Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “DƯỠNG LINH”

Đi Nhà Thờ Giúp Cải Thiện Sức Khoẻ, Sống Lâu

Hãy đi nhà thờ, bạn sẽ sống thọ hơn đấy!

Một nghiên cứu khoa học mới đây chỉ ra việc thường xuyên đi nhà thờ không chỉ giúp tăng cường đời sống thuộc linh mà còn cải thiện sức khoẻ, giúp người ta sống lâu hơn.

Giáo sư Tyler J.VanderWeele và các đồng sự ở trường đại học Havard đã tiến hành phân tích lượng dữ liệu có giá trị thời lượng đến 20 năm. Nghiên cứu này chỉ ra việc tham dự vào các thời giờ tôn giáo giúp tăng cường thể chất lẫn tinh thần.

Nghiên cứu phát hiện rằng nếu người lớn đi nhà thờ ít nhất một lần mỗi tuần họ sẽ có rủi ro chết sớm ít hơn hẳn so với những người không thường xuyên đi nhà thờ.

Mặc dù bản báo cáo khoa học này không nói riêng về tôn giáo nào nhưng nó nói rằng những người theo Cơ Đốc giáo và Do Thái giáo có nguy cơ tự tử thấp hơn so với những người theo tôn giáo khác.

Các nhà khoa học còn chỉ ra những người có đức tin mạnh mẽ có 57% thấp hơn khả năng phải hứng chịu áp lực.

Nếu đi nhà thờ ít nhất một lần mỗi tuần sẽ giúp bạn có huyết áp tốt hơn, chức năng tim mạch, đề kháng và nội tiết cũng hoạt động trơn tru hơn, ít mắc bệnh động mạch vành, hôn nhân ổn định hơn, mục đích cuộc sống cao hơn và mức độ hạnh phúc tổng quan vượt hơn so với phần còn lại.

Cầu nguyện cũng là phương cách tốt chữa lành cơ thể.

Cầu nguyện cũng là phương cách tốt chữa lành cơ thể.

Sự cầu nguyện – tương tự như đi nhà thờ, cũng được coi là một trong những trị liệu thứ cấp phổ biến tại Mỹ. Có nhiều bằng chứng chỉ ra việc cầu nguyện thực sự có thể giúp chữa lành.

Trước đây, nhiều nghiên cứu khoa học đã được công bố cho thấy mối quan hệ giữa sự cầu nguyện và sức khoẻ.

Viện Sức Khoẻ Quốc Gia Hoa Kỳ từng cho biết họ tìm thấy bằng chứng cho thấy những cá nhân cầu nguyện hàng ngày có tỉ lệ mắc huyết áp cao ít hơn 40% so với những người không cầu nguyện thường xuyên.

Những nghiên cứu khác cũng chỉ ra sự cầu nguyện giúp tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể, giảm mức độ nghiêm trọng và tần suất của nhiều loại bệnh tật. Vào năm 2011, nghiên cứu của đại học Cincinnati cho biết những người bị bệnh hen suyễn nhưng thường xuyên cầu nguyện có ít triệu chứng xấu hơn so với những người không cầu nguyện.

LÒNG BIẾT ƠN

 gratitude-girl

Lòng Biết Ơn.
(Gratitude )
” Nguyền xin sự bình an của Đấng Christ cai trị trong lòng anh em, là bình an mà anh em được gọi đến Đặng hiệp nên một thể, Lại phải biết ơn.
Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan. Hãy dùng những ca vịnh, thơ thánh và bài hát thiêng liêng mà dạy và khuyên nhau vì được đầy ơn Ngài nên hãy hết lòng hát khen Đức Chúa Trời. Mặc dầu anh em nói hay làm, cũng phải Nhơn danh Đức Chúa Jesus mà làm mọi điều, nhờ Ngài mà tạ ơn Đức Chúa Trời, là Đức Chúa cha.”
” Let the peace of Christ rule in your hearts, since as members of one body you were called to peace. And BE THANKFUL. Let the word of Christ dwell in you richly as you teach and admonish one another with all wisdom, and as you sing psalms, hymns and spiritual songs with GRATITUDE in your hearts to God. And whatever you do, whether in word or deed, do it all in the name of the Lord Jesus, GIVING THANKS TO GOD the Father through him.”

Qua 3 câu kinh thánh trong Cô- lô-se  đoạn 3:15-17  ta thấy mỗi câu có đề cập đến lòng biết ơn ” Gratitude” hãy biết ơn ” Be Thankful.” và  dâng sự tạ ơn lên Đức Chúa trời. ” Giving Thanks to God.”
Biết ơn là một đức tính tốt đẹp của con người. Một người mà không có lòng biết ơn (Gratitude) thì về phương diện đạo đức không hơn một con vật. Sống trong đời mỗi chúng ta đều có những điều mà chúng ta phải nhờ vả đến người khác để hiện diện và tồn tại.
Không có cha mẹ làm sao ta hiện hữu trên thế gian này, nếu ta không biết ơn sinh thành thì ta có phải là người nữa không?
Nếu không có người tạo ra thức ăn thức uống , y phục và mọi phương tiện để sinh sống, thì đời sống của chúng ta liệu có được thoải mái như chúng ta đang có không? Chính vì vậy mà mỗi chúng ta đang mắc nợ xã hội. Nếu không có lòng biết ơn thì không bao giờ chúng ta trả được món nợ này.
Lòng biết ơn là một yếu tố đạo đức để hoàn thiện nhân cách của chúng ta.
Quên ơn sẽ làm cho đời sống chúng ta khô khan và héo mòn và dễ dàng dẫn đến phản bội và đáng bị sĩ nhục và hổ thẹn như kinh thánh đã dạy, những kẻ phản  bội chúng sẽ bị sĩ nhục :” They will be put to shame who are treacherous without excuse” ( psalm 25:3b)
Chính vì vậy mà lời Chúa dạy chúng ta ” lại phải biết ơn”.
“Be Thankful ” câu này là một câu thuộc thể mệnh lệnh. ( imperative mood) .Lệnh của Đức Chúa trời cho mọi người chứ không chỉ cho con cái Ngài.
– Biết ơn ai? Hãy biết ơn cha mẹ sinh thành và nuôi dưỡng mình;
Biết ơn những người trong xã hội nói chung; trong đó có thầy cô dạy dỗ và đào tạo mình nên người có ích cho xã hội.
Hãy biết ơn những người  giúp đở mình trong cơn hoạn nạn, khốn cùng.
Nếu chỉ biết ơn như vậy thôi thì đủ chưa?
Ai sinh ra cha mẹ chúng ta là người gần gửi nhất, còn người xa nhất là ai? Tổ phụ của loài người? Việt nam có ngày ” Giổ Tổ Hùng Vương” để nhớ công ơn tổ tiên của đất nước Việt nam.
Còn tổ tiên của của tất cả các quốc gia trên thế giới này là ai?  Có phải Đấng Tạo hoá không? Và chúng ta có ngày nào kỷ niệm để nhớ ơn Đấng ấy không?  Kinh thánh xác định Đức Chúa Trời là Đấng tạo đựng nên loài người chúng ta: “Ngài tạo dựng nên người nam và người nữ “( Sáng thế ký 1;26-27).

Vậy có phải chúng ta biết ơn Đấng Tạo Hoá nữa thì lòng biết ơn của chúng ta mới hoàn hảo ( perfect ) phải không? Và cũng đúng với tâm tình, đạo đức của người Việt nam chúng ta thể hiện qua câu ca dao tục ngữ ” ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “uống nước nhớ người đào giếng”.

Trong tháng 11 hàng năm nước Mỹ có ngay Lễ Tạ ơn. “Thanksgiving Day” để cảm tạ Đấng đã tạo dựng  ra họ và chăm sóc sự sống của họ ( to give Thank to God ).Nguồn gốc lễ này bắt đầu từ năm 1621  do những người di cư từ nước Anh qua. Khi họ trải qua những gian nan ban đầu và họ đã được Chúa cho họ một vụ mùa bội thu, họ thường ăn gà Tây ( turkey)  và bánh nhân bí ( pumpkin pie) trong ngày lễ nầy.  Mãi đến năm 1941 quốc hội Hoa kỳ mới chọn  ngày thứ Năm của tuần thứ 3 trong tháng 11 là ngày lễ chính thức của quốc gia. Như vậy phải chăng người Mỹ hay đúng hơn là nước Mỹ, “United States” đã thể hiện hoá cấu ca dao tục ngữ của người Việt chúng ta.

Ở Việt nam trong tháng 11 cũng có ngày ” Nhà Giáo Việt Nam” để nhớ ơn và tôn vinh các nhà giáo; đó cũng là một nét đặc trưng tốt đẹp của một dân tộc biết ” tôn sư trọng đạo”. Ước gì dân tộc Viêt nam cũng có lòng biết ơn một cách đầy đủ và trọn vẹn!

Ngày xưa trong thời kỳ cựu ước dân sự Chúa muốn tạ ơn phải có của lễ thù ân ( trả ơn). ( Lêviky 7:11-12) .” These are the regulations for the fellowship offering a person may  present to the Lord. If he offers it as an expression of thankfulness, then along with the thank-offering he is to offer cakes of bread made without yeast and mixed with oil….”

Nhưng trong thời kỳ Tân ước ( thời kỳ Ân điển), chúng ta không cần một của lễ nào khác để tạ ơn Đấng Tạo Hoá tức là Đưc Chúa Trời ( Creator /God) vì Chúa Jesus con một của Ngài đã hy sinh trên Thập Tự Giá là của lễ đẹp lòng và trọn vẹn cho chúng ta. Ngài là của lễ chuộc tội cho chúng ta để chúng ta chẳng những được đến gần Cha thiêng liêng của chúng ta ở trên trời để thờ phượng Ngài và cũng nhờ Ngài mà ta có thể trực tiếp cãm tạ Cha uy quyền vinh hiển của  chúng ta .”

Để đời sống chúng ta  ngày càng được hoàn thiện và thể hiện là một sinh vật có sanh linh ( human being); có tâm hồn hướng thượng và lòng biết ơn trọn vẹn và hoàn hảo nhất: hãy nhờ Cứu Chúa Jesus mà tạ ơn Đức Chúa  Trời trước nhất ( first of all) với một lòng biết ơn sâu sắt nhất ( the deepest gratitude).

Mục sư Nguyễn Đức Na
Hội trưởng Giáo Hội Tin lành Liên Hiệp Toàn Cầu- VN.

CƠ ĐỐC NHÂN VÀ HALOWEEN

Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa, và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm, thà quở trách chúng nó thì hơn

(Ê-phê-sô 5:10-11).

Câu hỏi suy ngẫm: Bạn biết gì về lễ hội Halloween? Cơ Đốc nhân có nên tham gia lễ hội Halloween không? Tại sao?

Halloween là lễ hội vinh danh cô hồn các đảng, ma quỷ, và người chết. Trong đêm 31/10, người ta hóa trang thành những hình thù ma quái, mặc đồ quỷ sứ, đeo mặt nạ kỳ dị, rùng rợn, tập trung ở các tụ điểm để hù dọa nhau. Mọi người ăn bánh có hình thù ngón tay, đầu lâu, não quỷ… Thức uống có màu đỏ như máu tươi. Khi nhìn một nhóm người vui chơi Halloween, chúng ta có cảm tưởng như những nhân vật quậy phá vừa thoát ra từ địa ngục theo trí tưởng tưởng của con người.

Câu hỏi đặt ra là Cơ Đốc nhân có nên tham gia lễ hội Halloween không? Hãy tìm câu trả lời trên nền tảng Kinh Thánh. Phúc Âm Giăng 17:15-17, Chúa Giê-xu cầu nguyện: “Con chẳng cầu Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ cho khỏi điều ác. Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; Lời Cha tức là lẽ thật.” Sứ đồ Phao-lô cũng dạy: “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm. Đừng làm gương xấu cho người Giu-đa, người Gờ-réc, hay là Hội Thánh của Đức Chúa Trời; hãy như tôi gắng sức đẹp lòng mọi người trong mọi việc, chẳng tìm ích lợi riêng cho mình, nhưng cho phần nhiều người, để họ được cứu” (I Cô-rinh-tô 10:31-33).

Chúa đặt chúng ta ở giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian và cần giữ mình khỏi bị ảnh hưởng của điều ác. Do đó, lời nói, việc làm, vui chơi… tất cả đều phải nhằm mục đích vinh Danh Chúa và đem lại ích lợi cho mọi người để họ được cứu. Nếu chúng ta quyết sống theo Lời Chúa dạy thì câu trả lời cho câu hỏi “có nên tham gia lễ hội Halloween không” đã quá hiển nhiên. Nếu có ai cho rằng tham gia thì đâu có sao, chỉ là vui chơi và để khỏi bị bạn bè nói mình không hòa đồng, sẽ khó sống… thì những ai đó cũng cần suy ngẫm I Cô-rinh-tô 10:23-24: “Mọi sự đều có phép làm nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích; mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều làm gương tốt. Chớ ai tìm lợi riêng cho mình, nhưng ai nấy hãy tìm cho người khác.” Đức Chúa Trời ban cho con người được tự do vì Ngài không tạo dựng chúng ta như một người máy, tuy nhiên Ngài ban cho chúng ta trí khôn để phân biệt điều đúng, điều sai, điều nên làm, không nên làm. Chúng ta được quyền làm bất cứ điều gì, nhưng nếu điều đó không có ích lợi và làm gương xấu cho người khác thì liệu có nên chăng? Cuộc sống mà chỉ biết chăm về lợi ích của mình, chẳng quan tâm đến lợi ích của người khác, chắc chắn đó không phải là cuộc sống của một Cơ Đốc nhân chân chính.

Bạn có tham gia lễ hội Halloween không?

Lạy Chúa, xin cho con không dự vào công việc vô ích của sự tối tăm nhưng quyết sống hài lòng Chúa, nêu gương tốt để qua con nhiều người được cứu.

HỘI THÁNH THU HÚT THÂN HỮU


Nhiều năm trước, Dean Kelly công bố một cuộc nghiên cứu cho thấy rằng các Hội Thánh tăng trưởng vì họ giữ gìn giáo lý; họ biết điều họ tin và không hề xấu hổ vì nó. Tôi tin rằng Kelly chỉ đúng phân nửa. Có rất nhiều Hội Thánh tin Thánh Kinh đang chết dần chết mòn. Các Hội Thánh đang tăng trưởng là những Hội Thánh giữ vững niềm tin đồng thời yêu thương những người ở ngoài. Win Arn đã thực hiện một cuộc nghiên cứu toàn diện xác nhận sự thật này: Những Hội Thánh vĩ đại đều được xây dựng trên tình yêu thương – yêu Chúa, yêu nhau, và yêu những người chưa tin Chúa. Chúng tôi yêu thương những người hư mất. Trong cuộc nghiên cứu những người không đi nhà thờ mà tôi thực hiện trước khi tới Saddleback, lời than phiền phổ biến hàng thứ hai là “Các thành viên trong Hội Thánh không thân thiện với những người khách. Chúng tôi thấy mình không thích hợp.” Trước khi mục sư lên giảng, các vị khách đã quyết định họ sẽ quay trở lại hay không. Họ tự hỏi mình, “Tôi có được chào mừng ở đây hay không?” Tại Hội Thánh Saddleback, chúng tôi nỗ lực hết mình để giải tỏa sự than phiền này. Chúng tôi đã thông qua một chiến lược tạo bầu không khí yêu thương và chấp nhận để những vị khách có thể cảm nhận được. Chúng tôi đánh giá sự hiệu quả của nó hằng tuần bằng cách hỏi những vị khách lần đầu tiên đến dự những ý kiến thẳng thắn, khách quan.

Roger Ailes, cố vấn truyền thông của tổng thống Reagan và tổng thống Bush, tin rằng nhân tố tác động quan trọng nhất khi nói chuyện trước công chúng là “sự đáng yêu.” Nếu mọi người thích bạn, họ sẽ lắng nghe. Nếu họ không thích bạn, họ sẽ bỏ ngoài tai hay coi rẻ sứ điệp của bạn. Làm thế nào để trở nên đáng yêu? Rất đơn giản: Hãy yêu người. Khi người ta biết rằng bạn yêu thương họ, họ sẽ lắng nghe bạn.

Nhớ tên. Việc nhớ tên cho thấy rằng bạn lưu tâm tới đồng bào. Không có gì ngọt ngào đối với một người khách đến thăm lần thứ hai, hơn là được nghe bạn gọi bằng chính tên của họ. Vì tôi không có một trí nhớ đặc biệt tốt, tôi phải cố gắng rất nhiều để nhớ tên. Trong những năm đầu của Hội Thánh Saddleback, tôi lấy ảnh của nhiều người làm thẻ ghi chú để giúp tôi nhớ tên của họ. Tôi nhớ tên từng người trong Hội Thánh khi số dự nhóm gia tăng đến 3,000. Sau đó thì tôi hết nhớ nổi nữa! Tôi yêu cầu các thành viên mới trong lớp thành viên nhắc tên của họ vào ba dịp khác nhau để tôi có thể nhớ. Khi bạn cố gắng ghi nhớ tên mọi người, bạn sẽ được lợi rất nhiều trong các mối quan hệ.

Đích thân chào hỏi mọi người trước và sau các giờ thờ phượng. Hãy trở nên dễ tiếp xúc. Đừng trốn đằng sau việc nghiên cứu của bạn. Trong ba năm đầu của Hội Thánh Saddleback, chúng tôi nhóm lại trong một trường trung học có hàng rào xung quanh nên mọi người đều phải ra vào bằng một cổng. Mỗi tuần, đích thân tôi đứng đó chào hỏi mọi người đến nhóm với chúng tôi, Họ không thể đi ra mà không gặp tôi! .Một trong những cách tốt nhất để làm sôi động một đám đông là gặp gỡ càng nhiều người càng tốt trước khi bạn nói chuyện với họ. Hãy đi vào giữa đám đông và nói chuyện với họ. Điều đó chứng tỏ rằng bạn chú ý tới mọi người. Nhiều mục sư thích tập trung các nhân sự hay những người lãnh đạo nồng cốt trong Hội Thánh của mình vào một phòng riêng để cầu nguyện trước giờ thờ phượng trong lúc mọi người đang đi vào. Tôi tin rằng bạn phải cầu nguyện cho buổi thờ phượng vào một thì giờ khác. Đừng bỏ lỡ một cơ hội nào để ở với dân chúng. Tôi có một đội cầu nguyện luôn cầu nguyện cho tôi suốt mỗi bốn chương trình thờ phượng của chúng tôi, và tôi cũng dành thêm thời gian để cầu nguyện cho các chương trình thờ phượng hằng tuần. Các nhân sự của chúng tôi cũng cầu nguyện với nhau. Nhưng chúng tôi không có những “Cuộc Họp Thánh” trước các buổi thờ phượng. Mỗi tuần chúng tôi chỉ có một lần để gặp gỡ nhiều người trong đám đông của mình, nên khi họ đến, tôi muốn mỗi nhân sự và mỗi lãnh đạo nòng cốt của chúng tôi ra chào đón dân chúng.

Hãy chạm đến dân sự. Hãy nghiên cứu chức vụ của Chúa Giêsu và bạn sẽ thấy tác dụng đầy quyền năng của việc dành cho dân sự một cái nhìn, một lời nói, và chạm vào người họ. Tại Hội Thánh Saddleback, chúng tôi tin vào một chức vụ “đụng chạm.” Chúng tôi hay ôm nhau. bắt tay và vỗ vai nhau. Thế giới của chúng ta đầy những người cô đơn, đang đói khát một sự rờ chạm yêu thương. Nhiều người sống một mình đã nói với tôi rằng sự đụng chạm yêu thương duy nhất mà họ nhận được là tại Hội Thánh. Khi tôi ôm một ai đó trong buổi sáng Chúa Nhật, tôi thường tự hỏi cái ôm đó sẽ ở trong lòng người ấy bao lâu. Gần đây tôi có nhận được một ghi chú này trên tấm card đăng ký: “Mục sư Rick, tôi không thể tả xiết cảm nhận của mình khi ông choàng tay ôm tôi một cách rất tự nhiên. Tôi cảm thấy như thể Chúa Giêsu đang ôm tôi với sự dịu dàng và chan chứa tình thương. Bây giờ tôi biết rằng mình sẽ vượt qua thời điểm đáng sợ này, và tôi biết Ngài đã đem ông đến để giúp đỡ tôi. Thật là tuyệt vời khi tôi nhìn thấy sự quan tâm và tình yêu thương trong Hội Thánh này. Xin cám ơn ông. “Tôi không hề nghĩ gì khi tôi ôm người phụ nữ này, bà sẽ phải phẫu thuật ung thư vú vào ngày hôm sau. Cũng trong tuần đó, tôi nhận được một ghi chú khác, “Tôi đã cầu xin Đức Chúa Trời cho tôi một dấu hiệu tích cực rằng Ngài ở với tôi. Trước buổi thờ phượng, Mục sư Glen, người tôi chưa từng gặp bao giờ, đã bước đến chỗ tôi ngồi, ông không nói lời nào, chỉ đặt bàn tay ông lên vai tôi thôi. Bây giờ tôi biết rằng Đức Chúa Trời không hề quên tôi.” Vợ của người đàn ông này đã bỏ anh ngay trong tuần lễ đó. Bạn sẽ không bao giờ biết được một lời nói dịu dàng, một sự rờ chạm quan tâm sẽ tạo nên cả một khác biệt lớn cho người khác như thế nào. Đằng sau mỗi nụ cười là một niềm đau kín giấu mà chỉ cần một sự thể hiện tình yêu thương đơn giản thôi cũng có thể chữa lành. Hãy dùng phong cách ấm áp, thân mật khi viết thư cho những người khách. Tôi không hề ký “Tiến sĩ Warren” hay thậm chí “Mục sư Warren,” tôi chỉ ký “Rick.” Tôi muốn các vị khách cảm thấy rằng họ có thể trò chuyện với tôi bằng tên riêng.

Chấp nhận chứ không phải chấp thuận. Để yêu thương những người chưa tin Chúa một cách vô điều kiện, dân sự phải hiểu sự khác biệt giữa chấp nhận và chấp thuận. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta được kêu gọi để chấp nhận và yêu thương những người chưa tin Chúa mà không chấp thuận những lối sống tội lỗi của họ. Chúa Giêsu đã làm như vậy khi Ngài thể hiện sự chấp nhận và yêu thương đối với người đàn bà Samari bên giếng nước mà không hề chấp thuận lối sống phóng túng của bà. Ngài cũng đã ngồi ăn với Xachê mà không chấp thuận sự giả dối của ông. Và Ngài công khai bảo vệ chân giá trị của người đàn bà phạm tội tà dâm mà không hề xem nhẹ tội lỗi của bà.

Bất kỳ người câu cá nào cũng biết rằng có đôi lúc để kéo cá lên, đặc biệt là một con cá khỏe, bạn phải thả lỏng dây một chút. Nếu bạn cứ kéo căng dây, con cá có thể giãy, làm đứt dây của bạn, thậm chí gãy cả cần câu. Bạn phải làm việc với con cá, phải để cho nó bơi theo đường của nó một lúc. Đối với việc chinh phục tội nhân cũng vậy: Đôi lúc bạn phải thả lỏng những người chưa tin Chúa một ít để kéo họ trở về. Đừng dập vào đầu họ mọi điều sai trái họ đã làm. Nhiều tội lỗi của họ sẽ được giải quyết khi họ đến với Đấng Christ. Chúng ta không thể mong đợi những người chưa tin Chúa hành động như các tín nhân cho tới khi nào họ tin Chúa. Sách Rôma dạy rằng những người chưa tin Chúa không thể hành động như các tín nhân được vì họ không có quyền năng Thánh Linh trong lòng họ. Những đám đông mà Chúa Giêsu đã thu hút là hỗn hợp của những người tin Chúa và chưa tin Chúa. Một số trong số họ là những người rất tận tâm theo Chúa, một số khác chỉ là những người tìm kiếm chân thành, và một số khác là những người hoài nghi giả dối. Điều này chẳng phiền hà gì Chúa Giêsu cả. Ngài yêu thương hết thảy.

Tác giả: MS Rick Warren

LỜI CẦU NGUYỆN CỦA MỘT THIẾU NHI DO THÁI

kt

Lời cầu nguyện của đứa trẻ gốc Do Thái.

Từ ngày đến Úc tôi đã tiếp xúc khá nhiều với người gốc Do Thái và quan sát họ từ giới học giả, các chuyên gia trong ngành và cả giới tài phiệt. Khi học trong trường thần học tôi cũng đã tiếp cận những học giả Messianic Jews (người Do Thái tin vào Cứu Chúa Giê-su) Arthur Kat là một điển hình, khi họ đến trường để diễn thuyết.
Cách đây hai năm tôi thành lập ra một điểm nhóm học Thánh Kinh mà thành viên của nhóm đa số là người gốc trung-bắc Châu Phi, và rồi một gia đình gốc Do Thái, đến dự rất thường xuyên.

Năm nay nhóm chúng tôi cùng nhau học toàn bộ Thi Thiên 119 tôi khích lệ mọi thành viên nếu có thể học thuộc lòng Thi Thiên này để rồi thảo luận sâu rộng thêm. Người mẹ trẻ gốc Do Thái quá ấn tượng với cách mà chúng tôi thảo luận trong Thi Thiên, bà cho Jude (không phải là tên thật) cậu con trai rất trẻ cùng học với chúng tôi. Dù họ có bận đến đâu thì cặp vợ chồng Do Thái này cũng không bao giờ quên gửi con đến với nhóm để cháu được học hỏi và được thông công.

Tối hôm vừa rồi chúng tôi thảo luận từ câu 129-144 của Thi Thiên này, và chúng tôi bàn rất nhiều trong câu 130. (Chúng tôi đều dùng bản dịch CEV, Contemporary English Version, Tiếng Anh hiện đại)
“Understanding your word brings light to the minds of ordinary people: Hiểu biết lời của Chúa, sẽ soi sáng vào tâm tư của con người.”
Tôi đọc và gặng hỏi mọi người trong nhóm. “Understanding the word of the Lord brings light… that means our minds is being enlightened by the Word of the Lord isn’t it? How come?”

Khi bị thách thức như vậy thì cả nhóm đều như sáng lên khiến cho cuộc thảo luận sôi nổi hơn bao giờ hết. Từ những nhà thông thái đông phương cho đến kỷ nguyên ánh sáng của Châu Âu trong ba thế kỷ 16-19 đều được nêu lên và tôi không thể viết hết những ý tưởng rất đẹp mà người lớn cùng con trẻ trong nhóm thảo luận với nhau trong đêm đó.

Sau khi học xong tôi hỏi. “Ai sẽ là người cầu nguyện kết thúc cho bài học đêm nay?” Jude cậu trai trẻ nhất giơ tay. “Mục sư cho con được cầu nguyện.” Tôi gật đầu đồng ý và lên tiếng yêu cầu tất cả mọi thành viên trong nhóm đều im lặng để Jude cầu nguyện.

“Dear Lord you are a living God, we invite you to be with us in our garthering. Be with the owner of this house and bless them. Be with our pastor and give him your wisdom so that he can instruct us to know your way in the Psalms. And also, Lord give us your wisdom so that we will ever make right choices and make good decisions… to honour you… Amen!”
“Lạy Chúa là Đấng hằng sống, xin Chúa ở cùng chúng con trong nhóm này. Xin Chúa ban phước cho gia đình này đã cho chúng con đến để thông công. Xin Chúa ban khôn ngoan cho Mục sư để ông hướng dẫn chúng con hiểu rõ Thi Thiên. Xin Ngài sẽ khiến chúng con biết lựa chọn để có những quyết định đúng đắn trong đời  sống… làm sáng danh Ngài. Amen!”

Mọi người ai ai cũng nói Amen rồi ai nấy đều lau tau chuẩn bị cho một bữa tối. Còn tôi thì không quên đứng đó ngắm nhìn Jude thành viên trẻ nhất ấy. Jude tuy rất ít tuổi có mái tóc màu xám tro, đôi tai to và dầy, chiếc mũi cao cân đối nằm giữa đôi mắt màu xanh nhạt, khuôn mặt trẻ thơ ấy toát lên vẻ thông tuệ mà tôi không thể không ngẫm nghĩ. Một đứa trẻ mới có năm sáu tuổi mà đã biết cầu nguyện, để có: “right choices… biết lựa chọn để có những quyết định đúng đắn… để sống và vinh danh Chúa…” Cậu ta chỉ biết cầu nguyện như thế vì chính bố mẹ của cậu ta đã từng cầu nguyện tương tự. Tôi xúc động đứng ngắm mọi thành viên của nhóm và không quên thầm cầu nguyện chúc phước cho họ.

Trong cuộc làm người chắc có lẽ không có gì ảnh hưởng đến ta nhiều hơn là biết lựa chọn đúng đắn và quyết định đúng đắn. Hai điều này vẫn thường là ngưỡng cửa đưa ta đến với những chân trời mới của cuộc đời.

Học giả nổi tiếng của Úc, Graeme Goldswothy trong cuốn The Gospel and Wisdom Literatures đã khẳng định: “Nhân loại tiến hay lùi, sang hay hèn, thành công hay thất bại vẫn nằm trong khả năng biết lưạ chọn để có những quyết định đúng đắn. Decision! Decision! Decision!” Ông nhấn mạnh.
Theo Graeme thì cuộc đời của mỗi con người đều được đánh dấu bởi những quyết định của họ. Khi đến tới một quyết định hệ trọng của đời, người ta phải động não, phải suy nghĩ và đem tất cả những gì thuộc về lý trí, để phân tích kiến thức trên nhiều góc cạnh, nhiều phương diện rồi phải sàng lọc những gì mình biết để đi đến một quyết định cho hướng đi tiếp của mình. Quyết định đúng đắn thường xuất phát từ những con người có tâm hồn khôn ngoan. Những nhà thông thái, những nhận vật để lại dấu ấn trong thế gian là những người phải sử dụng trí não và tâm hồn đúng với vai trò của nó. Cũng theo tiến sỹ Graeme người khôn ngoan nhất là người biết thông qua Cứu Chúa Giê-su để được hoà giải và thiết lập mối quan hệ cùng Cha trên trời.

Có rất nhiều những mối liên quan giữa hiểu biết thần học để đưa con người đến với những quyết định khôn ngoan. Người ta cũng cần phải hỏi là lý do tại sao phần nhiều những người đón giải thưởng Nô-ben thường xuất phát từ những người theo Judeo-Christianity (Thiên Chúa Giáo). Bởi vì muốn có kiến thức sâu rộng người ta thường phải biết quan sát và tự hỏi. Những câu hỏi như: tại sao có vũ trụ ngoài kia? Tại sao ta làm người? Ta làm người để làm gì? Ta có não là trung ương thần kinh để làm gì? Tại sao ta có trí óc và phải sử dụng trí óc? Tại sao ta cần phải có sự khôn ngoan thông sáng khi đem ra những quyết định hệ trọng? Và khi biết hỏi những câu hỏi tối thượng là khi cả cuộc đời của con người đem trí não, tâm hồn, lực học và khả năng suy luận của mình để tìm tòi ra những câu trả lời cho mình và cho đời. Vì con người là sinh linh biết chiêm ngưỡng và biết hỏi. Vì có đầu óc tò mò, biết đòi hỏi và thích chiêm ngưỡng cho nên con người ta mới có thể bước đến với nhiều tiến bộ trên nhiều lĩnh vực. Ý tưởng mang tính mộng mơ hôm nay, sẽ trở thành khoa học một ngày nào đó.

Học thuyết Big Bang không xuất phát từ khoa học mà từ ý tưởng mang tính thi văn của linh mục và cũng là nhà khoa học Georges Lemaitre của nước Bỉ vào những năm 30s của thế kỷ trước, để khi gặp Einstein nó đã thành một khám phá khoa học có tính đột phá của thế kỷ 20.

Al Gore năm xưa khi tranh cử tổng thống Mỹ và được hỏi: “Tại sao ông đi học thần học mà không làm Mục sư?” Ông trả lời. “Tôi học thần học để hỏi những câu hỏi khôn ngoan…” Time 1999. Dù ông không được trúng cử để làm tổng thống Mỹ nhưng do ông biết hỏi những câu hỏi để khám phá và tìm cách trả lời, ông đã nhận được giải Nô-ben cho danh dự của mình.

al

Dag Hammarskjold nhà ngoại giao lẫy lừng của Thụy Điển, sau này làm Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc trong khóa 1953-1962 nhưng sự nghiệp của ông bị cắt ngắn trong tai nạn hàng không năm 1961. Ông cũng là nhân vật nhận giải Nô-ben trong nỗ lực khi làm Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Sau khi ông qua đời người bạn thân của ông đã ấn hành những tâm tình của ông ‘Marking’ năm 1963. Trong cuốn Marking ‘Dấu Ấn’ là tâm sự của ông với thách thức của Đức Chúa Trời. Ai đã đọc qua tâm sự này sẽ biết rõ tâm tình của một tín hữu chân thành của Chúa trong công việc và chức vụ của mình. Tất cả, đều xuất phát từ những câu hỏi tối thượng và cả đời ông muốn tập trung để giải quyết.

Tại sao đa số những nhà khoa học, những nhà kinh tế, những văn nhân trong thế gian nhận giải Nô-ben nhiều nhất lại là những người được ảnh hưởng bởi Cơ đốc giáo? Câu trả lời rất đơn giản là vì từ thủa thiếu thời họ đã được hiểu biết Thánh Kinh, thần học và tiếp cận với một môi trường để bị thách thức bởi những câu hỏi hóc búa và phải hướng đời đến với sự khôn ngoan thông sáng. Tác Giả của vũ trụ đã tạo nên con người theo hình thể của Ngài, và cho dù đã sa ngã mà đánh mất đi vinh hiển của mình trong Ngài, nhưng trong mỗi chúng ta vẫn nao nao mong muốn tìm ra câu trả lời cho khát vọng của con tim. Người ta chỉ có thể vươn ra biển lớn khi họ đã vững tâm vào khả năng phân biệt giữa vĩ đại và nhỏ nhen, giữa tính phổ cập và cái lợi ích nhỏ địa phương.

Người ta chỉ có thể vươn ra biển lớn khi họ đã vững tâm vào khả năng phân biệt giữa vĩ đại và nhỏ nhen, giữa tính phổ cập và cái lợi ích nhỏ địa phương.

Những đứa trẻ trong nhóm học Thánh Kinh này cứ tiếp tục biết vui với Chúa, cứ trung tín và cởi mở để tiếp tục học hỏi thì tôi tin rằng hai mươi, hoặc ba mươi năm sau những đứa trẻ này sẽ là những nhà khoa học đầu ngành, sẽ là những nhà giáo dục chân chất, hay sẽ là những luật gia, nhà văn, nhà thơ có tên tuổi và sẽ vươn cao, vươn xa nhiều hơn nữa. Bởi vì khi trong tâm hồn của những đứa trẻ biết rõ cuộc sống phụ thuộc vào sự khôn ngoan thông sáng để đi đến những quyết định có tính cách sáng tạo, sẽ đem ra những bước ngoặt trong đời của các em và sẽ ảnh hưởng đến những người xung quanh. Nhìn thấy đám trẻ và cánh cửa đem họ đến với tương lai tôi bỗng nhiên chạnh lòng.

Ở quê hương mình vẫn ít người nhận biết cái thầm kín bên trong tâm hồn khôn ngoan. Trong câu chuyện của người thân vẫn chỉ chú tâm vào mấy cái rất tầm thường. Cái ‘bằng người của họ’ giỏi lắm thì vẫn là bàn đến những món ăn ngon, thức uống lạ, hoặc là cao hơn một chút là làm sao để có căn nhà, hay có chút kiến thức được phô bày qua bằng cấp… Khi phải đi đến những quyết định hệ trọng thì họ lại dựa vào, một là đám thầy mo, thầy bói hay tìm hỏi ý kiến đối với những con người chả biết khôn ngoan hay thông sáng là gì.

Nhiều người trên quê hương còn mê muội đến đoạn trước khi đến với quyết định hệ trọng, họ hoặc là thắp hương cầu khẩn các vị thần, hoặc là đi xem bói, tệ hơn là xem đến cái chân gà để hướng đời với tương lai. Họ không bao giờ hỏi, cái chân gà kia chỉ dùng để bới giun, bới sâu bọ dưới đất, vùi dập dưới những đống phân hôi hám trong góc vườn thì làm sao có thể đưa ra cái khôn ngoan, thông tuệ đem con người hướng đến với biển lớn ngoài kia? Đám thầy bói, bọn con-phe tâm linh, đám đồng cốt, tất cả những gì họ muốn nói chỉ một mục đích làm cho người ta sợ sệt trong thế giới tâm linh, để họ trục lợi và kiếm tiền.

Niềm tin mà dựa vào sợ hãi sẽ làm đui chột tính sáng tạo. Không dám hỏi những câu hỏi hóc búa và không động não để tìm ra câu trả lời thì không thể nào hướng dẫn đời ta đến với những chân trời mới. Khi không có giá trị phổ cập, không bị động não để áp dụng giá trị bất biến của vũ trụ để rồi phát huy ý chí và cầu nguyện để có sự khôn ngoan giúp ta vượt qua cái thói phàm của thế nhân, thì không dám vươn ra xa? Vì tâm linh bị đóng khung trong vòng luẩn quẩn của đám thầy bói, đồng cốt, chân gà, hàng mã… và họ không biết: giặc dốt, giặc ngu muội đều bắt nguồn từ đây. Đó là lý do khiến cho chúng ta cứ lủi thủi trong cái nhìn vào góc nhỏ rất eo hẹp của mình.

Còn ở đây, những gia đình khôn ngoan hơn trong đó có vợ chồng người Do Thái này thì nhận biết đến sự cần cấp bách cho tương lai của một hậu duệ và hướng cho đám trẻ biết vinh danh Đức Chúa Trời. Họ còn khôn hơn, là luôn luôn để mắt nhìn xem ai trong xã hội có thể tin cậy để làm thầy, để khích lệ và ảnh hưởng cho tương lai của hậu duệ họ.

Lời cầu nguyện của đứa trẻ gốc Do Thái đã thôi thúc tôi học thêm để làm tròn trách nhiệm của người hướng dẫn họ trong Hội Thánh. Cậu trẻ người Do Thái này đã làm tôi xúc động và suy nghĩ nhiều hơn trong suốt mấy đêm nay.

Mục sư Uông Nguyễn

BẠN VÀ BÈ

Suy ngẫm 2 chữ BẠN và BÈ…

Rất thấm thía…
Bạn bè cũng như tiền:

Có tờ … thật 
Có tờ … giả 
Có tờ … lành 
Có tờ … rách 
 
Chỉ tiếc vì mình không phải là máy soi tiền nên không thể biết được… AI LÀ BẠN và BẠN LÀ AI?

* Hai chữ BẠN THÂN có nghiã là:

B: bao dung 
A: an toàn 
N: nhường nhịn

T: thương yêu 
H: hiền hòa 
Â: ấm áp 
N: ngọt ngào

* Tình bạn trong đời

Nếu một ngày nào đó, bạn cảm thấy thật buồn và muốn khóc…
Hãy gọi cho tôi!
Tôi không hứa sẽ làm cho bạn cười, nhưng biết đâu tôi sẽ khóc cùng bạn!

Nếu một ngày nào đó, bạn cảm thấy vô cùng đơn độc..
Hãy gọi cho tôi!
Tôi sẽ đến bên bạn, chỉ để im lặng không nói một lời, nhưng tôi muốn bạn biết rằng luôn có tôi bên cạnh.

Nếu một ngày nào đó, bạn phân vân trước những quyết định của mình.

Hãy gọi cho tôi!

Tôi sẽ không quyết định thay bạn, nhưng có thể giúp bạn vững tâm hơn trước sự chọn lựa của mình.

Nếu một ngày nào đó, bạn gặp thất bại trong công việc. 
Hãy gọi cho tôi!
Tôi sẽ không đem lại cho bạn một công việc mới, nhưng tôi sẽ giúp bạn tìm thấy một cánh cửa khác của sự thành công.

Nếu một ngày nào đó, bạn vô cùng đau khổ vì phạm phải sai lầm.
Hãy gọi cho tôi!
Tôi không thể sửa chữa sai lầm đó, nhưng tôi có thể giúp bạn nhận ra rằng những sai lầm sẽ giúp bạn trưởng thành và tự tin hơn.

Nếu một ngày nào đó, bạn lo sợ những điều tốt đẹp sẽ qua đi. 
Hãy gọi cho tôi!
Toi sẽ không níu giữ chúng lại, nhưng tôi giúp bạn hiểu rằng mọi việc đều có những điểm khởi đầu và kết thúc. 
 
Nếu một ngày nào đó, bạn trở nên bế tắc và tuyệt vọng. 
Hãy gọi cho tôi!
Tôi không hứa sẽ làm bạn quên đi tất cả, nhưng tôi có thể giúp bạn tìm niềm tin trong cuộc sống.

Nhưng một ngày nào đó, bạn gọi mà không thấy tôi trả lời.
 Bạn hãy đến bên tôi, vì lúc đó tôi đang cần bạn!

Trong cuộc đời dù hai tiếng BẠN & BÈ thật rất ư khác biệt nhưng hai tiếng “bạn bè” vẫn thường được ghép đôi !

-Khi đắc thời đâu biết… AI là BẠN

-Lúc thất thời mới biết … BẠN là AI

-Trong cuộc vui vẫn coi … BÈ là BẠN

– Khi hoạn nạn mới biết … BẠN là BÈ.

Các bạn ơi :

         “Bạn bè xấu làm hư thói nết Tốt.” ( I Corinhto 15:33)
( Do not be misled: Bad company corrupts good character . NIV )
“Nhưng Đức Chúa Trời kết bạn thiết với những kẻ kính Sợ Ngài.” ( Thi Thiên 25:14)

        ( The Lord confides in those who fear him.” ( psalm 25:14 NIV)

Các bạn muốn có một người bạn thiết bên cạnh mình luôn luôn khÔng? Hãy kết bạn thiết với ĐCT các bạn ạ!

MS JosephNa

                  

TỪ THIÊN SỨ THÀNH QUỈ SỨ

warren

Tác giả: Warren W. Wiersbe

Ta sẽ lên trên cao những đám mây, làm ra mình bằng Đấng Rất Cao (Ê-sai 14:14).

Tên gọi Lucifer xuất phát từ tiếng Latin có nghĩa là “người nắm giữ ánh sáng.” Một số giáo phụ của hội thánh gọi Satan là Lucifer khi họ giải thích câu Kinh Thánh Ê-sai 14:12 “Hỡi sao mai, con trai của sáng sớm kia, sao ngươi từ trời sa xuống! Hỡi kẻ giày đạp các nước kia, ngươi bị chặt xuống đất là thể nào!”
Chúng ta biết từ ban đầu Satan là một thiên sứ sáng láng được Đức Chúa Trời tạo dựng để phục vụ cho công việc của Ngài. Và theo Kinh Thánh các thiên sứ này được so sánh với các ngôi sao. Khi Đức Chúa Trời sáng tạo nên vũ trụ thì “trong khi ấy các sao mai đồng hát hòa nhau” (Gióp 38:7), và Lucifer là một thiên sứ ở giữa các sao mai ấy. Theo một đường lối không được giải thích, vào một thời điểm không xác định sự tự kiêu của thiên sứ lớn này đã kéo theo sự phán xét cho sự sa ngã của nó và rồi bị Đức Chúa Trời loại bỏ (Khải huyền 12:1-9). CH Spurgeon đã nói về Ma quỉ: “Thực chất tình trạng chưa qua thử thách của Ma quỉ là một thiên sứ đã đánh mất sự thánh khiết”.

Trong ý nghĩa ban đầu, Ê-sai 14:9-23 là một ”bài ca nhạo báng” về vua của Babylon. Vị vua này khoe khoang trong niềm kiêu hãnh rằng ông ta sẽ leo lên nơi cao tới ngai của Đức Chúa Trời và tự làm cho mình giống như Đức Chúa Trời. Nhưng cuối cùng ông ta đã rơi xuống Sheol – địa hạt của sự chết giống như những quốc vương khác. Chúng ta cũng tìm thấy một đoạn văn tương tự trong Ê-xê-chi-ên chương 28, tại đây Đức Chúa Trời tuyên phán về sự sụp đổ của vua Tyre (câu 11-19). Trong khi những lời giải thích căn bản về hai đoạn Kinh Thánh trên đây được qui cho những vua đương thời – vua của đế quốc Babylon và của Tyre, thì phía sau nó dường như ám chỉ đến một vua được che giấu: vua của quyền lực chốn không trung là Satan. Nó là Ma quỉ, kẻ thù của Đức Chúa Trời và dân sự Ngài. Nhìn vào các việc làm và sự sụp đổ của hai vị vua kiêu ngạo trên đây, chúng ta có một minh họa sinh động về những phẩm cách, công việc của Satan và sự phán xét cuối cùng của Đức Chúa Trời dành cho nó.

Câu gốc chỉ về Lucifer ở đây là Ê-sai 14:14, “Ta sẽ lên trên cao những đám mây, làm ra mình bằng Đấng Rất Cao” – một lời phát biểu bộc lộ bản chất kiêu ngạo của Satan.

THAM VỌNG

ambition-poster-l2-300x199

Tham vọng của một người có thể tốt hoặc xấu, tùy thuộc vào động cơ và phương pháp thực hiện. Lucifer có tham vọng “làm ra mình bằng Đấng Rất Cao”. Ý tưởng này là tội ác và không thể chấp nhận được.

Nếu động cơ cho tham vọng của chúng ta là tư lợi cá nhân, và phương pháp để thực hiện tham vọng đó là lừa dối và hãm hại gười khác, khi đó tham vọng này hoàn toàn sai lầm. Nhưng nếu động cơ của chúng ta là dâng vinh hiển về cho Đức Chúa Trời, và phương cách thực hiện tham vọng là làm theo ý muốn của Chúa và chờ đợi thời điểm mở đường của Ngài thì tham vọng (khát vọng) này là tốt. Thư tín Ga-la-ti chương 5 câu 17 đề cập đến “dục vọng – những điều ưa muốn của xác thịt” và trong Phi-líp chương 2 câu 3 cảnh báo chúng ta: “Chớ làm sự chi vì lòng tranh cạnh hoặc vì hư vinh”. Gia-cơ 3:14-16 cũng nói: “Nhưng nếu anh em có sự ghen tương cay đắng và sự tranh cạnh trong lòng mình, thì chớ khoe mình và nói dối nghịch cùng lẽ thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trên mà xuống đâu; trái lại, nó thuộc về đất, về xác thịt và về ma quỉ. Vì ở đâu có những điều ghen tương tranh cạnh ấy, thì ở đó có sự lộn lạo và đủ mọi thứ ác”. Những phần Kinh Thánh này cho chúng ta biết rằng những dục vọng hay tham vọng của xác thịt là thuộc về Ma quỉ.

Nhưng các khát vọng chính đáng ở trong Chúa có thể được ban phước. Trong 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:11, “ráng tập ăn ở cho yên lặng”. Chỗ này bản Kinh Thánh Tiếng Anh viết là: “Make it your ambition to lead a quiet life.” Và sứ đồ Phao-lô xác nhận là ông có tham vọng này: “Nhưng tôi lấy làm vinh mà rao Tin lành ở nơi nào danh Đấng Christ chưa được truyền ra” (Rô-ma 15:20). Ông muốn có một chức vụ làm đẹp lòng Chúa (2 Cô-rin-tô 5:9). Chúng ta nhớ câu chuyện ngụ ngôn trong sách Ma-thi-ơ 25: 24-27 về người đầy tớ đem chôn giấu ta-lâng được giao là không có tham vọng làm lợi cho chủ, anh ta được xếp vào loại “đầy tớ dữ và biếng nhác”. Một trường hợp khác trong Kinh Thánh ghi lại tham vọng sai trật: Áp-sa-lom con trai của Đa-vít đã dùng mưu mẹo và thủ đoạn để tìm cách leo lên đỉnh cao của quyền lực thì tự mình chuốc lấy sự phán xét của Đức Chúa Trời.
Các vị vua thời xưa thường tự tôn chính mình lên ngang bằng thần thánh và có những hành động như những vị thần. Pha-ra-ôn đã hỏi: “Giê-hô-va là ai mà trẫm phải vâng lời người, để cho dân Y-sơ-ra-ên đi?” (Xuất Ê-díp-tô 2:5). Còn Nê-bu-cát-nết-sa thì khoe khoang: “Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển oai nghi của ta sao?” (Đa-ni-ên 4:30).
Đức Chúa Trời gởi câu trả lời đến cho những người này, Ngài đã làm cho vương triều Ai-cập kinh hoàng qua một chuỗi phép lạ, và Ngài cũng biến đổi vị vua kiêu ngạo Nê-bu-cát-nết-sa trở thành súc vật ăn cỏ như bò trong bảy năm. Thêm một trường hợp khác là Hê-rốt Ạc-ríp-pa thích thú với tiếng tung hô của đám đông sau bài diễn thuyết: “Ấy là tiếng của một thần, chẳng phải tiếng người ta đâu!” (Công vụ 12:22). Và điều gì xảy ra sau đó? Ông ta bị “thiên sứ của Chúa đánh, bởi cớ chẳng nhường sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời; và vua bị trùng đục mà chết.”

Các trường hợp tự nâng mình lên làm thần của các vua trên đây minh họa cho chúng ta hiểu về mối liên kết của họ với Lucifer, nguyên là thiên sứ sáng láng. Các thiên sứ chỉ là vật thọ tạo, được dựng nên để làm đầy tớ Đức Chúa Trời, không thể nào ngang bằng với Đấng Tạo Hóa. Thế nhưng Lucifer đã có những ý tưởng khác. Tham vọng của nó là xấu xa. Nó muốn trở nên giống như Đức Chúa Trời là Đấng đã tạo dựng nên nó, và tuyên bố: “Ta sẽ làm ra mình bằng Đấng Rất Cao”. Kinh Thánh không giải thích đầy đủ về tất cả những gì đã xảy ra trong sự kiện này, nhưng khi Lucifer phản loạn nó đã kéo theo một số các thiên sứ khác. Sự phán xét của Đức Chúa Trời trên Satan và những thiên sứ theo nó là: “Con rồng lớn đó bị quăng xuống, tức là con rắn xưa, gọi là ma quỉ và Sa-tan, dỗ dành cả thiên hạ; nó đã bị quăng xuống đất, các sứ nó cũng bị quăng xuống với nó” (Khải huyền 12:9). Bài thơ kinh điểnĐánh Mất Thiên Đàng của Milton được căn cứ trên câu chuyện này.

SỰ KIÊU NGẠO

Tính kiêu ngạo nuôi dưỡng tham vọng ích kỷ. Nhiều nhà thần học tin rằng thói kiêu ngạo là khởi nguồn cho mọi tội lỗi. Vì lý do này kiêu ngạo là một trong những tội mà Đức Chúa Trời ghét. “Có sáu điều Đức Giê-hô-va ghét, Và bảy điều Ngài lấy làm gớm ghiếc: Con mắt kiêu ngạo, lưỡi dối trá, Tay làm đổ huyết vô tội” (Châm Ngôn 6:16-17).

Và trong Châm Ngôn 16:18, “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau, Và tánh tự cao đi trước sự sa ngã”.
Ý tưởng của Lucifer, “Ta sẽ làm ra mình bằng Đấng rất cao” là tiền đề cho lời dối gạt của nó khi cám dỗ Ê-va, “Ngươi sẽ trở nên giống như Đức Chúa Trời” (Sáng thế ký 3:5). Nó đã thành công khi dùng một miếng mồi tấn công người nữ đầu tiên: ngươi sẽ trở nên giống như một người nào đó. Đây chính là một lời hứa hư ảo, xuất phát từ sự kiêu ngạo đã đánh đúng tâm lý con người. Thế là Ê-va hoàn toàn sập bẫy.

CG_20140405--672x372

Các nhà khoa học nghiên cứu hành vi con người cho chúng ta biết rằng phần lớn hành vi rối loạn thần kinh có liên quan trực tiếp đến sự kiêu ngạo. Những người như thế cần một phương thuốc tốt nhất cho sự khỏe mạnh vật lý và lòng trung thực. Cả Chúa Jesus và sứ đồ Phao-lô đều biết người ta phải sống như thế nào trong một xã hội mà sự kiêu ngạo được thúc đẩy từ những người La Mã vốn là bậc thầy về sự khoe khoang. Sự kiêu ngạo tự tôn mình lên theo một giá trị ảo, trong khi sự khiêm nhường chính là hạ mình xuống để phục vụ người khác. Vì thế Chúa Jesus đã cảnh báo các môn đồ: “Các ngươi biết rằng các vua dân ngoại thì ép dân phải phục mình, còn các quan lớn thì lấy quyền thế mà trị dân. Trong các ngươi thì không như vậy; trái lại, trong các ngươi, kẻ nào muốn làm lớn, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi” (Ma-thi-ơ 20:25-26). Chúa Jesus đã thực hành những gì Ngài dạy, Ngài từ bỏ địa vị bình đẳng với Đức Chúa Trời, trở thành một tôi tớ phục vụ con người và cuối cùng chịu chết trên thập tự giá như một của lễ hy sinh. Ngài đã trở thành một tấm gương hoàn hảo cho chúng ta (Phi-líp 2:1-11). Chúa Jesus với những thuộc tính như thế hoàn toàn tương phản với Lucifer! Khiêm nhường luôn đối kháng với sự kiêu ngạo.

Phao-lô viết trong Rô-ma 12:3, “Vậy, nhờ ơn đã ban cho tôi, tôi nói với mỗi người trong anh em chớ có tư tưởng cao quá lẽ, nhưng phải có tâm tình tầm thường, y theo lượng đức tin mà Đức Chúa Trời đã phú cho từng người”. Ông cũng cảnh báo các hội thánh không được chọn lựa các tín hữu chưa trưởng thành (người mới tin đạo) vào vị trí người lãnh đạo. “Người mới tin đạo không được làm giám mục, e người tự kiêu mà sa vào án phạt của ma quỉ chăng” (1 Ti-mô-thê 3:6). Người lãnh đạo sa vào án phạt của ma quỉ sẽ là một thảm họa cho hội thánh!

Những mẫu quảng cáo về những người “nổi tiếng” hiện nay khuyến khích mọi người tin rằng hoàn cảnh cá nhân, quyền lực, sự công nhận của đám đông, và những tài sản một ai đó sở hữu thì đo lường giá trị bản thân của anh ta. Sự vắng mặt của các anh hùng dân tộc đích thực làm cho công chúng dễ dàng thờ lạy một người ở đẳng cấp cao và “nổi tiếng” được các chuyên gia quan hệ công chúng (Public Relation) là những người làm công tác quảng cáo đẩy lên cao. Khi con người tôn vinh, sùng bái một ngôi sao điện ảnh hay một hình tượng nổi bật nào đó trong các môn thể thao thì cũng giống như trong thời Cựu ước dân sự thờ phượng Baal hay thần Zeus. Tất cả các thần tượng do con người lập nên là một sai lầm đáng xấu hổ. Đôi khi khuynh hướng tôn vinh thần tượng cũng xâm nhập vào hội thánh và dường như chúng ta ngày càng có nhiều người “nổi tiếng”, trong khi những người đầy tớ phục vụ đúng nghĩa đang vơi dần.

Sự kiêu ngạo sai lầm ở chỗ nào? Tính kiêu ngạo đem người ta vào trong một thế giới không thực tế. Và nếu đời sống được đặt trên những điều hư ảo thì không thể lấy gì để nuôi dưỡng nó. Điều đó cũng giống như các con trẻ tham dự vào một trò chơi ồn ào được thưởng ăn kẹo ngọt trong giờ ăn trưa thay vì ăn bữa ăn chính thức với đầy đủ chất dinh dưỡng. Những tham vọng ích kỷ làm no đầy cái tôi bản ngã nhưng phá hủy linh hồn. Nó gây ấn tượng trên một số người nào đó, nhưng làm cho Đức Chúa Trời đau buồn.

SỰ LỪA DỐI

Khi Đức Chúa Trời muốn vận hành bên trong các con cái của Ngài, Ngài sẽ dùng các lẽ thật trong Lời của Ngài và Đức Thánh Linh dạy các lẽ thật đó. Vì Đức Thánh Linh chính là “thần của lẽ thật” (Giăng 14:17; 15:26; 16:13). Đức Chúa Trời sử dụng lẽ thật để hoàn thành công việc Ngài, còn Satan dùng sự dối trá thúc đẩy công việc của nó.

Lần đầu tiên Satan xuất hiện trong Kinh Thánh dưới hình dạng một con rắn cám dỗ Ê-va (Sáng thế ký 3:1-4; 13-14). Chúa Jesus gọi nó là “kẻ nói dối và là kẻ giết người” (Giăng 8:44). Và Phao-lô cảnh báo các tín hữu tại Cô-rin-tô: “Tôi ngại rằng như xưa Ê-va bị cám dỗ bởi mưu chước con rắn kia, thì ý tưởng anh em cũng hư đi, mà dời đổi lòng thật thà tinh sạch đối với Đấng Christ chăng“ (2 Cô 11:3). Nếu những người lính Cơ Đốc không trang bị lẽ thật làm dây nịt lưng, gươm của Thánh Linh là Lời của Đức Chúa Trời và những vũ khí khác theo Ê-phê-sô 6: 14-17 thì không thể đánh bại Satan. Hãy xem Satan xuất hiện trong sách Khải huyền 12:9-17, “Con rồng lớn” tức là “con rắn xưa” gọi là ma quỉ và Satan. Và Khải 20:1-3, Satan bị xiềng lại đến ngàn năm. Sau cùng nó bị “quăng xuống hồ lửa và diêm” (Khải 20:10). Công việc của nó kết thúc vĩnh viễn tại đây!

Về cơ bản Satan là một kẻ giả mạo, nó bắt đầu công việc của nó bằng cách cố gắng giả mạo làm Đức Chúa Trời. Từ khi sa ngã, nó đã chế tác ra một phúc âm giả bằng những việc lành (Ga-la-ti 1:6-9). Nó cấy trồng những Cơ đốc nhân giả mạo (Ma-thi-ơ 13:24-30; 36-43) là những người thực hành đời sống tôn giáo bên ngoài (Rô-ma 9:30 – 10:4). Những trợ thủ giả mạo của nó hầu việc nó (2 Cô 11:13-15) trong một hội thánh giả (Khải 2:9; 3:9). Đến cuối cùng Satan sẽ bỏ mạng che mặt ra, nó hiện nguyên hình là AntiChrist. Cả thế giới mù lòa thuộc linh sẽ thờ phượng và vâng phục nó (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2; Khải 13). Satan luôn luôn muốn được người ta thờ phượng và trong một khoảng thời gian ngắn tạm thời, dường như nó đã đạt được mục tiêu.

images

Đến cuối cùng Satan sẽ bỏ mạng che mặt ra, nó hiện nguyên hình là AntiChrist. Cả thế giới mù lòa thuộc linh sẽ thờ phượng và vâng phục nó (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2; Khải 13). Satan luôn luôn muốn được người ta thờ phượng và trong một khoảng thời gian ngắn tạm thời, dường như nó đã đạt được mục tiêu.

Khi Satan cám dỗ Ê-va nó nói ba điều dối trá. Thứ nhất, Satan đưa ra giả định là Đức Chúa Trời đã không thực sự hào phóng khi cấm Ê-va và A-đam ăn trái cây biết điều thiện ác. Thứ hai, nó phủ nhận Lời Chúa dạy là Ê-va sẽ chết nếu ăn trái cây đó. Thứ ba, nó khẳng định rằng thay vì chết khi ăn trái cây, Ê-va sẽ trở nên giống như Đức Chúa Trời. Bằng cách nói như thế Satan công bố rằng không hề có một chút lẽ thật nào ở trong Đức Chúa Trời, sẽ không có bất cứ hậu quả nào cho sự không vâng lời của cá nhân, và không có giới hạn nào về những gì con người sẽ thực hiện. Ba điều đối trá trên đây của Satan vẫn còn đang tái xuất hiện trong triết học và tôn giáo hôm nay, đặc biệt là trong Phong Trào Thời Đại Mới. Satan vẫn tiếp tục nói những điều dối trá trong thời đại này như nó đã từng làm trong Sáng thế ký chương 3, và thậm chí nó có thể chi phối hay làm nhiễm độc tư tưởng của những tín hữu chân thật.

Khi tin vào điều dối trá, Satan sẽ đi vào đời sống chúng ta. Nhưng khi tin vào lẽ thật của Đức Chúa Trời thì Đức Thánh Linh sẽ vận hành bên trong chúng ta. Khi nuôi dưỡng những tham vọng không chính đáng, chúng ta đang phục vụ cho thế giới, xác thịt và Ma quỉ. Hậu quả của điều này sẽ đem đến những rắc rối cho chúng ta. Nhưng khi chúng ta tìm kiếm con đường làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, hết lòng phục vụ Ngài, khi ấy phước hạnh sẽ đuổi theo chúng ta.

Trong tác phẩm Sự Phân Cách Lớn Lao, C. S. Lewis đã viết: “Chỉ có hai loại người vào ngày cuối cùng: 1/ Những người nói với Đức Chúa Trời, “Ý Cha được nên”. 2/ Những người mà Đức Chúa Trời phán: “Ý của ngươi  được thành”. Loại người thứ hai phải đi vào địa ngục!

Và tất cả những rắc rối này đã khởi phát từ Lucifer.

Warren W. Wiersbe
Translated by Tuong Vi

ĐÀN BÒ CÁI XỨ BA-SAN

“Hỡi những bò cái của Ba-san, hãy nghe, bay ở trên núi của Sa-ma-ri; hiếp đáp kẻ nghèo nàn, hành hạ kẻ thiếu thốn, nói cùng chúa chúng nó rằng: Hãy đem đến, chúng ta cùng uống–Vì các ngươi hiếp đáp kẻ nghèo và đòi họ nộp thuế lúa mì, vậy nên những nhà bằng đá vuông nầy mà các ngươi đã xây nên, các ngươi sẽ không ở được–Bấy giờ ta sẽ đánh nhà mùa đông và nhà mùa hạ; những nhà bằng ngà voi sẽ bị phá, và những nhà lớn sẽ bị hủy diệt, Đức Giê-hô-va phán vậy–Các ngươi nằm ngủ trên giường ngà và duỗi dài trên ghế dài mình; ăn những chiên con chọn ra trong bầy và những bò con mập trong chuồng.  Thật, các ngươi hát bài bậy bạ họa theo đàn cầm, bày vẽ ra những đồ nhạc khí cho mình như vua Đa-vít.  Các ngươi uống rượu trong những chén lớn, dùng dầu rất quí xức cho thơm mình, mà không lo đến tai nạn của Giô-sép!  Vậy nên chúng nó sẽ bị bắt làm phu tù đầu nhứt trong những kẻ bị bắt, và bấy giờ sẽ dứt tiếng reo vui của những kẻ buông tuồng ấy!– Vì nầy, ta sẽ truyền lịnh, và sẽ rải tan nhà Y-sơ-ra-ên ra giữa mọi dân, như lúa mì bị rải tan trong cái sàng, mà không có một hột nào rơi xuống đất-Đức Giê-hô-va phán như vầy: Như kẻ chăn chiên chỉ gỡ được hai giò hay một tai ra khỏi họng sư tử, thì những con cái Y-sơ-ra-ên, là những kẻ ngồi tại Sa-ma-ri nơi góc giường và trên thảm của Đa-mách, cũng sẽ được cứu cách như vậy.”

Tôi không hiểu tại sao tiên tri A- mốt ví sánh người chăn dân Chúa thời của ông là những “bò cái”. Bò cái phải tượng trưng phụ nữ thượng lưu, các thịt. Có lẽ bò cái nầy cai trị trên chồng họ, họ có thẩm quyền, nên Chúa kêu đến họ và tuyên ra lời phán xét. Bò cái đây là lớp người trên vua quan Israel, ở bắc quốc, họ được vổ béo, sống trong cung điện bằng nhà, có thêm nhà mùa hạ, nhà mùa đông dự phòng. Vua quan thì cư xử hung bạo, trái ngược đức công nghĩa của Chúa, hiếp đáp dân Ngài, lạm thu thuế má. Cuối cùng họ mất nước và bị lưu đày.

Nhưng mục tử ngày nay nếu cư xử như vậy, thì vào ngày đại nạn sẽ bị “làm thịt”- Gia cơ báo trước, “À, các ngươi là kẻ giàu có kia, hãy khóc lóc, kêu la vì cớ khổ nạn sẽ đổ trên các ngươi.  Của cải các ngươi bị mục nát, áo xống các ngươi bị sâu mọt ăn đi.  Vàng bạc các ngươi bị ten rét; ten rét đó sẽ làm chứng nghịch các ngươi, ăn thịt các ngươi như lửa vậy. Các ngươi đã dồn chứa tiền của trong những ngày sau rốt.  Kìa, tiền công con gặt đã gặt ruộng các ngươi, mà các ngươi đã gian lận không chịu trả, thì kêu rêu, và tiếng kêu oan của con gặt đã thấu đến tai Chúa Vạn quân.  Các ngươi đã ăn ở xa hoa trên đất, buông lung vui thú, nuôi béo lòng mình trong ngày làm thịt.  Các ngươi đã định tội và giết người công nghĩa, mà người chẳng chống trả các ngươi” (Gia cơ 5:1-6).

Tôi biết còn rất nhiều mục tử không đủ sống nhưng vẫn trung tín chăn bầy của Chúa, nhưng cũng có nhiều Nicola rất giàu và có cuộc sống xa hoa, như minh họa của A-mốt và Gia cơ ở đây.

Mời các bạn dành chút thời gian đọc sách A mốt, chỉ có 9 đoạn, đọc chừng 45 phút là xong, thì các bạn sẽ được tỉnh thức.

Tôi có lời thơ sau khi đọc xong sách tiên tri A-mốt:

Nước Israel hư tàn,

Người chăn ví sánh như đàn bò sang,

Nhà vuông bằng đá  khang trang,

Thêm nhà đông hạ trang hoàng ngà voi;

Đổi thay chổ ở tùy thời,

Giường ngà nằm duỗi cả đời ăn ngon,

Bò con mập, thịt chiên con,

Uống ăn ca hát theo đờn cầm hay;

Cớ sao họ được như vầy?

-Tớ trung hiếp đáp, đọa đày thánh dân,

Bỏ công bình, sống bất nhân,

Hưởng bao đặc lợi trên dân Chúa Trời;

Bụi đầu dân cũng tham rồi,

Tho gom tiền dép của người khó khăn;

Bẻ cong lẽ thật nhiều lần,

Ăn trên của cải thiên dân của Ngài;

Bạc tiền chẳng dám công khai,

Để mà thâm lạm khó ai am tường;

Án lưu đày Chúa định xong,

Chừng sư tử nuốt khó mong gở rày,

Lúa mì sàng sảy rất gay,

Vào ngày làm thịt dân nầy mạng vong-

Chăn dân hung bạo uổng công,

Án công bình Chúa khó mong thoát ngoài.

Bạn ơi, tỉnh ngộ hôm nay,

Đọc lời A-mốt tránh ngay đường nầy./.

Minh Khải—29-8-2015-

PHẨM CHẤT NGƯỜI PHỤC VỤ CHÚA

“Chúng đáp lời như vầy: Chúng tôi vốn là đầy tớ của Đức Chúa Trời, Chúa tể của trời và đất; chúng tôi đang xây cất lại Đền Thờ, đã lâu năm trước đây có một vua sang trọng của Ít-ra-ên lập lên và làm cho hoàn thành” (câu 11).

Câu hỏi suy ngẫm: Qua bản sao của tờ biểu quan Tổng đốc Tạt-tê-nai tâu lên Vua Đa-ri-út, chúng ta biết gì về những câu trả lời của các trưởng lão? Chúng ta học được điều gì về phẩm chất của người phục vụ Chúa qua những câu trả lời ấy? So với phẩm chất của các trưởng lão, bạn thấy mình còn thiếu sót điều gì?

Câu 6-17 là bản sao của tờ biểu mà quan Tổng đốc Tát-tê-nai tâu lên Vua Đa-ri-út. Qua tờ biểu này chúng ta biết chi tiết về việc ông Tát-tê-nai đến điều tra và những câu trả lời của các trưởng lão với quan Tổng đốc Tát-tê-nai. Và qua nội dung những câu trả lời của các trưởng lão, cho chúng ta thấy một số phẩm chất đáng học tập cho người phục vụ Chúa.

Khi được hỏi danh tính của những người lãnh đạo xây cất Đền Thờ Đức Chúa Trời, các trưởng lão, thấy tế lễ và những lãnh đạo trên công trường xây dựng xác định rõ ràng và mạnh mẽ: Chúng tôi là ai, Đức Chúa Trời là ai, và công việc chúng tôi đang làm là gì (câu 11). Người phục vụ Chúa cần nhận biết Đấng mình đang phục vụ là ai? Ngài là Chúa tể của trời đất, vũ trụ, là Đấng chí cao chí đại, còn người phục vụ chỉ là đầy tớ của Ngài mà thôi. Dĩ nhiên khi nhận mình “vốn là đầy tớ” thì người phục vụ không xem mình đang nắm giữ một chức vụ, nhưng nhận biết đó là một nhiệm vụ được chủ giao, và là nhiệm vụ của một nô lệ thấp hèn trước mặt Chúa mà thôi. Tiếp theo, họ xưng nhận tội lỗi của tổ phụ họ đã xúc phạm Đức Chúa Trời và khẳng định đó là nguyên nhân khiến họ bị lưu đày qua Ba-by-lôn (câu 12). Người phục vụ Chúa không tìm cách tránh né những sai lầm, thất bại của mình, không đổ thừa cho hoàn cảnh hay đổ lỗi cho người khác, mà sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm thuộc về mình. Khi nhận thức đúng nguyên nhân thất bại thì mới có cơ hội để ăn năn; và khi biết ăn năn thì mới có thể nhận được sự tha thứ và phục hồi từ Đức Chúa Trời. Cuối cùng, họ trung thực trình bày sự việc Vua Si-ru trả lại các khí dụng trong Đền Thờ, lập ông Sết-ba-xa làm quan tổng đốc và cho phép dân chúng trở về xây cất Đền Thờ của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Người phục vụ Chúa phải thành thật, không nói thêm, bớt, không nói hai lời, không thổi phồng thành tích nhưng trong mọi sự luôn thấy những gì có được hoặc làm được là do ơn thương xót của Chúa mà thôi.

Bạn đang phục vụ Chúa trong lãnh vực nào? Bạn có thật sự hạ mình để dâng vinh quang cho Đức Chúa Trời không?

Lạy Chúa, xin tha thứ cho con vì nhiều lúc con lên mình kiêu ngạo, tự thấy mình quan trọng hơn người khác. Xin cho con phục vụ Chúa, phục vụ anh chị em con với tinh thần đầy tớ đúng nghĩa.

HÃY ĐỂ ‘LỬA THÁNH LINH’ RỰC CHÁY TRONG LINH HỒN ANH CHỊ EM!

Khi trái tim của một người không còn yêu người yêu mình cách trong sáng, tinh bạch, chân thành, ngọt ngào, chung thủy nữa vì trái tim của họ đã hướng về một người nào khác và trở nên lạnh nhạt đối với người yêu của mình. Nó cũng giống như người tin theo Chúa không còn yêu Chúa của mình nữa (là Đấng yêu thương mình) với cả lòng, linh hồn, trí khôn, và sức lực mình vì tấm lòng của họ đã hướng về một thần tượng hư không nào đó và họ đã ngoại tình tâm linh với thần tượng ấy, yêu mến thần tượng ấy hơn là Thiên Chúa cao cả, là Đấng tạo hóa của mình.

Ngày nay có người đã từng yêu mến Thiên Chúa của mình, nhưng khi bị thần đời nầy, chúa đời nầy dụ dỗ cuốn hút họ, thì họ đã từ bỏ Chúa của mình, và không còn theo Ngài nữa. Có người yêu mến thế gian, ham mến đời nầy, cùng sự lo lắng về đời nầy và sự ham mê quyến rũ của sự giàu sang làm cho tình yêu đối với Chúa của họ trở nên nghẹt ngòi và nguội lạnh! Họ có thể đi nhà thờ mỗi tuần thờ phượng Chúa như những hoạt động tôn giáo của thế gian, nhưng lòng họ rất trống rỗng – rất xa Chúa. Vì thế xưa kia CHÚA Đức Chúa Trời phán với con dân Ngài rằng, “Dân nầy đến gần Ta chỉ bằng miệng lưỡi. Chúng tôn kính Ta chỉ bằng đầu môi chót lưỡi mà thôi. Còn lòng của chúng cách xa Ta lắm.” Nhưng vì Chúa yêu thương con dân Ngài quá đỗi nên Ngài kêu gọi họ trở về với Ngài để ăn năn tội lỗi với tâm linh thống hối vỡ tan.

Anh chị em yêu dấu! Có phải tấm lòng của anh chị em trong lúc nầy đang xa Chúa, đang nguội dần, không còn yêu mến Chúa nữa? Lòng anh chị em giờ phút này có xa cách Chúa của mình không?

Chúa yêu anh chị em vô cùng và Ngài đang dịu dàng nói với anh chị em rằng, “Mặc dầu đã đến lúc nầy, các con vẫn còn cơ hội. Ta yêu con với tình yêu đời đời và sẽ mãi mãi yêu con. Ta sẽ ném bỏ mọi tội lỗi của con xuống đáy biển sâu. Hãy trở lại với Ta. Hãy đau buồn, chịu tang và khóc lóc. Hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn.”

Lời Chúa phán, “Phước cho người được Chúa không kể tội của mình và trong lòng không có điều chi gian dối.”

Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta, “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết trí tuệ mà yêu kính Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.’ Đó là điều răn lớn nhất và quan trọng nhất” (Mathiơ 22:37-38).

Anh chị em ơi! Đừng dập tắt Đức Thánh Linh và tình yêu Chúa ở trong lòng mình! Nhưng hãy để ‘Lửa Thánh Linh’ rực cháy trong trái tim, trong tâm hồn anh chị em như những viên than hồng nồng cháy, để hâm nóng lại lòng yêu mến Chúa, để rồi anh chị em sẽ yêu Chúa dấu yêu của mình và người yêu mình với cả đam mê và trái tim mình!

Hãy để ‘Lửa Thánh Linh’ rực cháy trong linh hồn anh chị em!

Cầu xin Chúa ban phước lành cho quý vị anh chị em và độc giả xa gần trong và ngoài nước!

*Nhớ chia sẻ – share với các bạn của mình

MS Christian Le PhD

Post Navigation