thờ phượng.” Cả cộng đồng tạ ơn Chúa, thờ phượng Chúa vì Ðức Giê-hô-va đã phục hồi sản nghiệp và phước hạnh cho Na-ô-mi và Ru-tơ.

Ô-bết là phước Chúa cho Bô-ô, Ru-tơ, Na-ô-mi – và nhiều, rất nhiều người. Ô-bết tiếp tục đem phước hạnh đến chúng ta hôm nay – vì tiếp nối thế hệ Ô-bết là Gie-sê, Ða-vít, và Chúa Cứu Thế Jesus, Ðấng Cứu Chuộc. Qua Ngài, mọi người được phước, được tha thứ tội, cứu chuộc và được thiên đàng.

Ru-tơ và Bô-ô sinh Ô-bết. Ô-bết sinh Gie-sê và Gie-sê sinh Ða-vít. Sách Ru-tơ bắt đầu với gia đình Ê-li-mê-léc rời bỏ Bết-lê-hem, Nhà Bánh của Ðất Hứa, làm theo ý mình, đến sống tại Mô-áp. Hai con trai lấy vợ Mô-áp không thờ kính Chúa. Ê-li-mê-léc chết, hai con trai chết, để lại Na-ô-mi một mình, không chồng, không con.

Sách Ru-tơ nối liền Các Quan Xét và Các Vua, sau Sau-lơ đến Ða-vít. Ða-vít nối kết với Giu-đa. Sách Ru-tơ là chuyện tình thiên thượng tuyệt đẹp, nối kết Chúa Cứu Thế Jesus, Ðấng Cứu Chuộc. Ngài sinh hạ tại Bết-lê-hem xứ Giu-đa, bởi trinh nữ Ma-ri như đã được tiên tri từ thời Cựu Ước.

Gia phổ của Ngài ghi rõ trong Ru-tơ 4:12 với tên Pha-rết:Nguyện dòng dõi mà Ðức Giê-hô-va ban cho anh qua thiếu phụ nầy sẽ làm nhà anh giống như nhà của Pha-rết mà Ta-ma đã sinh cho Giu-đa vậy!

Ta-ma là mẹ của Pha-rết. Sáng Thế Ký 38 cho biết Ta-ma giả đóng vai gái mãi dâm để có con nỗi dõi cho chồng, và được Giu-đa, cha chồng khen ngợi là công chính hơn ông. Gia phả của Chúa Cứu Thế Jesus trong Ma-thi-ơ 1:5 cho biết:Sanh-môn bởi Ra-háp sinh Bô-ô. Bô-ô bởi Ru-tơ sinh Ô-bết. Ô-bết sinh Gie-sê, Gie-sê sinh vua Ða-vít.

Ai là mẹ của Bô-ô? “Sanh-môn bởi Ra-háp sinh Bô-ô.” Ra-háp là ai? Ra-háp là kỹ nữ thành Giê-ri-cô (Giô-suê 2:1), người tiếp đón hai thám tử của Israel. Như vậy, chỉ trong mấy câu Kinh Thánh, chúng ta thấy Ta-ma, người nữ đóng vai gái điếm, và Ra-háp, một cô gái điếm.

Ru-tơ, phụ nữ thứ ba trong gia phổ Chúa Cứu Thế là người Mô-áp. Người Mô-áp chuyên thờ cúng tà thần và dâng trẻ con làm sinh tế cho thần của họ. Bát-sê-ba, người nữ thứ tư trong gia phả, vợ của U-ri, sau thành vợ vua Ða-vít và là mẹ của Sa-lô-môn.

Cả bốn phụ nữ nầy đều là dân ngoại. Ta-ma và Ra-háp là người Ca-na-an, Ru-tơ người Mô-áp và Bát-sê-ba là người Hê-tít. Không ai trong bốn người được xem là mẫu mực đạo đức, đáng kính. Ta-ma và Ra-háp là gái điếm. Bát-sê-ba phạm tội ngoại tình. Ru-tơ là dòng dõi thù nghịch với tuyển dân.

Tại sao Ðức Chúa Trời dùng bốn người nữ nầy? Ngài muốn Chúa Cứu Thế vào đời – chuyên chở thông điệp yêu thương, ân sủng, tha thứ, chấp nhận – cho cả dân ngoại và người tội lỗi. Chúa Cứu Thế vào đời không phải chỉ nhắm cứu người lành mạnh, đạo đức nhưng cả người yếu đuối, lầm lỗi, tội ác.

Câu chuyện Ru-tơ xảy ra trong thời hỗn loạn của Các Thẩm Phán mà hầu như ai cũng làm theo ý mình. Ru-tơ, người nữ Mô-áp ngoại bang, trung thành hiếm có với mẹ chồng. Nàng sống đời tận hiến sâu sắc cho Ðức Giê-hô-va. Ru-tơ trở thành tổ mẫu của Ða-vít, vị vua vĩ đại nhất của tuyển dân.

Câu chuyện thời Các Thẩm Phán cho thấy tai họa ập đến khi dân Chúa từ bỏ Ngài. Nhưng sách Ru-tơ cho thấy phước hạnh đến với một người nữ dân ngoại khi nàng quyết tâm nhiệt thành theo Chúa. Nhờ Ru-tơ, phước hạnh đến cho cả nhân loại qua Chúa Cứu Thế Jesus.

Ru-tơ, người nữ ngoại bang xa lạ trở thành tổ mẫu Chúa Cứu Thế Jesus. Nhờ tình thương, can đảm và tận hiến tuyệt vời, Ru-tơ được ghi danh muôn thuở. Vì can đảm, nàng rời bỏ gia đình, quê hương để theo Na-ô-mi, mẹ chồng và để theo Chúa. Ru-tơ hiếu thảo, trung thành, tận tâm tuyệt vời mẫu mực.

Không sợ hãi, Ru-tơ đi mót lúa trên ruộng đồng xa lạ, ngỡ ngàng để tìm thức ăn cho mình và mẹ chồng. Nàng cả gan nghe lời hướng dẫn kỳ lạ của mẹ chồng, đến sân đập lúa giữa đêm khuya.

Ru-tơ yêu thương, hiếu thảo, tin cậy, trung thành với mẹ chồng và cả hai dìu dắt nhau từ thảm cảnh đau thương đến đắc thắng huy hoàng trong ân sủng thiên thượng, nhiệm mầu. Không ai ép Ru-tơ. Chính nàng quyết định chọn con đường hẹp.

Ru-tơ chọn sống cô đơn, lẻ loi – theo mẹ chồng và theo Chúa. Hình bóng tuyệt vời mẫu mực về Chúa Cứu Thế Jesus – Ðấng từ bỏ chính mình, mang hình đầy tớ, và trở nên giống như loài người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phi-líp 2:7-8).

Bỏ việc thờ cúng thần tượng sau lưng, Ru-tơ tin cậy Ðức Giê-hô-va, chân thần duy nhất. Và Ðức Chúa Trời thành tín ban thưởng tình thương và nếp sống tin cậy vâng lời tuyệt vời của nàng một cách đặc biệt.

Anh, Chị có thể là người can đảm theo Chúa như Ru-tơ. Ðức Chúa Trời có thể dùng Anh, Chị và ban phước chan hòa trên Anh, Chị vì lòng nhiệt tình tin cậy vâng lời của Anh, Chị.

Anh, Chị bày tỏ lòng can đảm của mình thế nào trong hoàn cảnh khó khăn, cam go, thách thức? Anh, Chị yêu thương, tử tế và tôn trọng người chung quanh thế nào để họ thấy Chúa và kinh nghiệm được tình thương và ân sủng tuyệt vời của Ngài?

Nếu Anh, Chị chưa theo Chúa, cầu xin Chúa soi sáng, kêu gọi và cảm động để Anh, Chị quyết định tin nhận Ngài hôm nay. Câu chuyện Ru-tơ, Người Nữ Tuyệt Vời được ghi lại trong Thánh Kinh. Mời Anh, Chị tìm đọc cả câu chuyện ngắn tuyệt vời nầy.

Cầu xin Chúa hướng dẫn Anh, Chị để Anh, Chị can đảm đến với Chúa Cứu Thế Jesus như Ru-tơ đã dẫn đường năm xưa. Amen.

MỤC SƯ HỒ XUÂN PHƯỚC

GIẢ HÌNH

lốt chiên

“Hãy giữ chừng tiên tri giả, là kẻ mang lốt chiên đến cùng các ngươi, song bề trong là muông sói vồ xé.”  Mathio 7:15

Lốt chiên sói đội tinh vi,
Nói năng khôn khéo khác gì chiên ngoan,
Nhằm khi thuận lợi làm càn,
Nhe nanh cắn xé bạn vàng ghê thay;
Ai ơi tỉnh thức hằng ngày,
Coi chừng sói dữ ở ngay bên mình.


Minh Khải–

KHỐN NẠN CHO TÔI! XONG ĐỜI TÔI RỒI!

Isa thốt lên, “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi! Tôi chắc phải chết, vì tôi là người có môi ô uế bẩn thỉu, sống giữa một dân có môi ô uế bẩn thỉu, vì mắt tôi đã thấy Vua, là CHÚA các đạo quân” (Isa 6:5)

Năm mà vua Uxia băng hà là năm 740 trước công nguyên. Vua Uxia bị Chúa trừng phạt bị bịnh phung vì người vi phạm luật nơi thánh đốt hương dâng lên Chúa mà không phải công việc của minh. Công việc dâng hương chỉ dành cho những thầy tế lễ dòng dõi Arôn mà thôi mới được dâng hương cho Chúa. Mặc dù Uxia là một vị vua tốt vì người đã mang lại sự hưng thịnh cho đất nước Do Thái, nhưng dân tộc ông lại quên mất Giavê Đưc Chúa Trời, từ bỏ Ngài, và không còn tôn thờ Ngài nữa. Khải tượng của Isa là Chúa kêu gọi bổ nhiệm người thành sứ giả của Đức Chúa Trời cho dân tộc mình. Isa được Chúa ban cho một chức vụ hết sức khó. Dân tộc Do Thái tin rằng Chúa là Đấng ban phước cho họ. Nhưng Isa được Chúa kêu gọi để nói tiên tri là Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt họ vì họ bất vâng phục Chúa, không còn nghe Lời Ngài nữa.

Đoạn Thánh kinh này cho chúng ta thấy cái nhìn cao quý của Isa (Êsai) về Đức Chúa Trời vá nó cũng cho chúng ta một giác quan về sự vĩ đại, huyền nhiệm, và quyền năng của Đức Chúa Trời thánh khiết và tối cao. Isa đã nhìn nhận tội lỗi của mình trước mặt Chúa khích lệ chúng ta phải thành thật xưng tội mình với Ngài. Hình ảnh của sự tha thứ mà Isa kinh nghiệm nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta cũng được Chúa tha thứ như Isa đã kinh nghiệm. Khi chúng ta nhìn nhận Đức Chúa Trời chúng ta thật vĩ đại, còn chúng ta thì quá nhỏ nhoi không ra gì, quá nhiều tội lỗi và mức độ mà Chúa tha thứ chúng ta để rồi chúng ta nhận lấy năng quyền để phục vụ làm công việc của Ngài.

Quý vị anh chị em và độc giả yêu dấu, khi chúng ta nhận biết Chúa, am hiểu Ngài cách tường tận và nhìn thấy Ngài trong sự oai nghi, vinh quang, rực rỡ, và thánh khiết, thì chúng ta sẽ nhận thấy rõ ràng tội lỗi của chúng ta, thực chất của con người thật bề trong của chúng ta. Biết Chúa ít, chúng ta sẽ ít thấy và quan tâm đến tội lỗi mình và chúng ta cảm thấy tự mãn với bản thân mình. Isa hẳn đã rất hài lòng với sự thánh khiết của cá nhân mình cho đến khi ông thấy được CHÚA trong vinh quang khôn tả của Ngài. Nhìn thấy Chúa và lắng nghe những lời ca tụng của thiên sứ, Isa nhận thức rằng mình là con người tội lỗi trước mặt Chúa, không hi vọng so sánh hay đo lường với tiêu chuẩn thánh khiết của Đức Chúa Trời. Khi thiên sứ cầm than lửa đỏ sờ vào miệng của Isa và người cảm nhận được lỗi mình được Chúa xóa, tội mình được Chúa tha. Nhưng đây không phải than lửa đỏ tẩy sạch lòng và môi miệng ô uế bẩn thỉu của mình, mà chính Chúa tha thứ tẩy sạch lòng của Isa. Vì thế mà Isa đã tuân phục vâng lời Chúa cách trọn vẹn khi người nghe tiếng Chúa phán, “Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Mặc dù công tác Chúa giao có khó đến đâu đi nữa, nhưng Isa vẫn sẵn sàng vâng phục Chúa, thi hành nhiệm vụ, và đáp lại tiếng gọi của Chúa, “Dạ, có con đây, xin hãy sai con.”

Khi Isa gặp Đức Chúa Trời thánh khiết mặt đối mặt, ngay lập tức, ông nhận ra sự bất khiết của lòng mình và tội lỗi của những người xung quanh mình. Isa nhìn thấy sự tối thượng siêu việt của Đức Chúa Trời làm cho chúng ta có cảm giác về sự vĩ đại, huyền nhiệm, và quyền năng của Đức Chúa Trời. Chúng ta không thể nào thờ phượng Đức Chúa Trời thánh khiết và vẫn giữ một con người không thay đổi. Dấu hiệu cụ thể rõ ràng nhất của một sự thờ phượng thật là một tấm lòng được thay đổi và một đời sống được biến hóa từ trong ra, khi ở trong sự hiện diện của Chúa. CHÚA không hài lòng chút nào về cách thờ phượng chỉ bằng hình thức tôn giáo bên ngoài chúng ta thường thấy trong các nghi lễ, mà không có thực chất của sự thờ phượng thật. Chính Chúa Giêsu phán, “Đức Chúa Trời là Linh Thần nên ai thờ phượng Ngài phải thờ phượng bằng tâm linh và chân lý hay lẽ thật.” Xưa kia CHÚA Đức Chúa Trời phán, “Dân nầy đến gần Ta chỉ bằng miệng lưỡi. Chúng tôn kính Ta chỉ bằng đầu môi chót lưỡi mà thôi, còn lòng của chúng cách xa Ta lắm. Chúng thờ phượng Ta vì theo truyền thống của loài người. Những gì chúng được dạy bảo chỉ toàn là sáo ngữ” (Isa 29:13).

Anh chị em yêu dấu! Câu hỏi là chúng ta có quá đồng hóa mình với thế gian tội lỗi đến nỗi chúng ta hài lòng với cách sống bất khiết của mình? Chúng ta có chìm quá sâu dưới tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời đến nỗi có người nào đó sống và làm theo ý Chúa thì chúng ta cho rằng người đó “quá thiêng liêng, siêu tâm linh?” Nếu chúng ta chỉ so sánh sự tinh bạch thánh khiết của mình với những người xung quanh, chúng ta có thể bị lừa và tin rằng chúng ta đang sống một đời sống tận hiến phục vụ Chúa. Nhưng khi chúng ta gặp Đức Chúa Trời thánh khiết mặt đối mặt, nhìn thấy vinh quang oai nghi của Ngài, chúng ta chỉ có thể thốt lên như Isa, “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi!” Ai có thể đứng nổi trước mặt CHÚA Đức Chúa Trời thánh khiết nầy? Và chỉ khi đó bạn mới nhận ra nhu cầu thật của những người xung quanh mình. Bạn sẽ không thấy những người xung quanh bạn tin cậy Chúa Giêsu cho đến khi họ nhận ra sự khác biệt rõ ràng giữa bạn và thế gian. Đức Chúa Trời muốn thánh hóa bạn và tôi vì Ngài là thánh. Trước khi về trời Chúa Giêsu cầu nguyện cho môn đệ Ngài rằng, “Xin Cha dùng Chân lý thánh hóa họ. Lời Cha chính là Chân lý.” Lời cầu nguyện của Chúa cũng áp dụng cho các môn đệ của Ngài là chúng ta ngày hôm nay. Khi Đức Chúa Trời giải quyết xong với bạn, thì sẽ có mùi thơm ngọt ngào tinh khiết tỏa ra trong cuộc đời bạn. Nó hoàn toàn khác với đời sống mà thế gian tạo nên. Thế gian, bao gồm những người gần gũi nhất với bạn sẽ tin rằng bạn đang thờ phượng một Đức Chúa Trời chân thật, thánh khiết qua đời sống tận hiến của mình.

Chúa ôi! Xin Ngài thương xót con là người có tội! Xin huyết Chúa rửa sạch mọi tội lỗi của con để con được trong trắng trước mặt Ngài. Xin Chúa nhớ đến con khi Ngài trở lại thế gian để phán xử kẻ sống và người chết, và đem con về ở với Ngài trên Nước Thiên đàng!

Cầu xin Chúa Cứu Thế Giêsu ban phước lành cho quý vị anh chị em và các bạn xa gần!

Christian Le PhD
Creator/Admin SỰ ĐIỆP CỦA SỰ SỐNG

MS CHARLES FINNEY VÀ DẤU HIỆU VỀ TÌNH TRẠNG TÂM LINH NGUỘI LẠNH XA CÁCH CHÚA

Là một luật sư mới được 29 tuổi, Charles Finney rất quan tâm đến linh hồn mình sẽ đi về đâu sau khi chết và ông quyết định phải giải quyết số phận đời đời của mình là làm sao linh hồn mình được cứu. Ngày 10 tháng 10 năm 1821, Finney đã đi vào khu rừng ở New York để tìm kiếm Đức Chúa Trời. Khi Finney cố gắng cầu nguyện thì ông thấy lòng ông không cầu nguyện được. Finney rất sợ hãi, ông sợ nếu có ai đến và thấy mình cầu nguyện. Finney ở trong trạng thái thất vọng vì hứa với Chúa sẽ không rời nơi ông đang tìm kiếm Ngài cho đến khi ông giải quyết vấn đề cứu rỗi linh hồn mình. Finney nói, “Tôi sẽ dâng tấm lòng tôi cho Đức Chúa Trời hoặc tôi sẽ không bao giờ đi xuống từ đây.” Sau vài tiếng đồng hồ, Finney trở về văn phòng mình, thì người đã kinh nghiệm một cảm xúc thật mãnh liệt mà người viết, “Đức Thánh Linh… dường như đi qua tôi, thân thể và linh hồn tôi. Tôi cảm nhận như luồng điện đi qua và qua tôi. Thật ra nó giống như luồng tình yêu…, vì tôi không thể diển tả nó một cách nào khác.”

Kinh nghiệm của Finney nó như Chúa phán với ông Nicôđem – một nhà trí thức người Do Thái thời bấy giờ, “Đừng ngạc nhiên khi Ta bảo ngươi cần phải được sinh lại từ thiên thượng. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và sẽ đi đâu. Người được Thánh Linh sinh ra cũng giống như vậy.”

Sáng hôm sau, Finney trở về văn phòng luật của mình để gặp thân chủ, người mà Finney sắp ra tòa để tranh cải biện hộ cho trường hợp của ông ta. Finney nói với thân chủ, “Tôi có một số tiền từ Chúa Giêsu để biện hộ cho sự nghiệp của Ngài và không thể biện hộ cho anh được.”

Finney đã bắt sự nghiệp mới của mình và đã trở nên nhà phục hưng dẫn đầu trong thế kỷ 19. Finney thường thúc giục kêu gọi những người nghe sứ điệp ông giảng chấp nhận Chúa một cách công khai. Lối giảng dạy của Finney giống như lời tranh cải của một luật sư hơn là bài giảng của ông mục sư. Mỗi lần giảng xong, Finney mạnh mẽ kêu gọi thính giả tin nhận Chúa Giêsu và dâng cuộc đời mình cho Chúa Giêsu. Có lần Finney nói, “Quý vị đã quyết định trở nên Cơ đốc nhân, và hứa làm hòa với Đức Chúa Trời ngay lập tức, xin quý vị đứng dậy.” Cả hội chúng chưa bao giờ nghe lời thách thức mạnh mẽ như thế, và họ vẫn ngồi yên trong hàng ghế của mình.” Finney nói, “Quý vị đã có lập trường của mình. Quý vị đả từ khước Đấng Christ – Chúa Cứu Thế và Tin Mừng của Ngài.” Hội chúng giải tán, đứng dậy và giận dữ bỏ về.

Đêm kế tiếp, Finney giảng về tội ác và giọng của mình như ngọn lửa rực cháy… như cái búa và gươm [Thánh Linh]. Finney không cho họ cơ hội để đáp lại. Đêm hôm sau, cả thành đến nghe ông giảng, có một người nọ rất giận dữ với Finney và ông ta đem theo cai súng định bắn chết nhà giảng Tin Lành. Nhưng đêm đó, Finney cho hội chúng có cơ hội tuyên xưng đức tin mình một cách công khai. Hội Thánh xôn xao như phun núi lửa – rất nhiều người đứng dậy tuyên xưng đức tin của mình, trong khi những người khác được Thánh Linh Chúa chạm đến thì họ té ngã, rên rỉ, và rống lên. Finney đã tiếp tục giảng nhiều đêm, thăm viếng những người mới tin Chúa trong nhà của họ và ngoài đường. Ông cưỡi ngựa từ thành này qua thành kia mà những người trong thành ấy đều có tinh thần nhiệt tình với đức tin theo Chúa của mình. Báo chí, những nhà phục hưng, và các mục sư bắt đầu để ý những buổi họp om sòm – những buổi họp mà không giống như những người có niềm tin cải cách như John Calvin mà mặt mũi họ thường e dè kín đáo.

Có một số người chống lại những lời giảng dạy đơn giản dể hiểu đầy quyền năng của Finney. Nhóm theo trường phải của Hội Thánh Trưởng nhiệm cảm thấy bực tức phẫn nộ vì Finney đã thay đổi thần học của Calvin. Trường phái Calvin truyền thống dạy rằng một người chỉ tin Tin Mừng nếu Đức Chúa Trời chọn để cứu họ. Nhưng Finney mạnh mẽ lên tiếng rằng ‘lòng không tin’ là ‘sẽ không tin’ thay vì ‘không thể tin’ và có thể được điều trị nếu người ấy muốn trở thành Cơ đốc nhân. Finney nói, “Thuyết Calvin cứng nhắc như vậy, thì chưa được tái sinh, là chưa đủ, là một sự ghê tởm đối với Đức Chúa Trời.” Có một số mục sư sợ Finney mở cửa cho sự cuồng tín đi vào và cho phép họ bày tỏ quá nhiều xúc cảm. Có một nhóm khác chống đối Finney cho rằng Finney dùng chiến thuật làm cho người ta sợ để rồi họ tin Chúa. Nhiều người nghĩ rằng Finney thường dùng từ ‘quý vị các bạn’ và ‘hỏa ngục’ làm cho mất chức vụ nghiêm túc của tòa giảng. Có người theo truyền thống khắc khe cứng nhắc không cho phụ nữ cầu nguyện chung. Nhưng Finney cho phép phụ nữ cầu nguyện chung trong buổi nhóm họp công cộng của Hội Thánh Chúa.

Finney rất ghét ‘lòng hâm hẩm nguội lạnh’ trong tôn giáo và linh tôn giáo. Như Sứ đồ Phaolô xưa kia nói với vị Mục sư trẻ Timôthê hãy cẩn thận với những người có linh tôn giáo, “Họ là người chỉ giữ hình thức tin kính đạo đức bề ngoài, nhưng trong lòng lại chối bỏ quyền năng của đức tin và sự tin kính đạo đức ấy. Vì thế mà Sứ đố Phaolô khuyên Timôthê hãy tránh xa những kẻ như thế.” Ngày nay cũng có những người như vậy. Bề ngoài tỏ vẻ công chính đạo đức, nhưng lại thiếu thực chất tâm linh. Họ đi nhà thờ như mọi người. Họ đọc kinh, họ biết giáo lý niềm tin của mình. Họ dùng những sáo ngữ hoặc lời lẽ sáo mòn. Họ theo truyền thống Cơ đốc của cộng đồng mình. Họ có nhưng thói quen làm cho người khác có ấn tượng họ là người tốt, đạo đức. Nhưng nếu họ không có niềm tin thật, tình yêu thật và sự thờ phượng thật, thì bề ngoài của họ thật vô nghĩa. Sứ đồ Phaolô cảnh cáo chúng ta để đừng bị lừa bởi những người mà bề ngoài có vẻ như là Cơ đốc nhân. Lúc đầu thì thấy khó để phân biệt những người này khỏi Cơ đốc nhân thật, nhưng thái độ, cách đối xử, cách ăn ở hoặc tư cách đạo đức sẽ biểu lộ con người thật của họ.

Finney muốn thấy Hội Thánh Chúa kinh nghiệm cơn phục hưng như xưa kia Chúa Thánh Linh đến thăm viếng những tín hữu vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Như Bác sĩ Martyn Lloyd-Jones tin rằng một ngày tương lai trước khi Chúa Giêsu quang lâm, sẽ có cơn phục hưng giống như ngày xưa Thánh Linh Chúa thăm viếng Hội Thánh Ngài vào Ngày Ngũ Tuần, mà có thể lớn hơn nữa, và nhiều người sẽ ăn năn tin nhận Chúa và nhiều cuộc đời được đổi thay diệu kỳ bởi quyền năng Thánh Linh.

Được biết ước lượng số người tin nhận Chúa từ năm 1857 cho đến 1858 thì có hơn một trăm ngàn người qua chức vụ giảng Tin Lành của Finney cách gián tiếp và trực tiếp, trong khi có chừng năm trăm ngàn người tin nhận Chúa và dâng cuộc đời mình cho Chúa trong nhưng cơn phục hưng lớn. Có người cho rằng Finney là một nhà giảng Tin Lành và là một nhà thần học vĩ đại trong thế hệ của mình.

Các lịch sử gia gọi MS Finney là “Người cha của cơn phục hưng hiện đại.” Chức vụ Phục hưng của MS Finney đã ảnh hưởng những nhà giảng Tin Mừng lừng danh sau này như Dwight L Moody, Billy Sunday, and Billy Graham.

Thưa quý vị anh chị em yêu dấu, Mục sư Charles Finney đã từng hành nghề luật sư, nhưng sau khi kinh nghiệm gặp được Chúa, được sinh lại từ trên bởi Thánh Linh và được báptem bằng Đức Thánh Linh thì ông bỏ nghề luật để đi giảng Tin Lành của Chúa Cứu Thế Giêsu dấu yêu của mình. Chúa đã dùng đầy tớ Ngài mang lại cơn phục hưng lớn trong thế hệ của mình. Mực sư Finney đã viết về những dấu hiệu tình trạng xa cách Chúa ở dưới đây. Mục sư Finney muốn cảnh cáo và nhắc nhở Hội Thánh Chúa phải đề cao cảnh giác về những dấu hiệu nguội lạnh khô hạn tâm linh xa cách Chúa nầy.

Sau khi đọc xong những dấu hiệu về tình trang tâm linh nguội lạnh. Tôi khích lệ quý vị anh chị em, không chỉ đồng ý và nói, “Đúng thật. Hay quá. Đúng tâm trạng của Hội Thánh Chúa ngày nay. Nó xảy ra trong Hội Thánh tôi. Nó cũng đang xảy ra trong đời sống tôi. Đúng vậy Mục sư trong Hội Thánh tôi giảng dạy lời Chúa mà thiếu sự xức dầu của Chúa. Ông không được báptem Thánh Linh, không đầy dẫy Đức Thánh Linh cho nên ông giảng mà không động chạm tâm hồn tôi.”

Quý vị anh chị em đừng chỉ đồng ý với MS Finney và nói hay quá, đúng qua đi, rồi không làm gì cà. Quý vị anh chị em phải xin Chúa Thánh Linh đánh thức chính mình, quỳ gối lòng, xét chính lòng mình xem có nguội lạnh, có xa cách Chúa không. Anh chị em phải thành thật với chính mình. Nếu biết lòng mình đang nguội lạnh khô hạn, thì xin Chúa giúp mình ăn năn trước mặt Ngài. Chúa luôn thương những người có lòng thống hối vỡ tan. Chúa không khinh dể anh chị em đâu. Nếu anh chị em thực sự ăn năn trước mắt Chúa mà có ai còn khinh dể anh chị em, thì chính Chúa sẽ khinh dể người ấy.

Nếu lòng anh chị em đang nguội lạnh. Nếu tâm linh anh chị em đang khô hạn, thì anh chị em phải đến với Chúa cầu xin Thánh Linh phục hồi lòng và tâm linh mình. Nếu có thể được trong lúc tĩnh nguyện, tôi khích lệ anh chị em lắng nghe và hát bài ca “Thần Linh của Chúa” và xin Chúa chạm đến tâm linh mình, xin Ngài làm tươi mát tâm linh mình. Nội dung của bài hát có thể dùng như lời cầu nguyện từ cõi lòng của anh chị em:

“Thần Linh của Chúa hiện diện nơi đây! Thần Linh của Chúa đang ở nơi nầy! Ngài nhìn thấy mọi lòng khát khao. Ngài nghe thấy tiếng con kêu cầu. Lạy Chúa xin hãy chạm lên chính tâm linh này, một tâm linh đang khao khát Chúa. Lòng con đây như đất khô hạn chờ đợi cơn mưa Thánh Linh Ngài, làm tươi mát tâm linh đang mòn mỏi. Lòng con đây như đất khô hạn chờ đợi cơn mưa Thánh Linh Ngài làm đã khát tấm lòng đang khát khao!”

Anh chị em nhớ phải tâm tình chia sẻ với MS mình và khích lệ MS mình kêu gọi cả Hội Thánh thành tâm cầu nguyên xin Chúa phục hưng Hội Thánh Chúa nơi mình đang phục vụ.

Đừng bao giờ có thái độ coi thường khinh dể các đầy tớ Chúa trong giáo phái khác chẳng hạn như: “HT Thuần túy, HT Tin Lành Việt Nam. HT C&MA, HT Báptít, HT Giám lý, HT Trưởng Nhiệm, HT Lutheran, HT Phúc âm Toàn vẹn, HT Ân tứ, HT Ngũ tuần vv. Và cho rằng mấy ông truyền thống này, mấy ông CMA này, mấy ông Báptít nầy không biết gì về quyền năng Thánh Linh, giảng không ra hồn, không được xức dầu, không có quyền năng Thánh Linh, chưa được báptem Thánh Linh. Và có người nói rằng mấy ông ân tứ và ngũ tuấn cứ cho mình là siêu Cơ đốc nhân mà khinh thường Hội Thánh trên và Hội Thánh Truyền thống, và nói chỉ những người cầu nguyện trong Thánh Linh, chữa bịnh, đuổi quỷ, và có ơn nói ngôn ngữ mới, mới là được đầy dẫy Đức Thánh Linh.” Nếu quý vị có thái độ khinh các đầy tớ khác của Chúa trong Hội Thánh của Ngài thì Chúa sẽ khinh quý vị đó. Quý vị anh chị em phải cầu nguyện cho đầy tớ Chúa và luôn có lòng yêu thương anh chị em trong Chúa của mình mặc dù là khác giáo phái và cũng đừng cho rằng mấy anh mấy chị ân tứ ngũ tuần nầy là nhóm cuồng tín hay tà đạo. Tôi biết một số anh chị em trong Hội Thánh Truyền thống, Ân tứ và Ngũ tuần là người kính sợ Chúa. Những anh chị em này cũng là bạn của tôi, mà niềm tin của họ không quá khích hay cực đoan. Họ tin Chúa và chân lý của Ngài. Họ tin hết lòng những điều Chúa dạy trong Thánh Kinh. Họ rất yêu mến Chúa và họ không khoe khoang về ân tứ của mình, nhưng bước đi trong thái độ khiêm tốn và yêu thương, coi người khác đáng tôn trọng hơn mình.

Xưa kia Sứ đồ Phaolô mặc dù đang ở trong tù mà vẫn nhớ đến Hội Thánh Chúa. Người kêu gọi các tín hữu hiệp nhất trong Chúa và người viết cho Hội Thánh Êphêsô những lời khích lệ sau đây, ”Vậy, là một tù nhân vì Chúa, tôi khuyên anh chị em hãy sống xứng đáng với ơn kêu gọi của Ngài. Phải hết sức khiêm nhường, nhu mì, mềm mại, và kiên nhẫn, lấy tình yêu thương chịu đựng lẫn nhau. Hãy hết sức gìn giữ sự hiệp nhất do Thánh Linh đem lại, bằng sợi dây xích hòa thuận. Chỉ có một thân thể và một Thánh Linh, cũng như chỉ có một niềm hy vọng cho anh chị em khi được kêu gọi. Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báptem, một Đức Chúa Trời, là Cha của tất cả, ở trên tất cả, thấu suốt tất cả và ở trong tất cả.”

Sứ đồ Phaolô khích lệ chúng ta rằng, “Là dân được Đức Chúa Trời chọn lựa, thánh hóa và yêu quý, anh chị em hãy mặc lấy lòng thương xót, nhân từ, khiêm nhường, hiền lành, nhu mì và nhẫn nhục. Hãy ráng chịu đựng, khoan dung, tha thứ nhau khi anh chị em có điều gì phiền trách nhau, như Chúa đã tha thứ anh chị em thể nào, thì anh chị em cũng phải tha thứ nhau thể ấy. Trên hết các mỹ đức cao đẹp ấy, anh chị em hãy mặc lấy tình yêu, là sợi dây ràng buộc liên kết tuyệt vời và toàn hảo. Hãy để sự bình an của Chúa Cứu Thế Giêsu ngự trị trong lòng anh chị em.”

NHỮNG DẤU HIỆU VỀ TÌNH TRẠNG XA CÁCH CHÚA

Mục sư Charles Finney viết điều này để nhắc nhở Hội Thánh Chúa phải đề cao cảnh giác về những dấu hiệu nguội lạnh tâm linh xa cách Chúa.

1. Khi sự cầu nguyện không còn là một phần quan trọng trong đời sống bạn. Điều đó khiến cho sự phục hưng chậm đến, vì đời sống cầu nguyện trễ nải.

2. Khi bạn không còn khát khao lời Chúa nữa và trở nên thỏa mãn với những hiểu biết mà bạn đã thu thập được.

3. Khi những tư tưởng vĩnh cửu (hoặc giá trị tâm linh đời đời) không còn quan trọng và không còn nghĩ đến một cách thường xuyên nữa.

4. Khi bạn tự bỏ qua tội lỗi của mình bằng cách bào chữa rằng: “Chúa biết tôi được dựng nên từ tro bụi” hoặc “đó là con người yếu đuối của tôi. Chúa hiểu!” hoặc “Tâm linh thì tha thiết, mà xác thịt lại yếu đuối – một câu nói rất quen thuộc trong các hội thánh.”

5. Khi những cuộc đối thoại về đời sống tâm linh khiến bạn cảm thấy khó chịu và lúng túng.

6. Khi sự giải trí, thể thao, và ăn chơi trở nên ưu tiên hàng đầu trong đời sống của bạn.

7. Khi bạn sống trong tội lỗi mà không còn cảm thấy bị cáo trách nữa.

8. Khi nguyện vọng sống trong sạch, thánh khiết giống như Đấng Christ không còn trong đời sống bạn nữa.

9. Khi việc tìm kiếm của cải, tiền bạc, vật chất, giàu sang, và thịnh vượng của đời này hoàn toàn chiếm hữu tâm trí và đời sống bạn.

10. Khi bạn không còn cảm thấy đau buồn và khó chịu khi nghe danh Chúa Giêsu bị xúc phạm và những giá trị tâm linh bị mỉa mai.

11. Khi bạn cảm thấy lạnh lùng, chán nản, và mệt mỏi lúc thờ phượng Chúa, không còn cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong hội thánh và đời sống hàng ngày, và bạn cũng không còn yêu thích ca hát, ngợi khen Chúa và đọc lời Ngài nữa.

12. Khi bạn không còn quan tâm đến mối thông công và sự hiệp nhất của hội thánh đang bị đe dọa.

13. Khi vì một lý do nho nhỏ nào đó cũng đủ khiến cho bạn chán nản từ khước sự phục vụ Chúa.

14. Khi năm giác quan của bạn không còn quân bình và thánh khiết nữa. Bạn xem những phim ảnh đồi trụy, nghe những loại nhạc nhảm nhí, và đọc những sách báo dâm ô.

15. Khi bạn vui vẻ có xu hướng theo đời này, ví dụ như có nợ không trả mà lại khai phá sản để trốn nợ. Bạn không thành thật, không giữ lời hứa, gian lận, và đàn áp nhân viên của mình.

16. Khi bạn không còn quan tâm đến tình trạng thiếu quyền năng Thánh Linh trong đời sống, hội thánh, và chức vụ mình và không còn khát khao được Chúa thăm viếng chiếm hữu toàn vẹn và nhận lấy năng quyền từ trời.

17. Khi bạn cảm thấy thỏa mãn trong lúc hội thánh mình đang lâm vào tình trạng sa sút (hoặc trầm cảm tâm linh) và lời Chúa không được giảng ra trong quyền năng Thánh Linh.

18. Khi bạn không còn quan tâm đến sự suy đồi về đạo đức, không còn quan tâm đến tình trạng xuống dốc trong đời sống tâm linh và đời sống xã hội của đất nước mình.

19. Khi lòng bạn chai đá, không còn tuôn đổ một cách dễ dàng như trước đây nữa. Bạn không còn quan tâm, không còn khóc cho những gì Chúa Giêsu đã từng khóc, ví dụ như khóc cho một thành phố đang trong tình trạng chết mất, khóc cho một linh hồn đang lạc mất, hoặc khóc cho sự đau khổ của một con người.

20. Khi bạn đã mất đi sự xức dầu và quyền năng Thánh Linh mà không hề biết.

“Lạy CHÚA, Con đã nghe danh tiếng Ngài. Lòng con bàng hoàng kính sợ về công việc diệu kỳ của Ngài. Lạy CHÚA hằng hữu, xin CHÚA phục hưng công việc Ngài trong thời đại chúng con. Trong cơn giận, xin CHÚA nhớ đến lòng thương xót của Ngài” (Habacúc 3:2).

Cầu xin CHÚA Đức Chúa Trời ban phước cho anh chị em và bảo vệ anh chị em. Cầu xin CHÚA gìn giữ và phù hộ anh chị em! Cầu xin CHÚA chiếu sáng mặt Ngài trên anh chị em và làm ơn cho anh chị em. Cầu xin CHÚA bày tỏ lòng nhân từ đối với anh chị em! Cầu xin CHÚA đoái xem anh chị em, ban bình an và thịnh vượng cho anh chị em! Trong đại Danh Đức Chúa Giêsu. Danh trên mọi danh. Amen!

*NẾU BẠN ĐƯỢC TRUYỀN CẢM, KHÍCH LỆ VÀ GÂY DỰNG SAU KHI ĐỌC BÀI VIẾT NẦY, NHỚ CHIA SẺ “SHARE” VỚI CÁC BẠN MÌNH!

*XIN LƯU Ý: TRANG “SỨ ĐIỆP CỦA SỰ SỐNG”
Nếu bạn muốn đọc thêm những bài viết bồi linh giá trị khác để được truyền cảm, khích lệ và gây dựng. Xin mời bạn ghé thăm. Nhớ ‘ADD’ các bạn mình và ‘JOINED’ Trang ‘Sứ Điệp Của Sự Sống’ sau đây: www.facebook.com/groups/SDCSS/

*Nếu bạn nào biết đọc tiếng Anh thì có thể vào trang dưới đây để đọc, sưu tầm và nghiên cứu những cuốn sách giá trị do MS Charles Finney viết:www.swartzentrover.com/cotor/e-books/holiness/Authors/Charles%20G%20Finney.htm

 

QUÀ TẾT

qua-tet-2016-221Ngày Tết truyền thống của Việt nam có những mỹ tục rất hay như sum họp họp đại gia đình, cư xử hoà nhã ” tử tế như ba ngày Tết”; ” lì xì” cho con cháu; quà tặng để mừng tuổi cho Cha mẹ, Ông bà  hay để tỏ lòng biết ơn đối với những người đã giúp đở mình trong cuộc sống.

Có một món quà quý giá mà chúng ta có thể tặng và nhận lảnh: Đó là mảo miện vinh hiển ( crown)
Mão miện còn được gọi là mão triều, hay là vương miện; đó là chiếc mũ đặc biệt tượng trưng cho uy quyền tuyệt đỉnh về một lỉnh vực nào đó như là vương miện hoa hậu quốc gia, hoa hậu    Thế giới rồi lại thêm hoa hậu hoàn vũ nữa.

Đã nói đến vương miện thì phải nói đến hào quang sáng chói của nó. Chẳng hạn như chiếc vương miện của thánh Wenceslas được chế tác vào năm 1347 cho Hoàng đế Charles lên ngôi. Chiếc vương miện này được chạm trổ từ 21-22 cara vàng, gắn tổng cọng 19 viên ngọc bích, 44 viên đá quý màu đỏ, 1 viên hồng ngọc, 30 viên ngọc lục bảo và 20 viên ngọc trai ( Ngọc lục bảo tiếng Anh là Emerald là loại ngọc quý nhất trong các loại ngọc cho nên nó được dùng để tặng cho kỷ niệm  lần thứ  55 ngày cưới, chỉ trước kỷ niêm ngày cưới Kim cương lần thứ 60 cuối cùng (Diamond Wedding).

Trong kinh thánh I Sử ký 20:2 có ghi chép mão miện của vua dân Amôn cân nặng được 1 ta-lâng vàng và trên đó có những ngọc  báu.( 1 ta lâng = 34kg).

Chiếc vương miện hoa hậu Pháp năm 2011 được gắn rất nhiều viên kim cương lập lánh cùng đá quý, kim loại bạc và vàng trắng, tất cả tạo nên một vẻ đẹp mền mại, quý phái như vẻ đẹp của người phụ nữ.

Trong kinh thánh có đề cập đến những mão miện mà chúng ta nên trao cho nhau:

1/ Mão triều thiên cho Ông già.

“Tóc bạc là vương miện vinh quang dành cho người đi trong đường công bình.”( Châm 16:31: Bản TTHĐ). Tóc bạc là tượng trưng cho người cao tuổi. Con cháu chẳng những chúc cho cha mẹ, Ông Bà mình sống lâu để có được mái tóc bạc làm Mão triều vinh hiển. Người có mái tóc bạc đi trong đường lối công binh của Chúa   là vinh hiển cho con cháu.

2/ “Mão triều thiên cho cha mẹ, ông bà.

” mão triều thiên của ông già ấy là con cháu.” ( Châm 17:26)

Có điều  con, cháu ít nghĩ đến là một cử chỉ vô lễ, xấc xược, một lời nói xẳng xớm dù là vô tình hay cố ý; một sự thờ ơ với trách nhiệm của bổn phận làm con, làm đâu, làm rể đối với cha mẹ hay Ông Bà sẽ làm tổn thương đến mão miện vinh hiển của cha mẹ, ông bà mình. Hãy nhớ nếu như vậy thì sẽ ” mắc tội với trời và với cha.” Dù cho chúng ta được bao nhiêu tuổi đi nữa mà còn cha còn mẹ thì vẫn còn bổn phận làm con , làm  cho mão triều của cha mẹ mình được lóng lánh vinh quang.Nếu không thì chiếc mão miện của con cái dành cho Ông cha không có viên Ngọc nào, đừng nói chi đến kim cương. Chúng ta trân trọng tặng cho cha mẹ, ông bà mình những chiếc  mão miện lấp lánh  với một đời  sống xứng đáng: vâng lời, lễ phép, ân cần, hiếu thảo và phụng dưỡng.

. Đó cũng là cách làm vinh hiển danh Chúa. Chúng ta đừng bao giờ làm cho cha mẹ mình phải ” Đau Lòng Xót Dạ xuống âm phủ” ( Sáng 42:38). Đặc biệt là những người được kêu gọi vào chức vụ .( I Phioro 5; 3). Hãy làm gương cho các tín đồ.

3/  Mão triều cho chồng.

“Người vợ nhơn đức là mão triều thiên cho chồng nàng.”( Châm 12:4). Người vợ nhơn đức được mô tả ở Châm ngôn 31:1-2 ” Một người nữ tài đức ai sẽ tìm được, giá trị nàng trổi hơn châu ngọc. Lòng người chồng tin cậy nơi nàng, người sẽ chẳng thiếu huê lợi. Trọn đời nàng làm cho chồng được ích lợi,” Đây là một trong “Tứ Đức” , công -dung-ngôn-hạnh của người phụ nữ Viêtnam. Có thể nói người vợ cần mẫn, siêng năng không có thì giờ để ngồi lê đôi mách gây phiền toái cho mọi người.

“Nàng mở đưa tay ra giúp kẻ khó khăn, Giơ tay mình lên tiếp người nghèo khổ.”( Châm 31:20). Nàng thể hiện lòng nhân ái bằng việc làm chứ không bằng lời nói và lưởi. Đó là “Hạnh”. “Nàng mở miệng ra cách khôn ngoan, phép tắc Nhơn từ ở nơi lưới nàng”. Nàng khôn ngoan đối đáp với chồng nàng khi chồng vui, khi chồng  giận, không bao giờ có lời ” xẳng xớm trêu cơn thạnh nộ thêm”. Nàng cũng biết dùng lời an ủi hay vổ về khi chồng mình ” túi bụi” trong công việc. Thông cãm những sơ sót của chồng khi não bộ đã bắt đầu lảo hoá hay căng thẳng trong suy nghĩ lo toan…. Đó chính là “Ngôn” trong tứ đức.

“Duyên là giả dối, sắc lại hư không; Nhưng người nữ nào kính sợ Đức Giê Hô Va sẽ được khen ngợi “ ( Châm 31:30). Người biết trau dồi dung nhan của mình thích hợp theo tuổi tác. Không quá chú trọng vẻ đẹp bên ngoài mà quên đi sự dạy dỗ của Chúa.” Chớ tìm kiếm sự trang sức bề ngoài, như gióc tóc, đeo đồ vàng, mặt áo quần loè loẹt. Nhưng hãy tìm kiếm sự trang sức bề trong, giấu ở trong lòng, tức là sự tinh sạch chẳng hư nát của của tâm thần dịu dàng yên lặng, ấy là giá quý trước mặt Đức Chúa Trời. Vì các bà thánh xưa kia , trông cậy Đức Chúa Trời, vâng phục chồng mình, đều trau giồi mình dường ấy.” ( I Phiero 3:3-5) . Mỗi lời nói dịu dàng ví như một viên ngọc hồng ngọc; mỗi hành động yêu thương ví như viên ngoc trai; sự chăm chỉ trong công việc ví như những viên Bích ngọc; và sự trang điểm thích hợp bề ngoại với sự trang sức bề trong là những viên ngọc lục bảo.

Đức tính chung thủy trong tình nghĩa vợ chồng là viên kim cương sáng chói ở chính giữa những viên ngọc quý khác.

4/ Mão triều cho người hầu việc Chúa.

” Khi đấng làm đầu các kẻ chăn chiên hiện ra, anh em sẽ được mão triều thiên vinh hiển chẳng hề tàn héo” .( I Phioro 5:4) Nhơn dịp Tết đến chúng ta là những người tình nguyện hầu việc Chúa hơn ai hết chúng ta phải là những chiếc mão miện vinh hiển đáng phải có để trao cho những người thân thương mà kinh thánh đã khuyên dạy chúng ta. Có như vậy chúng ta sẽ xứng đáng nhận những chiếc vương miện ở dưới đất và đặc biệt là mảo triều thiên ở ở thiên quốc khi Đấng chủ chăn hiện ra như lời hứa của Ngài .

Hãy trao cho nhau mảo miện vinh hiển trong những ngày vui Tết như lời Chúa đã dạy và hãy nhớ rằng tất cả chúng ta đều có mão triều thiên vinh hiển Chúa dành cho chúng ta theo lời hứa của Ngài : ” Khá giữ trung tín cho đến chết, rồi ta sẽ ban cho ngươi mũ triều thiên của sự sống .”

 Mục sư Nguyễn Đức Na

Post Navigation