Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

Archive for the category “DƯỠNG LINH”

CHÚC MỪNG GIÁNG SINH

unnamed copy

Biết ơn Chúa không chỉ trong “Mùa Tạ ơn”

Oneway.vn – Người Việt chúng ta rất trọng ơn nghĩa, bằng chứng là trong tiếng Việt có rất nhiều từ diễn tả thái độ đáp ứng khi nhận ân huệ. “Biết ơn” là ý thức đầu tiên khi người khác “làm ơn” cho mình. Mười người phung được Chúa chữa lành có lẽ tất cả đều “biết ơn” Chúa, nhưng Kinh Thánh chép chỉ có 1 người quay trở lại “Cảm ơn” Ngài.

Biết ơn được lý trí nhắc nhở, cảm ơn là phần tình cảm; lòng biết ơn được cảm động dẫn tới cảm ơn trước nghĩa cử, tấm lòng ân nhân dành cho mình.

Ruth/Ru-tơ, một phụ nữ người ngoại hiếu thảo với mẹ chồng và kính sợ Chúa. Được Boaz/Bô-ô – một người giàu có – giúp đỡ với tất cả lòng quý trọng; biết ơn ông, Ruth hỏi: “Vì cớ duyên nào tôi được ơn trước mặt ông, đến nỗi ông đoái xem tôi vốn là một người ngoại bang?” (Ru-tơ 2:10).

Biết ơn, cảm ơn là điều tốt, nhưng chưa đủ, trong nhiều trường hợp, nhất là đối với Chúa, chúng ta cần “Nhớ ơn” và “Tạ ơn”. Trong lịch sử dân Do Thái, rất nhiều lần họ quên ơn Đức Chúa Trời, là Đấng không biết bao nhiêu lần giải cứu họ, nhất là cứu khỏi ách nô lệ của nhà Ai-cập.

Thiết nghĩ, chỉ sau khi Biết ơn, Cảm ơn và Nhớ ơn, chúng ta mới có thể “Tạ ơn” Chúa cách đúng nghĩa. Psalms/Thi-thiên 107:22 chép: “Nguyện họ dâng tế lễ tạ ơn và công bố những công việc của Ngài qua những bài ca vui vẻ”(BDM).

Của lễ thù ân (Thi-thiên 107:22a)

Sách Leviticus/Lê-vi-ký 7:11-21 chép người Do Thái thường dâng của Lễ thù ân (Cảm tạ), và Lễ Vượt qua… để tỏ lòng biết ơn Chúa. Chúng ta – con cái Ngài hôm nay – cũng rất cần như thế. Vì “Bạc là của ta, vàng là của ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy” (Haggai/A-ghê 2:8). Chúng ta nên biết ơn, cảm ơn, nhớ ơn và tạ ơn, dâng lên cho Ngài những của lễ tốt nhất, không tì vít. Vì chính Chúa ban cho chúng ta hơi thở, tài vật, sức khỏe, công ăn việc làm… Tạ ơn Chúa!

Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rô-ma 12:1). Ngoài ra, còn phải giữ cho “đền thờ Chúa” (thân thể anh em) được trong sạch, đời sống trọn lành.

Dâng lời ca ngợi (Thi-thiên 107:22b)

Đây là cách tốt nhất để tạ ơn Chúa. “Hãy cảm tạ mà vào các cửa Ngài, tôi sẽ hết lòng cảm tạ Chúa, hát ngợi khen Chúa trước mặt các thần. Tôi sẽ cảm tạ Chúa trong các hội lớn, sẽ hát ngợi khen Ngài giữa các dân đông” (Thi-thiên 35:18; 100:4 và 138:1). Khi Chúa vào thành Jerusalem, các thầy tế lễ không cho mọi người nhất là con trẻ tung hô Chúa, nhưng Chúa phán: “Nếu họ nín lặng thì đá sẽ kêu lên” (Luke/Lu-ca 19:40). Khi chúng ta tin nhận Chúa, tôn thờ Ngài là Đấng Tạo hóa, chúng ta sẽ ca tụng, tôn vinh Chúa mọi lúc, mọi nơi. Cuộc đời chúng ta là một bài ca, không thể nín lặng và cũng không ai có quyền bắt chúng ta nín lặng.

Mỗi Cơ-đốc-nhân có điều kiện, cần nghe và tôn vinh Chúa bằng Thánh ca, biệt Thánh ca… mỗi ngày. Các giai điệu, ca từ sẽ dần dà tác động đến những người chung quanh, làng xóm…  để họ đều được nghe và biết đến Chúa. Sự ca ngợi, cảm tạ còn thể hiện trên khuôn mặt, tấm lòng bình an, vui vẻ. Cảm tạ ơn lành Chúa ban, cũng cảm tạ trong hoạn nạn… Chúa không bao giờ muốn chúng ta buồn bã, khó khăn, túng thiếu. Ngài muốn chúng ta dư dật, vui mừng luôn luôn, bởi vậy: “Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn” (Philipians/Phi-líp 4:6).

Có câu chuyện vui: Hai vị Thiên sứ được Đức Chúa Trời sai xuống trần. Mỗi vị mang một chiếc giỏ trống, một đựng lời cầu xin, một đựng lời tạ ơn. Họ đi từ sáng sớm đến tối mịt. Chẳng mấy chốc giỏ của vị mang lời cầu xin đầy ắp, còn giỏ đựng lời tạ ơn nhẹ tênh!

Ông Matthew Henry – một học giả Kinh Thánh nổi tiếng ở thế kỷ 19 – lần nọ bị cướp lột sạch đồ đạc nhưng ông vẫn vui: “Tôi tạ ơn Chúa vì vụ cướp. Thứ nhất dù bị mất bóp nhưng tôi còn mạng sống. Thứ hai chúng vét sạch tiền trong bóp nhưng không lấy được tài sản. Thứ ba tôi là người bị cướp chứ không phải kẻ cướp!”

Thuật lại ân huệ Chúa ban

Thi-thiên 107:22 (BDM) chép: “Nguyện họ dâng tế lễ tạ ơn và công bố những công việc của Ngài qua những bài ca vui vẻ”. Và bản diễn ý: “Họ hãy dâng tế lễ cảm tạ, hát ca, tường thuật việc Ngài làm”. Tạ ơn Chúa là bày tỏ ra bên ngoài một cách cụ thể tấm lòng chúng ta.

Thi-thiên 66:16 chép: “Hỡi hết thảy người kính sợ Đức Chúa Trời hãy đến nghe: Tôi sẽ thuật đều Đức Chúa Trời đã làm cho linh hồn tôi”. Đây là cách chúng ta tôn cao Chúa. Cảm tạ Ngài là cách thích đáng của con người trước Thiên Chúa nhân từ. Cuộc đời chúng ta đầy tiếng thở dài hay đầy tiếng hát tùy thuộc vào chúng ta có biết tạ ơn Chúa không. Tạ ơn trong khó khăn, hoạn nạn, bách hại… Mới nghe tưởng chừng vô lý, khó thực hiện. Vì chúng ta thường dễ than phiền, trách cứ hơn tạ ơn. Làm sao có thể tạ ơn Chúa khi chính chúng ta hay người thân mình bị tai nạn, bệnh tật, chết chóc, mất việc… Cần lưu ý, chúng ta không phải tạ ơn Chúa về hoạn nạn, mà tạ ơn Ngài dù trong hoạn nạn.

Vì Chúa ở gần (Phi-líp 4:4-7)

“Hãy vui mừng trong Chúa luôn luôn (…) Chúa đã gần rồi. Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jesus Christ“. Chúa sẽ đến để mang chúng ta vào cõi đời đời phước hạnh, không còn đau khổ nữa. Đời sống ngắn ngủi, và khó khăn làm chúng ta lo sợ, mất vui… Nhưng nó không kéo dài mãi, Chúa có thể tái lâm bất cứ lúc nào, và khi Ngài đến sẽ chấm dứt mọi đau khổ.

Ta ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Matthew/Ma-thi-ơ 28:20)

Chúa luôn hiện diện mỗi phút giây trong đời sống. Ngài không bỏ chúng ta, Ngài mở cho chúng ta những cánh cửa, những con đường. Tạ ơn Chúa vì đã giúp chúng ta vượt mọi hoàn cảnh. Chúng ta tin vào sự thành tín Ngài, hoạn nạn bây giờ không thể so sánh với sự vinh hiển hầu đến. Và “mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời” (Romans/Rô-ma 8:28).

Luôn nhớ rằng: Đức Chúa Trời là Đấng tể trị mọi sự. Vì vậy, trong mùa “Thanks Giving”, mùa Tạ ơn này hãy để lòng trông cậy, vui mừng trong Chúa, đừng lo phiền chi hết. Hãy tạ ơn vì những ơn lành, phép lạ, tạ ơn Ngài giữa khó khăn đang đối diện. Đó là ý muốn của Chúa. Sống trong tinh thần tạ ơn, chúng ta làm vui lòng Chúa. Chúa luôn muốn chúng ta bình an, vui thỏa giữa thế giới bất an, đầy lo sợ này – vì chúng ta có Chúa.

“… Thật tôi có sự bình an mà trần thế không thể ban/ Cũng không ai đoạt khỏi tâm tôi rày/ Hằng nương trong Chúa muôn đời/ Jesus Chúa tôi/ Hằng nương trong Chúa muôn đời/ Thỏa vui ngọt ngào/ Christ ngày đêm luôn phán êm dịu/ Quyết ta chẳng xa ngươi/ Có Chúa bên tôi suốt đời/ Chiếc đơn đâu nào?” (Thánh ca 292 – Hằng nương trong Chúa muôn đời).

Hạnh phúc không tùy thuộc những gì chúng ta có, mà thuộc vào sự nhận biết những gì Chúa ban cho. Cùng một sự việc có thể người nầy thấy tiêu cực, than phiền, oán trách; người khác thấy tích cực, cảm tạ, vui mừng. Nhìn bó hoa người này thấy đẹp, người khác thấy sự héo úa sắp tới của nó, và buồn. Giữa thử thách, hoạn nạn thay vì chỉ thấy đau đớn, bất hạnh; bạn hãy tìm lấy ơn phước trong hoạn nạn. Lúc đó, bạn sẽ thấy ơn phước nhiều hơn bất hạnh. Khi nghe một bài giảng, bạn được dạy dỗ hay chỉ thấy những cái dở để chỉ trích, phê bình?

Một em bé trước khi đi ngủ xin mẹ kể câu chuyện “Danielle/Đa-ni-ên trong hang sư tử”. Người mẹ không muốn kể vì sợ em sợ hãi, giật mình nếu nằm mơ thấy sư tử. Nhưng cô bé đáp không đâu, con sẽ chỉ mơ thấy Danielle vui mừng, tạ ơn bước ra khỏi hang sư tử mà thôi!

______________________

Khi con tàu Mayflower mang theo 102 người Anh đầu tiên di cư đến Mỹ. Giông bão, đói rét làm 46 người chết. Thuyền trưởng nản lòng chỉ muốn quay trở về Anh quốc. Nhưng bởi đức tin, tất cả mọi người trên tàu đều muốn tiếp tục cuộc hành trình, cuối cùng thì họ cũng đặt chân được đến vùng đất tự do.

Rồi, để tiếp tục chiến đấu với thiên nhiên để sinh tồn ở vùng đất mới, họ đã hiệp nguyện, kêu cầu Chúa. Và Ngài đã lắng nghe, ban phước cho mùa màng và mọi việc tay họ làm.

Mùa thu hoạch đầu tiên năm 1621, cùng với những người bản xứ da đỏ, để tỏ lòng biết ơn Chúa, họ họp nhau lại tổ chức Lễ Tạ ơn suốt 3 ngày, với những vật thực họ nuôi trồng được như gà tây, khoai tây… Cho dù cuộc sống còn cơ cực, nhưng không gì có thể ngăn cản lòng họ biết ơn Chúa. Sau này cứ đến ngày thứ năm, tuần lễ thứ 4 của tháng 11, hầu hết người Mỹ đều tổ chức Lễ Tạ ơn – Thanks Giving – trên phạm vi toàn quốc.

_________________________

Hồ Thi Thơ

DANH CHÚA ĐƯỢC ĐỒN RA!

Oneway.vn – Trong dịp kỷ niệm 500 năm Cải chánh Giáo hội, cộng đồng Tin Lành Việt Nam đã tổ chức 2 ngày đại hội tại sân golf Rạch Chiếc – quận 2, TP.HCM. Có thể nói, nhiều điều “bất thường” đã xảy ra với những con người bình thường, dưới sự tể trị của một Đức Chúa Trời phi thường!

Bất thường và bình thường

Các Trung tâm khí tượng – thủy văn liên tục dự báo bão Damrey sẽ đổ vào miền Nam trong ngày 1/11: khu vực các tỉnh miền Trung và Nam Trung Bộ chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão.

Đêm 1/11, chương trình “Sống bởi Đức tin” – Kỷ niệm 500 năm Cải chánh Giáo hội – tổng dợt lần cuối trước khi chính thức “chạy” vào 2 & 3/11. Bầu trời “nặng dần” những giọt mưa báo bão ở sân golf Rạch Chiếc. Nhưng bởi đức tin, tập thể anh em dốc lòng cầu nguyện xin Chúa thương, ngưng mưa bão… Và Ngài đẹp lòng lời cầu xin đó: trong suốt 2 ngày diễn ra chương trình, thời tiết nắng ráo, đến nỗi báo chí phải kinh ngạc đưa tin: “Bị bão số 12 đe dọa, nhưng Sài Gòn vẫn hửng nắng, liệu có bất thường?”. Chúng ta, quý con cái Chúa đều biết rằng không bất thường chút nào vì Đức Chúa Trời của chúng ta là Đức Chúa Trời phi thường, Ngài là Đấng Tể trị và có năng quyền trên vạn vật!

Mục sư Võ Trương Gia Linh (Hội Thánh Trưởng Lão Quế Sơn) cùng đoàn Mục sư từ Quảng Nam vào tham dự chương trình chia sẻ: “Thật tuyệt vời. Chúng tôi nghe nói sắp có bão, lòng lo lắng nhưng cảm ơn Chúa đã cho thời tiết đẹp đẽ. Chương trình được tổ chức rất hoành tráng. Mong rằng nhiều con cái Chúa sẽ được đổi mới sau chương trình”.

Hiệp một trong Chúa

Bên cạnh những bài giảng luận, thuyết trình xoay quanh việc Cải chánh Giáo hội, phấn hưng Hội Thánh, tình yêu thương và sự hiệp một, chương trình còn có những “tiết mục” bất ngờ. Sau thông điệp: “Chính việc chia rẽ đã làm tổn thương Chúa kính yêu”, nhiều giọt nước mắt đã rơi. Mục sư Lâm Hữu Đức đại diện kêu gọi sự ăn năn: “Cầu xin ân điển Chúa và các Mục sư Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tha thứ cho sự phân tách. Xin Chúa Thánh Linh hàn gắn, chữa lành những rạn nứt và giúp đỡ để phát triển công việc Chúa khắp nơi”.

Một hình ảnh đặc biệt khắc sâu trong lòng mỗi người tham dự đó là hành động hạ mình, rửa chân cho nhau của đại diện các thế hệ Mục sư, với mong ước giữa các thế hệ tiền bối – hậu bối có sự hiệp nhất, phục vụ lẫn nhau.

Tín hữu tên Lisa (34 tuổi) có 6 năm sống tại Việt Nam chia sẻ: “Hình ảnh rửa chân cho nhau đẹp quá! Tôi mong ước sự khiêm nhường, tình yêu thương và hiệp một sẽ diễn ra mỗi ngày chứ không phải cảm xúc nhất thời, chóng qua. Xin Chúa thêm sức để những điều đọng lại được duy trì, lửa mãi cháy trong lòng mỗi người”.

Con cái Chúa – những người tham dự chương trình – cũng hiệp một cầu nguyện an ủi, khích lệ các Mục sư.

Đức tin và hành động

Không chỉ vậy, nhiều con cái Chúa được nhắc nhở và cam kết rao giảng Tin Lành cách mạnh mẽ sau lời kêu gọi của các vị doanh nhân trong nhóm FGB – Full Gospel Bussiness Men’s Fellowship International (Hiệp hội Doanh nhân Cơ đốc Quốc tế): công tác truyền giảng không phải của riêng các vị Mục sư, Truyền đạo, mà là của tất cả con cái Ngài.

Cô Loan (77 tuổi, Hội Thánh Liên Hiệp Truyền Giáo) nói: “Tôi thấy vui khi được ngợi khen Chúa với anh em. Qua các bài chia sẻ, tôi rõ hơn về nguồn gốc Tin Lành, về công tác cải chánh mang tính lịch sử. Tôi được khích lệ rất nhiều qua sự hiệp một của con cái Chúa và các vị lãnh đạo Hội Thánh nơi đây. Tôi còn nhận ra mình phải nói về Chúa cho nhiều người hơn, đó là sứ mạng Chúa đặt để cho tất cả con cái Ngài”.

Một hoạt động “ngoài lề” khác được hơn 400 người tham gia là hiến máu nhân đạo. “Chúng ta yêu vì Chúa đã yêu chúng ta trước” (I John/I Giăng 4:19) mà hành động cụ thể của tình yêu thương chính là chia sẻ. Với tinh thần “chia sẻ sự sống – yêu thương anh em – hành động vì cộng đồng”, con cái Chúa đã nhiệt tình đăng ký hiến máu.

Rao giảng Danh Chúa

Hai ngày lễ không chỉ để con cái Chúa cùng ngợi khen Ngài, bày tỏ tình yêu thương với nhau mà là cơ hội để rao giảng Phúc Âm. Sau 2 đêm truyền giảng với hàng trăm ngàn người tham dự tại chỗ và trực tiếp truyền hình trên các kênh truyền thông Cơ đốc; kết quả: trên 600 người tin nhận Chúa.

Nhưng đây chắc chắn là kết quả mà tất cả chúng ta mong đợi nhất: Phúc Âm của Chúa được rao giảng, đạo Chúa, Danh Chúa được “đồn” ra, nhiều người biết đến Ngài và kinh nghiệm quyền năng Ngài qua việc “Sống bởi đức tin”.

Tin: Linh Ân; Ảnh: Phi Long

(*): II Thessalonians/II Tê-sa-lô-ni-ca 3:1: “Vả lại, hỡi anh em, hãy cầu nguyện cho chúng tôi, hầu cho đạo Chúa được đồn ra và được sáng danh, như thể ở trong anh em vậy”.

Nguồn Oneway.vn

AI Ở BÊN CHÚA?

Xuất hành 32:25-29: ” Khi Môi-se thấy dân chúng buông tuồng, vì A-rôn đã để họ buông tuồng, đến nỗi thành trò cười trước mặt kẻ thù,  thì ông đứng tại cổng trại quân và nói: “Ai thuộc về Đức Giê-hô-va, hãy đến với ta!” Tất cả các con trai Lê-vi đều tụ họp quanh ông.  Ông nói với họ: “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã truyền rằng mỗi người trong anh em hãy đeo gươm bên mình, đi qua đi lại khắp trại quân, từ cửa nầy đến cửa kia, và mỗi người hãy giết anh em, bạn hữu, và kẻ lân cận mình.”  Các con trai Lê-vi làm đúng theo lời Môi-se; trong ngày đó có khoảng ba nghìn người trong dân chúng bị giết chết.  Môi-se nói: “Hôm nay chính anh em đã tự cung hiến cho Đức Giê-hô-va con trai hay anh em mình,(n) nên ngày nay Ngài ban phước cho anh em”.

Trong Xuất Ê-díp-tô 32, chúng ta đọc một câu chuyện rất đáng lo ngại. Môi-se rời khỏi dân chúng và đi lên núi để ở với Đức Chúa Trời. Không lâu sau đó, dân chúng đến với A-rôn, anh của Môi-se, thầy tế lễ, người đứng đầu tôn giáo, và họ yêu cầu ông ta ban cho họ một thần tượng để thờ phượng, vì Môi-se dường như đã đi mất và sẽ không trở lại. Thay vì đứng trên lập trường của mình, A-rôn xoa dịu người dân và ban cho họ những gì họ muốn. Ông ta thu gom vàng vòng và từ đống vàng đó ông tạo ra một con bê, vị thần được thờ cúng ở Ai Cập, rồi dân chúng đã sa ngã và thờ cúng con bê này khi họ tuyên bố uy tín cho vị thần giả tạo này là đấng đã đem họ ra khỏi Ai Cập. Vì dân chúng hô la: “Hỡi Y-sơ-ra-ên! Đây là thần của ngươi, thần đã đem ngươi ra khỏi đất Ai Cập” (Xuất 32: 4).

Chúng ta đang sống trong thời kì khi sự hiện diện của Chúa đã rời khỏi các cuộc nhóm họp, các cuộc hội đồng của chúng ta, và các hội thánh của chúng ta tất cả. Dân chúng đã đến với các nhà lãnh đạo tôn giáo và yêu cầu họ bỏ qua tội ly hôn. Họ đã yêu cầu các tổng quản nhiệm hội thánh chấp nhân người chuyển đổi giới tính. Họ đã yêu cầu các lãnh đạo chấp nhận hôn nhân đồng tính. Người ta yêu cầu các nhà lãnh đạo tôn giáo hợp pháp hóa mọi hình thức tội lỗi mà một người có thể tưởng tượng được. Và một khi họ được chấp thuận, người dân đã đứng lên và phạm tà dâm thuộc linh với các vị thần khác trong khi Vua của các vị vua bị bỏ xó ra phía sau hậu trường và chỉ còn một khẩu hiệu dành cho Ngài.

Bây giờ, khi Môi-se trở lại và đương đầu với A-rôn, hãy lắng nghe lời A-rôn nói dối quanh co với Môi-se. “Tôi nói với họ rằng: ‘Ai có vàng hãy lột ra!’ Họ đưa cho tôi, tôi ném vào lửa và thành ra bò con nầy”–nghĩa đen: “tôi ném vàng vào lửa và con bê nhảy ra từ đó” (Xuất 32:24).  A-rôn đã không chỉ bỏ qua hoàn toàn vai trò của mình trong vụ việc nầy bằng cách đổ lỗi cho dân chúng, miệng ông còn nói dối. Ông nói rằng ông ném tất cả vàng đã thu thập được vào lửa, và vỗ tay ‘bốp’ một cái, như thể bằng phép thuật, một con bê vàng nhảy ra. Tuy nhiên từ các câu trước, chúng ta biết rằng điều này tất nhiên không phải như vậy.

Mọi người bèn lột những bông tai bằng vàng của mình, đem cho A-rôn. Ðoạn, ông tiếp nhận vòng vàng từ tay của họ, tạo hình con bê bằng dụng cụ chạm trổ, sau đó ông đã làm thành một con bò đúc. Dân chúng nói rằng: “Hỡi Y-sơ-ra-ên! Đây là thần của ngươi, thần đã đem ngươi ra khỏi đất Ai Cập ” (Xuất – 32: 3-4).

Bạn thấy không? Ông đã tạo ra thần tượng bằng một cái khuôn đúc chạm trổ của mình. Ông có tài năng rất đặc biệt tạo ra chính vị thần mà đã giải phóng họ, vị thần mà người Ai-cập đã tôn thờ và dưới cái tên của vị thần nầy mà họ đã bị nô lệ hóa và đối xử tàn nhẫn trong hàng trăm năm trước. Họ đã ngã ngửa vào ách nô lệ. Khi Môi Se nhận thấy họ là những người trần truồng đang nhảy múa, họ đã từng dính líu vào tất cả các tội lỗi tình dục khi họ đã ném bỏ mọi kiềm chế của một Đức Chúa Trời thánh khiết.

Bây giờ, các nhà lãnh đạo tôn giáo của nhiều giáo phái ngày nay đã vứt bỏ mọi sự kiềm chế. Trên toàn thế giới, chúng ta thấy các giáo phái ôm lấy lối sống tình dục tội lỗi, vì cùng một lý do đó mà A-rôn đã làm con bê vàng.- “Sáng hôm sau dân chúng thức dậy sớm, dâng các tế lễ thiêu và tế lễ bình an. Họ ngồi xuống ăn uống, rồi đứng dậy đùa bỡn” (Xuất 32: 6). A-rôn sợ dân chúng. Ông ấy không phải là một nhà lãnh đạo gì cả, Môi-se mới là người lãnh đạo. A-rôn sợ rằng người dân sẽ từ chối ông ta hoặc giết ông ta, nên ông ta không chỉ ban cho họ những gì họ muốn, chính ông ta đã tạo ra những vị thần mà mọi người đang cúi đầu xuống thờ lạy và đứng lên đùa bởn vui chơi trong danh của thần đó.

Các anh chị em ơi, các bạn sống trong một tổ chức do các nhà lãnh đạo tôn giáo điều hành, những người đã đầu hàng trước dân chúng ồn ào và đê tiện nhất phải không? Bạn sẽ tham gia vào tội lỗi của họ phải không? Chúng ta biết từ việc đọc Kinh thánh của chúng ta rằng không phải tất cả mọi người Y-sơ-ra-ên lúc ấy đều đã đắm chìm trong cuộc nổi loạn này. Trong câu 26, Môi-se kêu gọi dân chúng “Ai thuộc về Đức Giê-hô-va, hãy đến với ta!”- Câu hỏi cho Cơ Đốc giáo giới ngày hôm nay cũng có liên quan câu “Ai thuộc về Đức Giê-hô-va?”- “Ai đứng về phía Chúa?”- Bạn sẽ được người khác tìm thấy đứng bên Chúa và Lời của Ngài hay bạn sẽ được tín đồ tìm thấy bạn đã sa ngã và trần truồng trước mặt con bê vàng? Cuộc nổi dậy mà chúng ta thấy trong trại quân Cơ Đốc hôm nay trên toàn thế giới là nghiêm trọng nếu không nói là nghiêm trọng hơn những gì chúng ta đọc trong tài liệu thánh kinh ở đây, trong Xuất Ê-díp-tô Ký 32. Có một thời gian, khi bạn phải tự đứng vững, bạn phải quyết định xem hoặc bạn sẽ theo dân chúng và những gì có vẻ là đúng trong con mắt họ hoặc bạn sẽ theo Chúa và Lời của Ngài, ngay cả khi nó có nghĩa là bạn sẽ bị thế giới tôn giáo Cơ Đốc khinh thị và chối bỏ. Như Môi-se đã học được một thời gian dài trước khi thấy tốt hơn “thà cùng con dân Đức Chúa Trời chịu hà hiếp hơn là hưởng thụ lạc thú chóng qua của tội lỗi” (Hê-bơ-rơ 11:26)

THỂ HIỆN LÒNG BIẾT ƠN

Nhà bác học Albert Einstein nói rằng: “Trên đời nầy chỉ có hai quan niệm sống. Quan niệm thứ nhất là không tin có phép lạ; quan niệm thứ nhì là xem mọi sự đến với mình như một phép lạ.”

Albert Einstein tin rằng có một Đức Chúa Trời. Ngài đang cai quản cả vũ trụ nầy, muôn loài vạn vật trong đó có con người chúng ta. Mọi sự xảy ra trên đời nầy không phải là tình cờ, may rủi mà có sự tể trị của Đức Chúa Trời. Là loài thọ tạo của Đức Chúa Trời, chúng ta cần nhận biết Ngài và luôn cám ơn Ngài về mọi phước lành Ngài ban cho chúng ta. Ngay cả lúc chúng ta lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bế tắc, chúng ta nên dâng lên Chúa lời cầu nguyện, để Chúa giúp chúng ta vượt qua những khó khăn đó.

Daniel, người Do Thái, là cố vấn tối cao cho bốn vị hoàng đế qua các triều đại của đế quốc Mê đi Ba Tư. Ông được cả bốn hoàng đế đó trọng dụng. Một đêm kia Daniel cầu nguyện với cả lòng tri ân đến Đức Chúa Trời: “Đáng ca ngợi Danh Chúa đời đời mãi mãi, vì khôn ngoan và sức mạnh đều thuộc về Ngài! Chúa thay đổi thời kỳ, mùa tiết. Chúa phế lập các vua và lãnh tụ các nước. Chúa ban sự khôn ngoan cho người tìm kiếm Chúa và tỏ tri thức cho người có trí hiểu. Chúa tiết lộ những điều sâu xa, huyền nhiệm. Chúa thấy suốt cõi tối tăm dày đặc, và Chúa là Nguồn Sáng muôn đời. Thưa Chúa, là Chân Thần của tổ phụ con, con cảm tạ và ca ngợi Chúa vì Ngài đã ban cho con đủ khôn ngoan và nghị lực, và tiết lộ cho con biết điều con cầu xin, tức là giấc mộng bí mật của nhà vua” (Đa-ni-ên 2:20-23).

Vào một ngày lễ Tạ Ơn của nước Mỹ, Tổng Thống George W. Bush đã nói rằng: “Tất cả chúng ta trên khắp nước Mỹ trong tuần này đoàn tụ với những người mà chúng ta yêu mến để cảm tạ Đức Chúa Trời về những phước lành của Ngài đến với cuộc sống chúng ta.”

Biết ơn không những là đức hạnh cao quý của con người mà còn là hạnh phước của Đức Chúa Trời dành cho con người như lời của Frank A. Clark, “Nếu một người không biết ơn những gì anh ta đang có, thì anh ta cũng sẽ không có cơ hội để tỏ lòng biết ơn về những gì sẽ nhận được.”

Lòng biết ơn sẽ giúp những ai đang nằm trên giường bệnh sớm được lành bệnh. Những bệnh nhân đó sẽ sớm khỏe hơn nhờ thái độ biết ơn của họ. Bệnh nhân nào càng trân trọng sự chăm sóc chữa trị của các y tá bác sĩ, người ấy càng sớm mạnh khỏe trở lại. Và ngược lại, các nhân viên trong bệnh viện cũng sẽ luôn nhớ tới bệnh nhân đó.

Lòng biết ơn sẽ giúp cho tinh thần chúng ta càng mạnh mẽ hơn. Quý vị có cảm ơn Đức Chúa Trời đã tạo ra hình hài và thể xác mình, ban cho mình sự sống hiện nay, ban cho mình có gia đình, có những người thân chung quanh. Quý vị có cám ơn Đức Chúa Trời đã ban cho mình sự yên bình và sung túc thoải mái không? Trong khi có hàng triệu người trên thế giới muốn như quý vị mà không được. Họ phải sống bất an, phập phồng trong chiến tranh hay bị đói nghèo.

Khi quý vị cảm thấy mình luôn được Đức Chúa Trời yêu thương chăm sóc, quý vị sẽ sống một đời sống thoải mái, ngập tràn yêu thương! Lòng biết ơn của quý vị chính là thỏi nam châm kỳ diệu mang về cho quý vị những món quà tốt đẹp nhất trong đời.

Các nghiên cứu cho thấy rằng một khi chúng ta viết lên những trang giấy để bày tỏ lòng biết ơn Trời, biết ơn người khác, chúng ta sẽ thấy đời sống mình ý nghĩa hơn! Lòng biết ơn cũng sẽ giúp chúng nuôi dưỡng tình yêu, chấp nhận, tha thứ, vị tha, và rộng lượng như lời của Marcus Tullius Cicero, “Lòng biết ơn không chỉ là đức tính vĩ đại nhất mà còn là khởi nguồn của mọi đức tính tốt đẹp khác.”

Thánh Kinh dạy:

“Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của các thần, vì sự nhân từ Ngài còn đến đời đời. Hãy cảm tạ Chúa của muôn chúa; Vì sự nhân từ Ngài còn đến đời đời” (Thi Thiên 136:2-3). 

Loài người phải luôn cảm tạ ơn Trời, vì Ngài chẳng những là Đấng Tạo Hóa, tạo ra loài người chúng ta, mà Ngài còn là Đức Chúa Trời cao cả, Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa, chủ tể hoàn vũ, đầy sự từ. Sự nhân từ của Ngài không bao giờ cạn kiệt.

Triết gia Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta rằng: “Đức Chúa Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì cớ lòng yêu thương lớn Ngài đem mà yêu chúng ta” (Ê-phê-sô 2:4).

Có một thanh niên đến với mục sư. Trên trang phục của anh ta từ nón đội đầu đến quần áo, đâu đâu cũng có viết chữ ‘yêu thương.’ Trên chiếc áo khoác phía trước và phía sau của anh cũng có chữ yêu thương. Nhìn xuống đôi giày anh mang mục sư cũng thấy có chữ yêu thương, Mục sư hỏi: “Tại sao cậu viết chữ yêu thương khắp cả người cậu vậy?” Anh ta trả lời: “Thưa mục sư! Bởi vì Đức Chúa Trời là tình yêu thương.” Mục sư nói: “Tôi đồng ý với cậu điều đó.” Chàng thanh niên thích chí nói: “Đức Chúa Trời cứu chúng ta bởi tình yêu thương.” Mục sư lắc đầu nói: “Cậu ơi! Đành rằng Thánh Kinh nói rõ Đức Chúa Trời chính là tình yêu thương. Nhưng Ngài không cứu loài người chúng ta bởi tình yêu thương! Nếu lời nói cậu là đúng xin cậu hãy cho tôi câu Kinh Thánh nào nói như thế?” Chàng thanh niên lấy cái nón xuống suy nghĩ một lúc, rồi thừa nhận rằng anh không tìm được câu nào trong Thánh Kinh! Sau đó anh hỏi tiếp: “Thưa mục sư! Nếu Đức Chúa Trời không cứu chúng ta bởi tình yêu thương, Ngài cứu bằng cách nào?” Mục sư đáp: “Tôi rất vui khi cậu hỏi tôi câu hỏi nầy, bởi vì Kinh Thánh chép: “Nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Ê-phê-sô 2:8-9). Cậu ơi! Câu Thánh Kinh nầy chỉ cho ta thấy Đức Chúa Trời cứu rỗi chúng ta bởi ân điển. Đến đây chàng thanh niên nầy, dầu hiểu lời Thánh Kinh nhưng anh ta vẫn chưa thấy thỏa mãn, anh xin mục sư giải thích sự khác biệt giữa hành động cứu rỗi của Chúa bởi ân điển và hành động cứu rỗi của Chúa bởi tình yêu.

Mục sư giải thích: “Cậu ơi! Xin cậu đừng quên Đức Chúa Trời là tình yêu. Vì thương yêu tất cả loài người chúng ta mà Chúa Cứu Thế Jesus phải giáng trần. Nhưng Đức Chúa Trời không cứu rỗi chúng ta bởi tình thương của Ngài. Thánh Kinh cho ta biết Đức Chúa Trời là sự sáng, là Đấng quản trị muôn loài với khuôn mẫu đạo đức thánh thiện của Ngài. Đức Chúa Trời có hai bản tính, vừa là công minh thánh khiết vừa là nhân từ. Đức Chúa Trời không làm điều gì sai trật theo tiêu chuẩn của Ngài. Vì thế Đức Chúa Trời không thể vì yêu loài người chúng ta mà bỏ qua bản tính thánh thiện công chính của Ngài. Vì Thánh Kinh nói rõ: “Nầy, mọi linh hồn đều thuộc về Ta; linh hồn của cha cũng như linh hồn của con, đều thuộc về Ta; linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết” (Ê-xê-chi-ên 18:4). 

Chiếu theo luật công bình nầy hễ người nào phạm tội đều phải chịu án chết. Để thỏa mãn bản chất vừa công chính vừa yêu thương của Đức Chúa Trời, Chúa Cứu Thế Jesus là Đức Chúa Trời ngôi hai đã hạ trần, mang thân xác con người, là Đấng Công Bình chết thay cho kẻ không công bình, Ngài đến để chết thế tội lỗi chúng ta, Thánh Kinh chép: “Đang khi chúng ta bó tay tuyệt vọng, Chúa Cứu Thế đã đến đúng lúc để chết thay cho chúng ta, là người tội lỗi, xấu xa. Thông thường, ít thấy ai chịu chết cho người công chính, hiền lương, nhưng dù sao, nghĩa cử ấy còn có thể xảy ra. Nhưng Đức Chúa Trời đã chứng tỏ tình yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi Chúa Cứu Thế chịu chết thay chúng ta là người tội lỗi. Trước là người tội lỗi, ta còn nhờ huyết Chúa mà được tha thứ, nay ta sạch tội rồi, hẳn Ngài sẽ cứu ta khỏi hình phạt khủng khiếp Đức Chúa Trời dành cho thế gian” (Rô-ma 5:5-9). Chúa Jesus cũng phán rằng: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Giăng 3:16). 

Thưa quý vị, Đức Chúa Trời cứu loài người chúng ta bởi ân điển, phát xuất từ tình yêu vô điều kiện của Ngài, để tất cả những người tin nhận Chúa Cứu Thế Jesus đều không bị hư vong nhưng được sự sống vĩnh cửu.

Quý vị và tôi đang đi đến chỗ hư mất. Dầu Đức Chúa Trời vẫn yêu chúng ta, nhưng Ngài không đem chúng ta vào thiên đàng vì con người đã phạm tội. Ngài đã ban cho chúng ta ân điển. Ân điển là ân sủng, là tặng phẩm vô giá ban cho người không xứng đáng. Tặng phẩm ấy chính là sự hy sinh của Chúa Cứu Thế Jesus mang án thay cho chúng ta trên cây thập tự.

Vì thế Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta là hãy mau tin nhận Chúa Cứu Thế Jesus, Đấng đã chết thay cho loài người, để được cứu. Đó là thâm ơn, đó là hồng ân mà con người không cách chi báo đáp. Tuy vậy điều mà chúng ta có thể làm để biết ơn Ngài là:

(1) Tiếp nhận ơn cứu rỗi của Chúa. Chúa sẽ vui nhất khi chúng ta quay về với người cha nhân từ. Trở lại với Đức Chúa Trời, tin nhận Chúa Cứu Thế Jesus, đó là sự thể hiện lòng tri ơn cao quý nhất.

(2) Tiếp tục thờ phượng Chúa và học hỏi lời của Ngài trong Thánh Kinh. Sau khi tiếp nhận Chúa Jesus vào đời sống, làm Đấng Cứu Chuộc mình, là Chủ đời sống mình, quý vị hãy đến với một Hội Thánh Tin Lành địa phương để cùng thờ phượng Chúa và học hỏi lời của Ngài. Thánh Kinh dạy:

“Hãy qua cổng Đền với lời cảm tạ, 
Vào sân Đền với tiếng ngợi ca, 
Cảm tạ tôn vinh Danh Đấng Cao Cả. 
Vì Chúa Hằng Hữu toàn thiện, 
Đức bác ái Ngài bất biến, 
Đức thành tín Ngài tồn tại, 
Đời đời, mãi mãi” (Thi Thiên 100:4-5). 

(3) Thuật lại cho thân nhân bạn hữu hay những người mình tiếp xúc về những việc lớn lao mà Chúa đã làm cho mình. Câu chuyện về một người bị tà ma ám được ghi trong Kinh Thánh. Anh ta thường sống tại nơi mồ mả, dẫu nhiều lần bị xiềng cột trói tay chân, nhưng lần nào anh cũng bẻ xiềng, tháo cùm, không ai có sức trị được! Suốt ngày đêm, anh lang thang giữa nghĩa trang, trên đồi núi, kêu la và lấy đá nhọn rạch mình. Khi gặp Chúa Jesus anh nhận được sư chữa lành của Chúa, đời sống anh được thay đổi. Chúa đuổi tà ma ra khỏi anh. Anh vô cùng biết ơn Chúa. Anh tha thiết muốn theo ở với Chúa, nhưng Chúa bảo anh ta hãy về thuật lại cho người xung quanh việc lạ lùng và lòng thương xót của Chúa trên đời sống anh. Anh vâng lời Chúa, đi khắp vùng Mười thành phố, kể lại những việc lớn lao Chúa Jesus đã làm cho mình. Mọi người nghe chuyện đều kinh ngạc. Sau đó Chúa Cứu Thế Jesus vượt biển trở lại thành phố của anh, dân chúng đã tụ họp chờ đợi Ngài, khi Chúa đến, họ bao quanh Ngài thật đông.

Chúa yêu quý vị, Ngài đã giáng trần vì quý vị, Ngài đã hy sinh tánh mạng thế tội cho quý vị, Nước Thiên Đàng của Ngài đã mở ra cho quý vị. Rất mong quý vị dâng lên Chúa lời cảm tạ, tri ân và thể hiện lòng biết ơn bằng cách mở lòng ra tiếp nhận Chúa Cửu Thế Jesus, hết lòng thờ phượng, tôn ngợi Chúa, thuật lại cho người khác biết những điều kỳ diệu Chúa đã làm cho mình và nhất là sống bằng một đời sống tạ ơn Chúa.

Kính chào quý vị và các bạn.

Tác giả khách: MS Tiến sĩ Ngô Minh Quan DMin

Tiến sĩ Ngô Minh Quang hiện là Mục sư quản nhiệm tại Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại Springvale. Mục sư cũng là Hội Trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại Úc.

PHẨM CHẤT NGƯỜI LÃNH ĐẠO TÂM LINH

Lãnh đạo là gây ảnh hưởng, là khả năng của một người gây ảnh hưởng để những người khác đi theo sự lãnh đạo của mình. Những nhà lãnh đạo nổi tiếng luôn luôn biết rõ điều nầy.

Nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại Bernard Montgomery đã nói về sự lãnh đạo bằng những lời sau đây: “Lãnh đạo là khả năng và ý chí tập hợp mọi người, nam cũng như nữ, nhằm vào một mục đích chung và gây được niềm tin tưởng của họ.” Một gương mẫu tuyệt vời về lời tuyên bố nầy là Sir Winston Churchill, nhà lãnh đạo Anh quốc trong Thế Chiến Thứ 2.

Có lần tướng Charles Gordon đã hỏi ông Li Hung Chang, một nhà lãnh đạo Trung Hoa, hai câu hỏi: “Lãnh đạo là gì? Loài người được chia ra như thế nào? Li Hung đã trả lời: “Chỉ có ba hạng người – những người không thể lay chuyển, những người có thể lay chuyển và những người lay chuyển họ!”

Ông John R. Mott, một nhà lãnh đạo có tầm cỡ thế giới giữa vòng các sinh viên, tin rằng: “Một nhà lãnh đạo là một người biết rõ đường đi, là người đi đầu và là người lôi kéo người khác đi theo mình.”

Ông P.T. Chandapilla, một nhà lãnh đạo sinh viên Ấn Độ, đã định nghĩa về lãnh đạo Cơ đốc như là một chức nghiệp kết hợp cả phẩm chất nhân loại và thiên thượng trong chức vụ hầu việc Chúa và dân sự của Ngài nhằm đem phước hạnh đến cho người khác.

Tuy nhiên, sự lãnh đạo thuộc linh vượt trỗi hơn khả năng của nhân cách và tất cả các tài năng thiên nhiên khác. Nhân cách của nhà lãnh đạo thuộc linh gây ảnh hưởng đến người khác là vì nó được phản chiếu, được thâm nhập, được ban quyền năng bởi Đức Thánh Linh. Khi nhà lãnh đạo dâng quyền kiểm soát đời sống mình cho Đức Thánh Linh, thì quyền phép Đức Thánh Linh sẽ tuôn tràn qua người đó đến với những người khác.

Chúng ta chỉ có thể lãnh đạo người khác đến nơi mà mình có thể đến được. Chỉ vạch hướng đi cho người ta thì không đủ. Nếu chúng ta không bước đi, thì không ai có thể đi theo và chúng ta không lãnh đạo được ai cả.

Người không có khiếu lãnh đạo thuộc thể không thể trở nên những nhà lãnh đạo lớn ngay lúc họ trở lại cùng Chúa. Thế nhưng một cuộc nghiên cứu về lịch sử Hội Thánh cho thấy rằng đôi khi Đức Thánh Linh ban ân tứ và những phẩm chất tiềm ẩn trước. Khi sự việc xảy ra, một nhà lãnh đạo xuất hiện liền. Học giả A.W. Tozer đã viết :

Một nhà lãnh đạo thật và an toàn có thể là một người không muốn lãnh đạo, nhưng bị ràng buộc vào một địa vị nào đó bởi sự thúc đẩy của Đức Thánh Linh bên trong và sự thúc đẩy của hoàn cảnh… Từ thời Phaolô cho đến nay, khó có được một nhà lãnh đạo lớn nếu không có Đức Thánh Linh ràng buộc và mệnh lệnh Chúa giao để người ấy hoàn thành một chức vụ mà người ấy rất ít muốn làm. Một người có tham vọng để lãnh đạo thì không đủ phẩm chất làm một nhà lãnh đạo. Một nhà lãnh đạo thực sự không muốn cai trị trên di sản của Đức Chúa Trời, nhưng sẽ khiêm nhường, mềm mại, hi sinh và sẵn sàng vâng phục khi Đức Thánh Linh chọn một người khác để lãnh đạo.

Có lần Thánh Francis ở Assisi đối diện với một người anh em, người ấy lặp đi lặp lại, “Tại sao lại là anh? Tại sao lại là anh?”

Francis trả lời, theo lối nói ngày nay, “Tại sao cái gì.” Người anh em đó trả lời: “Tại sao mọi người đều muốn gặp anh? Nghe anh? Vâng lời anh? Anh không đẹp trai, không học thức, không xuất thân từ gia đình quí phái. Thế mà cả thiên hạ dường như muốn theo anh.”

Francis ngước mặt lên trời, quì xuống ngợi khen Đức Chúa Trời và quay qua người đang chất vấn:

Bạn có muốn biết không ? Đó là vì con mắt của Đấng Chí Cao đã muốn như vậy. Ngài tiếp tục xem xét cả người lành lẫn kẻ dữ, và khi đôi mắt cực thánh của Ngài không tìm thấy giữa vòng những tội nhân người nào nhỏ bé hơn, bất toàn hơn, tội lỗi hơn nên Ngài đã chọn tôi để hoàn thành công tác lớn lao mà Ngài đang thực hiện; Ngài đã chọn tôi vì Ngài không thể tìm được người nào vô dụng hơn và Ngài muốn làm bối rối ngạc nhiên cho giới quyền quí, cao sang, người mạnh mẽ, người đẹp đẽ và người học thức ở thế gian nầy.

Tướng Montgomery đã lược kê ra bảy phẩm chất của một nhà lãnh đạo quân sự và mỗi phẩm chất đều tương ứng với phẩm chất người lãnh đạo trong cuộc chiến tâm linh: (1) Không sa lầy vào chi tiết. (2) Không nhỏ mọn lặt vặt. (3) Không vênh váo khoa trương. (4) Biết chọn người đặt đúng nhiệm vụ. (5) Tin tưởng người khác làm được việc không cần người lãnh đạo can thiệp vào. (6) Có khả năng đưa ra những quyết định rõ rang. (7) Khêu gợi được sự tin tưởng.

Khi ngọn lửa nhiệt thành của Hội Thánh đầu tiên bắt đầu thu hút những người qui đạo với mức độ phi thường, Đức Thánh Linh đã dạy một bài học kỳ diệu về sự lãnh đạo. Hội Thánh có rất ít người lãnh đạo để chăm lo cho tất cả các nhu cầu, nhất là giữa vòng những người nghèo và những góa phụ. Một đội ngũ các nhà lãnh đạo đang có cần. “Vậy anh em hãy chọn trong bọn mình bảy người có danh tốt, đầy dẫy Đức Thánh Linh và trí khôn, rồi chúng ta sẽ giao việc nầy cho họ” (Công vụ 6:3).

Những nhà lãnh đạo mới nầy trước hết và trên hết phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. Sự thuộc linh không dễ để định nghĩa, nhưng bạn có thể nói đến khi thấy sự hiện diện của nó. Đó là mùi hương thơm trong khu vườn của

Chúa, là quyền năng thay đổi bầu không khí xung quanh bạn, là ảnh hưởng khiến cho Đấng Christ trở nên thực tế cho những người khác.

Nếu những chấp sự mà được đòi hỏi phải đầy dẫy Thánh Linh thì lẽ nào những người giảng dạy Lời Đức Chúa Trời lại kém thiếu sao? Những mục tiêu thuộc linh chỉ có thể thành đạt được bởi những con người tâm linh biết sử dụng những phương pháp tâm linh. Những Hội Thánh và những cơ quan truyền giáo của chúng ta sẽ thay đổi biết bao nếu những người lãnh đạo đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh! Tâm trí và tấm lòng thế tục, dù có tài năng và nhân cách đáng yêu bao nhiêu, vẫn không có chỗ đứng trong vai trò lãnh đạo Hội Thánh.

Tác giả: J. OSWALD SANDERS

Nguồn: http://vuottuongluaonline.com/2016/09/25/suy-gam-doi-song-pham-chat-nguoi-lanh-dao-thuoc-linh-j-oswald-sanders/

MS Christian Le PhD
Chủ biên/Sáng lập viên
SỨ ĐIỆP CỦA SỰ SỐNG

AW TOZER NHÀ TIÊN TRI CỦA THẾ KỶ 20

A_W_Tozer

Là một vinh dự lớn khi được MS Giáo sĩ Reginald Reimer (là tác giả cuốn sách Vietnam Christians: A Century of Growth in Adversity đang được dịch ra tiếng Việt) giới thiệu tôi đến trường thần học C&MA Christian & Missionary Alliance ở Canberra nhiều năm trước đây. Vì nhờ được đạo tạo ở trường này mà tôi đã quen thuộc với tác giả A.W. Tozer. Tôi cám ơn Chúa vì những năm tháng được đào luyện theo học trường này tôi được một số mục sư và giáo sư uyên thâm kể về MS Tozer mà đã ảnh hưởng đời sống tâm linh theo Chúa của họ một cách sâu sắc. Tôi biết ơn Chúa và những giáo sư đã dạy dỗ tôi những lời vàng thước ngọc của Thánh Kinh… TS Spencer Sutherland, TS Dale Herendeen, TS John Dahms, MS Don Kenyon, MS Jack Shannon, MS John Soper, MS Jack Revelle, và những giảng sư khách khác như TS Ravi Zacharias, TS René Padilla, TS David Millikan ngay cả những tác giả danh tiếng đã gián tiếp dạy dỗ tôi về Lời Chúa qua sách vỡ của họ. – MS Christian Le PhD

Xin mời quý vị và các bạn đọc bài viết về MS A.W. Tozer do Anh Châu nghiên cứu và soạn thảo để được truyền cảm, khích lệ, và phản ánh một cuộc đời đẹp, một cuộc đời sống đẹp lòng Đức Chúa Trời.

Aiden Wilson Tozer hay thường được gọi là A.W. Tozer sanh ngày 21 tháng Tư, 1897 và mất vào ngày 12 tháng Năm 1963, là một mục sư người Mỹ, tác giả của hơn 40 cuốn sách, chủ bút của một tờ tuần báo Tin Lành, thường là diễn giả tại các hội nghị Cơ Đốc, và là nhà cố vấn thuộc linh.

Lớn lên trong một nông trại nhỏ ở miền Tây của tiểu bang Pennsylvania, ông tiếp nhận Chúa khi vào lứa tuổi thanh niên ở Akron, Ohio. Trên con đường trở về nhà sau khi đi làm việc ở công ty bán vỏ xe GoodYear, ông nghe loáng thoáng câu nói của một ông mục sư dạo đường rằng: “Nếu bạn không biết làm thế nào để được cứu…chỉ cần kêu lên với Chúa.” Khi trở về nhà, ông leo lên cái thang nhỏ, lên gác mái nhà, và làm theo lời kêu gọi của ông mục sư đó. Và đó là lúc bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm đeo đuổi Đức Chúa Trời của ông.

Năm 1919, năm năm sau ngày ông chính thức tiếp nhận Chúa, và mặc dầu không có theo đuổi một nền học vấn từ một trường thần học thuần túy, Tozer chấp nhận làm mục sư cho một nhà thờ. Và đây là bước tiến cho 44 năm trong chức vụ hầu việc Chúa của ông, liên kết với giáo phái Christian and Missionary Alliance, một giáo phái hướng về việc truyền giáo; trong 33 năm ông đã mục sư cho một số nhà thờ. Chức vụ đầu tiên của ông là mục sư cho một nhà thờ nhỏ trong một cửa hàng ở Nutter Port, Virginia. Tozer cũng là mục sư trong suốt 30 năm ở nhà thờ South Side Alliance, ở Chicago (1928 – 1959), nơi đó có hàng trăm sinh viên từ những nơi xa đến nghe Tozer giảng và có thêm hàng ngàn người nghe ông giảng trên đài phát thanh WMBI. Những năm cuối cùng của cuộc đời ông, ông là mục sư cho nhà thờ Avenue Road ở Toronto, Gia Nã Đại. Từ khi mới tin nhận Chúa cho đến khi ông qua đời, Tozer luôn theo đuổi mối đam mê: Biết Chúa và làm cho Ngài được nhiều biết đến, dầu phải trả bất cứ giá nào. Cái giá mà ông phải trả là sự cô đơn, bị bè bạn chê trách, những ông mục sư có đầu óc trần tục đương thời. Khi quan sát đời sống của tín đồ thời nay, ông nhận thấy hội thánh ngày hôm nay đang tiến trên con đường hiểm họa trong việc thỏa hiệp với những điều mà thế giới trần tục đang làm.

Năm 1950, Tozer được trao cho bằng tiến sĩ danh dự từ Đại học Wheaton. Vào tháng Năm 1950, Tozer được đắc cử làm chủ bút tờ Tuần Báo Alliance Weekly sau này trở thành tờ tạp chí Alliance Life. Trong bài bình luận đầu tiên cho tuần báo, ngày 3 tháng Sáu, năm 1950, ông viết “Phải trả một cái giá nào đó khi tiến bước một cách chậm chạp trong cuộc hành trình của cuộc đời, đang khi thiên hạ hâm hở lăng xả vào biến chuyển mù mờ khó hiểu đang diễn ra. Nhưng trên con đường lâu dài phải trả giá đó, người tín đồ chân thật không lấy làm thích thú với bất cứ điều gì kém hơn.” Năm 1952, ông được lãnh bằng tiến sĩ văn chương LLD từ Hougton College.

Trong số hơn 40 cuốn sách ông là tác giả, có hai cuốn được nổi bật nhất “The Pursuit of God và cuốn “The Knowledge of the Holy.” Những tác phẩm của ông gây trong lòng người đọc một sự thúc đẩy về sự cần thiết để có một mối liên hệ mật thiết sâu xa với Chúa.

Sống một đời sống bình dị và hoàn toàn không theo đuổi vật chất, ông và bà vợ, Ada Cecelia Pfautz, không có một chiếc xe, thường đi xe buýt và du hành bằng xe lửa. Ngay sau khi trở thành một tác giá Cơ Đốc nỗi tiếng, Tozer cũng từ chối việc dùng tiền thù lao của việc viết sách cho cá nhân ông, thay vào đó ông dâng hiến tiền thu lao đó vào những công việc hữu ích khác hay cho những ai có nhu cầu có cần.

Cầu nguyện là một việc tối quan trọng trong đời sống riêng tư của Tozer. Người ta thường thấy ông lẫn thẩn trong những hàng ghế của ngôi giáo đường hay nằm dài mặt cuối xuống trên sàn nhà. Ông ghi lại rằng, “As a man prays, so is he.” (Khi một người cầu nguyện, người đó bộc lộ.) Theo Tozer, thờ phượng Chúa là một việc tối ưu tiên  trong đời sống và chức vụ của ông.

Nhà viết tiểu sử cho Tozer, James L. Snyder trong cuốn sách In Pursuit of God: The Life of A.W. Tozer viết, “Việc giảng dạy và việc viết lách là một sự biểu lộ đời sống cầu nguyện của Tozer,” Ông Snyder viết tiếp, “Tozer có khả năng làm cho người nghe đối diện với chính mình trong ánh sáng mà Chúa phán cùng họ.” Một nhà viết tiểu sử khác cũng viết, “Tozer bỏ nhiều thời giờ trên đầu gối hơn trên bàn giấy của ông.”

Có người thắc mắc tại sao những tác phẩm của Tozer vẫn còn mới lạ cho thời hiện đại như lúc ông còn sống. Rất là dễ hiểu vì theo một người bạn nhận xét, “Tozer để những cái hờ hợt, hào nhoáng, thường tình cho người khác chơi giởn… Những tác phẩm của ông đâm sâu vào trong tấm lòng.”

Cái hài hước của ông, dầu viết hay nói, được so sánh với hài hước gia Will Rogers chân thật và chất phát. Hội chúng đôi lúc bị lôi cuốn vào những trận cười rộn rã, và cũng có lúc đi vào cái yên lặng, trầm ngâm, suy tư tìm kiếm Chúa.

Sau hơn 50 năm, Tozer bước đi với Chúa. Mặc dầu ông không còn sống trên đất, Tozer vẫn còn tiếp tục nói, giúp đở cho những ai có lòng khao khát kinh nghiệm Chúa. Có người nói rằng, “Tozer làm cho bạn muốn biết Chúa và cảm nhận Chúa.” Ngay từ khi ông còn sống, người ta đã gọi ông là “nhà tiên tri của thế kỷ 20.” Vì A.W. Tozer sống trong sự hiện diện của Chúa, ông nhận xét rõ ràng và ông nói như là một nhà tiên tri cho hội thánh đương thời và hội thánh ngày nay. Ông tìm sự vinh hiển của Chúa với tấm lòng hăng hái nhiệt thành như của tiên tri Êligia và tỏ ra tấm lòng đau thương như của tiên tri Giêrêmia vì sự bội đạo mất niềm tin của con dân Chúa trong hội thánh. Nhưng ông không phải là một nhà tiên tri chán chường. Những tác phẩm do ông viết là những sứ điệp nói lên sự quan tâm của ông đến với đời sống xa cách Chúa của người đương thời . Những tác phẩm đó trình bày những yếu đuối của hội thánh và phản đối lại quan niệm thỏa hiệp cho qua chuyện.

Ông Tozer có bảy đứa con, sáu trai và một gái. Vào ngày 12 tháng Năm 1962, việc đeo đuổi tìm kiếm Chúa của ông trên đất chấm dứt khi ông qua đời sau cơn động tim lúc ông 66 tuổi, ông được chôn ở nghĩa trang Ellet ở Akron, Ohio, với một tấm bia có hàng chữ đơn giản: “A.W. Tozer – A Man of God.” (A.W. Tozer – Người của Đức Chúa Trời).

Trong cuốn sách The Knowledge of the Holy, Tozer chứng tỏ ông là người hiểu biết “các đường lối của Chúa.” “Đây là cách suy gẫm và có tính chất cầu nguyện tiến đến những thuộc tính của Chúa. Đây là những thuộc tính của Chúa chúng ta thường nghĩ đến như vô sở bất năng, vô sở bất tri, vô sở bất tại, đời đời bất biến cũng như tình yêu thương và sự thương xót của Ngài.

Nhưng Tozer không những chỉ dẫn chúng ta thực tế của những thuộc tính đó; ông còn chỉ dẫn cho chúng ta các thuộc tính đó kết họp với nhau tạo thành một sự hòa hiệp toàn vẹn. Chúng không phải đối chọi với nhau, nhưng bổ túc lẫn nhau.

Nhưng theo Tozer, quan điểm của chúng ta về Đức Chúa Trời thường bị “méo mó” hay “qua loa” vì chúng ta ôm ấp cái tâm trạng bị uốn nắn theo cái văn hóa mà chúng ta đang sống và rồi đem cái tâm trạng đó áp dụng vào lời Chúa. Vì thế chúng ta cảm thấy không thế thấu hiểu những ý niệm như sự thánh khiết của Chúa, quyền năng và sự cao cả của Ngài. (*Hãy nhớ rằng Tozer viết những điều này hơn 50 năm trước đây. Ông được gọi là nhà tiên tri của thời đại này không phải là vô lý).

Mục tiêu hay ao ước của Tozer là giúp chúng ta nới rộng tầm thước nhận định của chúng ta hay nhản quan của chúng ta, và nhờ đó giúp chúng ta có khả năng nhận thức việc thờ phượng Chúa một cách đúng đắn hơn. Nếu chúng ta bỏ sót  không làm được điều này, sự hiểu biết của chúng ta về Đức Chúa Trời bị méo mó, và đưa đến kết quả là chúng ta lìa xa Chúa. Những tư tưởng “khiếm khuyết và hạ lưu” về Chúa, theo Tozer, có trách nhiệm trong sự sai lầm về học thuyết và đức tin của chúng ta. Vì thế, Tozer định nghĩa sự sùng bái thần tượng là “giả sử Đức Chúa Trời khác hơn chính Ngài.”

Khi chúng ta nhận định như vậy, chúng ta nhận thấy sự bành trướng của việc sùng bái thần tượng đang xảy ra chung quanh chúng ta và việc đó đang tàn phá hội thánh. Chúng ta có thể liên tưởng đến ý niệm về nguyên tắc chỉ đạo phồn vinh hiện đại, thường lôi kéo sự cầu nguyện của chúng ta thành “những buổi chiến lược” thay vì là thời gian cho chúng ta thật sự thông công mật thiết với Chúa.

Một cách nghịch lý, chính Tozer cũng phải công nhận “sự không thể hiểu được” về Chúa, mặc dầu ông đang giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các thuộc tính của Chúa.

Khi chúng ta gần gũi mật thiết với Chúa hơn, chúng ta bắt đầu hiểu được sự sâu nhiệm vô bờ bến của Chúa mà chúng ta không có khả năng thâu gồm được. Trực giác của chúng ta là làm cho Chúa thành ra “có thể quản lý” hay “có thể kiểm soát được.” Đó là cái tội của Adam trong vườn Địa Đàng mà chúng ta mắc phải – làm cho mình giống như Chúa. Và nếu chúng ta có thể làm như vậy thì chúng ta cần Chúa làm gì.

Vì thế thay vì cố gắng quản lý hay kiểm soát Chúa, chúng ta phải đầu phục Chúa và đặt sự tin cậy của chúng ta vào Ngài hoàn toàn mặc dầu chúng ta không thể hiểu thấu Ngài được.

Và khi chúng ta làm được như vậy, chúng ta không có bị mò mẫn quờ quạng trong bóng tối, nhưng Tozer mách bảo cho chúng ta, “trong tình yêu vô biên của Ngài, và trong sự bày tỏ của Ngài, Ngài thể hiện cho chúng ta chính thân vị của Ngài. Những điều này chúng ta gọi là thuộc tính của Chúa.” Theo Tozer, Ngài ban cho chúng ta đủ sự hiểu biết để làm thỏa mản khả năng trí tuệ của chúng ta và làm say mê tâm hồn của chúng ta.”

Nguồn: http://the-he-moi.blogspot.com.au/2011/07/aw-tozer-nha-tien-tri-cua-ky-20th.html

FATHER’S DAY

happy-fathers-day-11

Ngày Chúa Nhật thứ 3 trong tháng 6 là ngày Lễ Phụ Thân (ngày lễ nhớ công ơn cha) ở các nước trên thế giới. Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam chọn ngày này là ngày “Lễ Phụ Mẫu Thân” để con cháu nhớ ơn bậc sinh thành. Giáo hội nhắc nhở các Quản nhiệm Hội Thánh địa phương giảng dạy lời Chúa theo chủ đề này và khích lệ các con cái trong gia đình thể hiện lòng biết ơn cha mẹ bằng việc làm như lời dạy dỗ trong King Thánh.

Dựa vào câu Kinh thánh sau đây để tìm hiểu ý nghĩa của ngày FATHER’S DAY.
“Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giê Hô Va Đức Chúa Trời ngươi ban cho”
” Honor your father and your mother, so that you may live long in the land the Lord your God is giving you.”

I/ Sơ Lược Lịch Sữ Ngày  FATHER’S DAY.
(The History of the Father’s Day.)

FATHER’S DAY là tiếng Anh với ý nghĩa là ngày để tỏ lòng biết ơn Cha và vinh danh những người cha còn đang sống. Ta thường dùng từ ” Ngày Phụ Thân” hay ” Ngày Hiền Phụ” bên tiếng Việt..

Trên thế giới ngày FATHER’S DAY thay đổi Thuỳ theo mỗi quốc gia; như ở Hoa kỳ và nhiều nước trên thế giới chọn ngày Chúa nhật thứ 3 trong tháng 6 ( the Third Sunday in June) ; một số nước ở Bắc Âu thì chọn ngày Chúa nhật thứ nhì trong tháng mười một ( The second Sunday of November); Những nước trong  Châu Đại dương thì chọn ngày Chúa nhật đầu tiên trong tháng 9 ( the First Sunday in September); Nước Đức thì chọn ngày này nhằm vào ngày lễ Thăng Thiên thứ Năm ( Ascension Thursday), 40 ngày sau lễ Phục sinh ( 40 days after Easter); Bồ Đào Nha ( Portugal) và Tây Ban Nha ( Spain) thì chọn ngày Thánh Joseph 19 tháng 3 ( St Joseph Day March 19);Thái lan thì chọn ngày này cùng ngày sinh nhật của vua Bhumibol Adulyadej mùng 5 tháng 12 ( the Bỉthday of King Bhumibol Adulyadej December 5).
Ở Hoa kỳ ngày FATHER’S DAY được cử hành lần đầu tiên vào ngày 5 tháng 7 năm 1908 do sáng kiến của Bà Charles Clayton tại thành phố Fairmont, tiểu bang West Virginiar, Hoa kỳ. Nhưng người có công nhất trong việc cổ động cho ngày FATHER’S DAY thi phải kể là Bà Bruce Dodd tại thành phố Spokane, Washington miền Tây Bắc Hoa kỳ , tuy vậy mãi đến năm 1972 Tổng thống Mỹ Richard Nixon, theo đề nghị của Quốc hội,  đã ký sắc lệnh và trở thành luật, ấn định ngày FATHER’S DAY vào ngày Chúa nhật lần thứ 3 trong tháng 6 ( the third Sunday in June) .

II/ Sự Quan Hệ Huyết Thống với Cha và con.

( Cosanquinity / blood relationship Between Father and the Child.)

1/ GEN ( ADN)
Bởi sự soi sáng của thần linh Đức Chúa Trời, tôi tớ Ngài, David  đã cãm nhận được sự mầu nhiệm , đáng sợ lạ lùng trong sự tạo dựng nên con người Ông nói riêng và một con người cho nhân loại nói chung. Trong lòng người mẹ Ngài đã tác tạo một cách tinh vi, ngài đã “dệt” nên một tác phẩm tuyệt vời trong sự công bình của Ngài.
” For you created my inmost being; you knit me together in my mother’s womb” ( psalm 139:13)
Ngày nay khoa học đã khám phá sự huyền nhiệm và sự công bình của Ngài trong sự “dệt” thành một con người. 50% Gen ( ADN) của người mẹ và 50% Gen của người cha cấu tạo thành một hình hài con người.
Lời cãm xúc của David nói lên đầy đủ lòng cãm phục Đấng toàn năng trong sáng tạo muôn loài đặc biệt là con người chúng ta.” Con cãm tạ Chúa vì con được dựng nên một cách đáng sợ và lạ lùng.Công việc Chúa thật quá diệu kỳ, Lòng con biết rõ lắm .” ( TT 139:13 )
( ” I praise you because I am fearfully and wonderfully made; your works are wonderful, I know that full well.”)
Biết được điều này, hy vọng những người con bất hiếu không còn mở miệng nói “từ” cha mẹ mình. Vì cho dù có từ bỏ theo mặt luật pháp thì ” dzen” của cha mẹ mình vẫn đinh chặc trong máu huyết, da thịt và xương tuỷ của mình cho đến khi nhắm mắt xuôi tay trở về với bụi đất. Chỉ phần linh hồn của mình phải đối diện với Đấng Tạo Hoá  ( Creator/ God ) và chịu trách nhiệm về sự sống vỉnh cửu của nó nơi hoả ngục hay miền vinh hiển.
Kinh thánh xác định điều này: ” Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết. Con sẽ không gánh chịu tội ác của cha và cha cũng không gánh chịu tội ác của con” ( Ê xê chi ên 18:20a)
( The soul who sins is the one who will die.The son will not share the guilt of the father, nor will the father share the guilt of the son.( NIV ).

2/ Thiên chức làm cha

  (  Vocation for fatherhood).

Khi tạo dựng nên loài người, Ngài chúc Phước cho họ và phán rằn :” Hãy sinh sản thêm nhiều làm cho đầy dẫy đât.”( STK 1: 28a)

( Be fruitful and increase in number, fill the earth and subdue it.” Đây là câu kinh thánh nói lên mệnh lênh của Đức Chúa Trời chỉ định cho loài người sinh sản theo phương pháp giới tính; ngày nay khoa học nhân loại có thể tạo ra một con người theo phương pháp vô tính, nhưng nhớ rằng làm việc này để cho ” đầy dẫy đất” là trái với mạng lịnh của ĐCT. Ngay tức khắc vô vàng sự mầu nhiệm kèm theo trong việc “dệt” nên con người trong lòng người mẹ. Một trong những sự mầu nhiên ấy là thiên chức làm cha. Người nam tự nhận biết ý muốn của Ngài là phải thực hiện mệnh lệnh của Đáng Tạo Hoá về công việc của người nam trong nhiệm vụ cao cả tạo dựng nén một con người. Người Việt nam ý thức được điều này bằng một câu dân gian” Cha sanh, mẹ đẻ”.

Thời còn dạy học ngoại ngữ, tôi muốn sinh viên nhận thức rõ về cách dùng động tự ” to make”, tôi cho dịch câu ” từ ngày cha sinh, mẹ đẻ cho đến nay,…”. Hầu như không có một học sinh nào dịch được cau này , nói chính xác là không dịch được ” cha sinh” còn “mẹ đẻ” thì hầu hết các em dịch được. Cũng là một dịp để tôi giải thích về thiên chức làm  cha cho các em.

3/ Bổn Phận Làm Cha.

( Paternal Responsipility).

Trong quan hệ huyết thống, người cha rất hành diện và sung sướng có được một hình hài mang ” hòn máu” của mình như dân gian thường nói, tôi đã chứng kiến một người ” nhảy cửng” lên khi người đó nhận được thông báo là sắp được lên chức ” cha”, tức là sắp được làm cha. Cũng từ đó người sắp chính thức nhận chức làm cha đã suy tính và chuẩn bị mọi phương án tốt nhất để lo cho người con yêu quý của mình. Nhưng cuộc đời cũng lắm gian truân, người cha phải cày sâu cuốc bẫm, giải nắng dầm mưa. Phải bươn chải trên những nẻo đường gồ ghề với gánh nặng trên vai; cũng có người phải lăn lộn trên thương trường, lo toan tính toán đến ” nát óc” trong những đêm dài không thể chớp mắt được ; có người phải suốt cuộc đời ” bán cháo phổi”, chạy ” sô” năm ba trường, lặng lội ở những trung tâm. Kể cả những người đang ở ngoài chiến tuyến đối diện trước sự chết, cũng không bao giờ quên đến bổn phận làm cha của mình. Đã có nhiều người” sinh nghề tử nghiệp” sớm, cũng chỉ vì con mình.

Thật ” Thiên chức làm cha” thì vinh hiển, cao trọng bao nhiêu thì ” Bổn phận làm cha” cũng nặng nề, gian khổ bấy nhiêu.

Ca dao Việt nam : ” Công cha như núi Thái sơn”

Hoặc : “Còn cha gót đỏ như son, đến khi cha mất gót con như chì.”

” Con không cha như nhà không nóc.”

Tất cả đều nói lên công lao khổ nhọc của người cha trong bổn phận tự ý thức của mình.

Chỉ có những người con thuộc giòng dõi của ma quỷ mới bất hiếu với cha mẹ sinh đẻ ra mình. Không bất cứ dưới nhãn/mác ( label/ mark) nào có thể bào chửa hay che lấp được tội bất hiếu mà được khẳng định bằng bởi lời của ĐCT.

 4/Ủy Thác  chúc phước Của Đức Chúa Trời cho người cha

( God’s entrustment of blessing to father)

Với chức năng làm cha  vinh quang và bổn phận làm cha nặng nề và ĐCT cũng đã ủy thác chúc phước cho người cha.

Trong kinh thánh thể hiện sự ủy thác này rất rõ:

a/ Nô ê đã chúc phước cho các con trai minh:

” Cursed be Canaan! The lowest of slaves will he be to his brothers.”

He also said,” Blessed be the Lord, the God of Shem! May Canaan  be the slave of Shem; May God extend the territory of Japheth; May Japheth live in the tents  of Shem. and may Canaan be his slave.” ( Genesis 9:25/27).

Canaan đã khinh bỉ cha mình nên đáng rủa sả và được chúc phước làm tôi mọi cho anh là Shem và em mình là Japheth.

Nguyện ĐCT phước hạnh là ĐCT của Shem và nguyện ĐCT mở rộng bờ cỏi của Japheth.

b/ Y sác chúc phước cho Ê sau .

” … Rồi dâng lên cho cha ăn, đặng linh hồn cha chúc phước cho con trước khi chết “( STK 27:4b)

( … And bring it to me to eat, so that I may give you my blessing before I die.”)

Sự chúc phước được Chúa ủy thác nó quan trọng và có uy quyền đến nổi nó không được phế bỏ với bất cứ trường hợp nào.

Dù Ê sau có khóc lóc, kêu xin khẩn thiết thì cũng không thể nào thay đổi được .” Trước khi con về, cha đã ăn hết rồi, và đã chúc phước cho nó – và thực sự là nó sẽ được lời chúc phước đó.” (26:33b)

( I ate it just before you came and I blessed him – and indeed he will be blessed. NIV)

c/ Gia cốp chẳng những chúc phước cho các con mà còn chúc phước cho cháu nội mình nữa.

” Gia cốp gọi các con trai mình lại và nói rằng : hãy hội lại đây, cha sẽ nói những đều phải xảy đến cho các con ngày sau.” ( STK 49:1)

( Then Jacob called for his son and said ” Gather round so that I can tell you what will happen to you in days to come.)

 Một lần nữa cho ta thấy sự đặt tay chúc phước cho ai thì người ấy được. Gia-cốp không phải vô ý mà đặt chéo tay lên đầu Manasshe. Cho dù Joseph muốn đổi lại cũng không được vì sự chúc phước này đã được sự ủy nhiệm của ĐCT.

” But his father refused  and said, ” I know, my son, I know he too will become a people, and he too will become great. Nevertheless, his younger brother will be greater then he, and his descendants will become a group of nations.” ( Genesis 48:19).

Xin các người làm con, làm cháu đừng bao giờ coi thường thánh chức của cha mình trong đó có quyền ủy thác chúc phước của ĐCT chí cao.

III/ Tình Phụ Tử .

     ( Paternal Love)

Tình phụ tử mang tính cách huyết thống nên nó thiêng liêng và cao cả. ĐCT thương yêu thế gian đến nổi đã ban con độc sanh của Ngài để làm giá chuộc tội cho nhân loại. Đấng tạo hoá đã lấy tình phụ tử để so sánh tình yêu của Ngài đối với những ai kính sợ Ngài.

” As a father has compassion on his children, so the Lord has compassion on those who fear him” ( Psalm 103:13).

Tình mẫu tử bao la thì tình cha sâu đậm. Mẹ hay Âu yếm thì cha thường nghiêm khắc. Mẹ luôn vổ về thì cha lại nâng niu khi còn bé bỏng. Cha hay cỏng con hay công kênh con  trên vai đi dạo chơi.Mẹ thì lo cho con trước mắt còn thì cha lai lo cho con tương lai.

Cả 2 bổ sung cho nhau để con có được như ngày hôm nay. Đừng bao giờ quên câu ca dao:

” Công cha như núi thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chay ra.”

Hãy dặn lòng trọn đời hiếu thảo với cha mẹ.

IV/ Thực Hành Hiếu Kính.

   ( Practise Honour)

1/ Kính trọng ( respect).

Chẳng những kính trọng mà còn quý trọng ( esteem) nữa. Có quý trọng thì mới ra sức giữ gìn nó.

” một lòng thờ mẹ kính cha, Cho trong chữ hiếu mới là đạo con”, thực sự câu ca dao này là thể văn song hành và có ý nghĩa là một lòng thờ kính mẹ cha, thờ kính mẹ cha thì mới trọn đạo hiếu thảo .

Hình ảnh Sem và Gia phết  lấy áo choàng vắt trên vai mình, đi thụt lui đến đắp khuất thân cho cha; và bởi họ xay mặt qua phía khác, nén chẳng thấy sự trần truồng của cha chút nào.

” But Shem and Japheth took a garment and laid it across their shoulders; then they walked in backwards and covered their father’s nakedness. Their faces were turned  the other way so that they would not see their father nakedness.” ( Genesis 9:23).

Tại sao họ phải đi xà lui? Những người có lòng quý trọng cha mình thì điều này không khó . Thật là tuyệt vời một hành động của 2 người con có chung lòng quý mến cha mình. Họ e rằng khi thấy cha mình loả lồ thì lòng kính trọng bị tổn thương.

Kính trong cha mình không có điều kiện như Chúa yêu thương chúng ta; vậy mới xứng đáng là người con hiếu nghĩa.

2/ Ngợi khen. ( praise )

Con cháu làm vinh hiển ông cha mình cũng là một hình thức tốt lòng hiếu thảo. Kinh thánh cho biết rằng mão triều thiên của ông già ấy là con cháu.

” Children’s children are a crown to the aged.” ( Proverbs 27:6a)

phần thưởng hay quà tặng ( awards or tribute). 

Những dịp sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới, khi đau yếu, những ngày mừng thọ của cha mẹ, là con cháu mà có một món quà tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ, ông bà sẽ làm vơi đi nỗi khổ tâm trong cuộc đời.

3/ Chấp nhận;

Chấp nhận cũng có nghĩa là không so bì với người khác, không trách móc số phận của riêng mình .

Một câu ca dao tuyệt vời có tính cách khuyên nhủ, dạy bảo mà nó còn có tính chê bai rất thâm thuý sâu xa đối với những kẻ than thân trách móc cha mẹ mình.

” Con không chê cha mẹ khó,

Chó không chê chủ nhà nghèo.”

Thật vậy con chó của chủ nhà nghèo bên cạnh hàng xóm giàu; dù có cho nó ăn ngon mấy đi nữa   Thì nó vẫn về ngủ và ở với chủ nhà nghèo của nó.

 4/ Làm tròn lời hứa 

      ( Fulfill  promises)

Chúng ta có hứa nguyện điều gì với cha mình hay mẹ mình thì hãy làm thành ; đó cũng là lòng hiếu kính cha mẹ.

Joseph hứa với cha mình là sẽ đem hài cốt của cha về chôn nơi quê hương Ca-na-an.

” But when I rest with my fathers, carry me out of Egypt and bury me where they are buried.”

“I will do as you say” he said.

” swear to me” he said. Then Joseph swore to him … ( Genesis 47: 39-31)

Và Joseph đã thực hiên lời hứa với cha mình, tổ chức đám tang long trọng và xin Vua cho mình đêm thi hài của cha mình đã được tẩm liệm tại xứ Egypt về chôn tai quê hương. Khi thực hiện lời hứa nhiều khi cũng gian nan, khó khăn, tốn kếm như đám tang của Gia cốp, nhưng với lòng hiếu thảo Joseph vẫn hết lòng thực hiện để hoàn thành lời thề với cha mình.

5/ Phụng dưỡng.

   ( support maintain/ catering/serving)

Người con có lòng hiếu thảo  với cha mẹ thì không lo lắng về tài chính  mặc dù  sẽ ảnh hưởng đến sinh hoạt của gia đình riêng của mình; cũng không nạnh hẹ hay so bì với các anh chị em khác. Người Việt nam chúng ta có môt câu tục ngữ rất là hay về nuôi dưỡng cha mẹ khi về già hay lúc ốm đau. ” Gia bần tri hiếu tử”. Có nghĩa là nhà nghèo mới biết được con hiếu thảo

Joseph cũng phụng dưỡng cha mình trong tuổi già khi ở xứ người:

” Joseph also provided his father and his brothers and all his father’s household with food, according to the number of their children.” ( Genesis 47:12).

Thường thì một người có lòng hiếu kính cha mẹ, thì cũng yêu thương anh chị em mình , không so bì với bổn phận làm con với anh chị em mình.

Trong đời tôi cho đến thời gian nầy, tôi nghe được 2 người nói rằng họ ước ao được dâng 1/10 cho Chúa và 1/10 cho cha mẹ.

Một người là MS Đặng Ngọc Báu nói điều này trong bài giảng của Ông cho Đại Hội Liên Hữu  Tin lành Thế giới và Úc châu  của người Việt  vào  tháng giêng năm 2009 tại Bond University Úc Châu. Ông cũng làm chứng rằng khi Ông quyết định và thực hiện điều nầy thì Chúa cho Ông nhiều hơn khi chưa dâng 1/10 cho cha mẹ.

Sau 1975 đời sống trở nên khó khăn đột xuất. Cha mẹ tôi cũng đã già, một người em dâu trong gia đình đề nghị với tôi (vì lâu nay tôi là người đảm đang công việc chung của đại gia đình) là chia đều cho cho các anh chị em để lo cho cha mẹ. Tôi bảo rằng ý kiến đó cũng tốt, nhưng sẽ không thấy được ” gia bần tri hiếu tử.” Và thực sự lòng tôi không lo sợ phải lo cho cha mẹ và cũng không nạnh hẹ với anh chi em trong nhà, mặc dù có thể nói gia đình tôi là khó khăn đột xuất nặng nề nhất trong thời gian đó. Nhưng tạ ơn Chúa gia đình tôi vẫn tiếp tục cùng với các anh chị em lo cho cha mẹ chúng tôi đầy đủ.

Tiếng anh thường có câu nói về hiếu thảo với cha mẹ :” Serve your father as you would expect your son serve you.” Với ý nghĩa là : Hãy phục vụ cha mình y như mình ước ao con trai mình phục vụ cho mình.

Thật sự theo trải nghiệm của bản thân trong đức tin tôi nhận ra rằng : Nếu sợ phụng dưỡng cha mẹ thì nghèo thiếu vẫn là nghèo thiếu; Còn nếu không sợ phụng dưỡng cha mẹ mặc dù nghèo thiếu thì sẽ  không bao giờ nghèo thiếu.

Có thể diển tả ý đó bằng tiếng Anh như thế này:

If you are afraid of serving your father, the poverty will cling to you, but if you are not afraid of serving your father, the poverty will go away from you.

 

V/ Lời Cảnh Báo Trong Kinh thánh .( Cautions in Bible).

Cùng tội bất hiếu nhưng kinh thánh chia ra 2 mức độ :

a/ Bị rủa sả:

” Đáng rủa sả thay người nào khinh bỉ cha mẹ mình” ( Phục 27:16).

( cursed is the man who dishonours his mother or his father.”)

b/ Bị Tử Hình.( put to death)

“Kẻ nào đánh cha hay mẹ mình, phải bị xử tử.”(Xuất 21:15)

(Anyone who attacks his father or his mother must be put to death)

“Kẻ nào mắng cha hay mẹ mình, sẽ bị xử tử” ( Xuất 21: 17)

( Anyone who curses his father or his mother must be put to death)

” Khi người nào chửi cha mắng mẹ mình, thì phải bị xử tử: nó đã chửi rủa cha mẹ; huyết nó sẽ đổ lại trên mình nó.” ( Lêviky 20:9).

( if anyone curses his father or his mother, he must be put to death. He has cursed his father  or his mother, and his blood will be on his own head.)

Hồi còn nhỏ tôi nghe người ta nói ai ăn ở bất hiếu với cha mẹ sẽ bị trời trồng. Tôi hỏi mẹ tôi ” trời trồng” là thế nào?. Bà trả lời là người ăn ở bất hiếu với cha mẹ thì khi chết, mồ chôn người đó sẽ bị sét đánh và quan tài người đó sẽ dựng lên. Đó là trời trồng.

Câu chuyện từ thuở nhỏ tưởng chừng như quên lảng vì cũng đã trên 60 năm rồi. Thật không ngờ cách đây khoản ít năm tôi lại nghe người ta kể rằng ở miền tây nam bộ có một người ăn ở bất hiếu với cha mẹ, quan tài của người đó đã bị sắt đánh dựng đúng dậy đến 2 lần. Người ta sợ không dám cải lệnh trời và không dám chôn lại nữa.

VI/ Kết luận :

” Chớ hề dối mình   Đức Chúa Trời không chịu khinh dễ đâu, hễ ai gieo giống chi thì gặt giống ấy” ( Galati 6:7)

( Do not be deceived; God can not be mocked. A man reaps what he sows)

Một câu chuyện thật xảy ra ở quê tôi: một người con trai một chửi rủa mẹ mình. Không chăm sóc để bà đói khác. Bà phải xuống bờ sông bên sau nhà lấy nước uống và bà đã chết đuối ở mé sông đó. Háng xóm phát hiện và vớt bà lên  chôn cấtt.

Ít lâu sau người con trai ấy đã chết bất đắc kỳ tử giữa đường trong đêm khuya khi đi nhậu về. Khi ngã xuống bàn đạp xe đạp của chính ông cởi đã đâm thấu vào tim ông vì pedal này đã sức hết chỉ còn cái lỏi bên trong và đi lâu ngày nên đã bén nhọn.

Người ta bảo ” Trời trả báo nhản tiền”.

Tôi viết bài này với lòng cảm xúc sâu xa qua lời Chúa và nhớ thương thiết tha thân phụ mình đã về với Chúa. Mong rằng con dân Chúa và tôi tớ Chúa có một đời sống hiếu thảo để được phước hạnh, làm vinh hiển danh Chúa và thế gian biết “các ngươi là môn đồ Ta” theo như Chúa phán.

Mục sư Nguyễn Đức Na.

Hội trưởng Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu- VN

NĂM LỖI MỤC SƯ THƯỜNG PHẠM SAI LẦM KHI GIẢNG DẠY

images

1. Rao giảng những quan điểm của chúng ta, cố gắng chứng tỏ chúng bằng Lời của Đức Chúa Trời.

Đây có lẽ là lỗi phổ biến nhất của chúng ta. Chúng ta nghĩ về chủ đề mà chúng ta sẽ giảng và tìm kiếm các câu Kinh thánh để chứng minh ý kiến của chúng ta là đúng. Chúng ta quyết định sẽ đi tới đâu với thông điệp đưa ra chỉ là quan điểm của chúng ta chứ không phải của Chúa. Chúng ta trích dẫn các câu Kinh thánh, nhưng không bao giờ giải thích chúng một cách cẩn thận – chúng ta chỉ cố thuyết phục người khác về quan điểm của chúng ta. Những bài giảng như vậy không lớn hơn người giảng! (Ông truyền đạo thế nào thì bài giảng thế ấy)
Câu trả lời cho vấn đề này: Cẩn thận học đoạn Kinh Thánh, có thể là một hay nhiều câu, và tìm ra mọi điều mà Đức Chúa Trời muốn nói với dân sự Ngài. Quyết định sứ điệp chính của Chúa cho bài giảng là gì và đưa ra hai hoặc ba điều lớn nhất về thông điệp đó – đây sẽ là dàn bài của chúng ta.

2. Giảng những điều không quan trọng.

Nhiều lời giảng rất yếu và không đáng kể vì chính nhà truyền giảng không thuyết phục được bản thân rằng ông ta có một sứ điệp quan trọng, khẩn cấp và cá nhân. Mỗi Chủ nhật đến và chúng ta phải rao giảng một điều gì đó cho những người có nhu cầu tiếp nhận thông điệp khẩn cấp của mình. Nếu chúng ta không gần gũi với Chúa và biết được tấm lòng của Ngài và nếu chúng ta không ý thức được nhu cầu khẩn cấp và bi thảm của dân sự, chúng ta sẽ thất bại thảm hại.

3. Không chỉ rao giảng tin tốt của Đức Chúa Trời cho thính giả.

Vâng, chúng ta còn có tin xấu để rao giảng, đặc biệt là về tội lỗi và giá phải trả cho nó. Nhưng chúng ta không bao giờ thất bại khi giảng tin tốt, và kết thúc thông điệp của chúng ta bằng những tin tức tốt đẹp và mời người nghe áp dụng tin tốt lành cho họ.

4. Làm xao lãng hoặc mang lại cho giáo đoàn nhiều chi tiết không liên quan.

Chúng ta sẽ tìm thấy nhiều chân lý trong đoạn Thánh Kinh, nhưng chúng ta phải nhấn mạnh một lẽ thật lớn lao từ đầu đến cuối. Tất cả các chi tiết chúng ta đề cập đến phải gia tăng lẽ thật tuyệt vời đó. Nếu không, hội chúng sẽ tự hỏi, “Điểm chính của bài giảng là gì?” và rồi họ về nhà cảm thấy trống rỗng.

5. Giảng những lẽ thật vĩ đại của Kinh thánh mà không bao giờ làm cho chúng trở nên thực tiễn.

Ví dụ: Nếu chúng ta giảng về tình yêu của Chúa, làm thế nào để chúng ta giải thích nó một cách thực tế? Có lẽ chúng ta làm điều đó bằng cách mô tả tình yêu thiết thực của người mẹ dành cho con cái, nhưng tình yêu của Chúa còn vĩ đại, cá nhân và thiết thực hơn. Làm sao chúng ta rao giảng về sự chết do hậu quả của tội lỗi? Có thể kể những câu chuyện về những người mất tất cả vì họ để cho tội lỗi có được một chỗ đứng trong tâm trí và rồi cuối cùng nó phá hủy cuộc sống của họ. Chúng ta phải giảng những lẽ thật và giáo lý rất quan trọng, nhưng phải minh họa khéo léo đến nỗi các em thiếu nhi cũng có thể hiểu những gì chúng ta đang nói. Cũng hãy kể nhiều câu chuyện Kinh Thánh ngắn và các câu chuyện thực tế khác để minh họa lẽ thật này.

Dr. Ted Lindwall
Translated by Tuong Vi

DONALD TRUMP VÀ KINH THÁNH

18193672_10210703670682765_5067806910589934496_n

Tổng Thống Donald J. Trump khoe rằng ‘CHỈ CUỐN SÁCH DUY NHẤT’ mà sẽ làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại. Ấy là ‘THÁNH KINH.’ Nếu dân tộc Việt Nam chúng ta muốn đất nước mình trở nên vĩ đại thì tôi hết lòng khích lệ đồng bào chúng ta cần phải đọc Thánh Kinh, suy gẫm Thánh Kinh ngày và đêm vì Thánh Kinh là Chân lý, là Lời Đức Chúa Trời bày tỏ Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng, đời đời, độc nhất vô nhị và Thánh Kinh đã làm chứng về Đức Giêsu, Cứu Chúa của nhân loại mà ai sẵn sàng đến với Ngài, nhận biết Ngài, và tin cậy Ngài với cuộc đời mình thì có sự sống, sự sống thật, sự sống sung mãn, và sự sống vĩnh hằng! Chỉ có Lời Đức Chúa Trời, Chân lý Đức Chúa Trời, và quyền năng Thánh Linh mới có thể giải phóng dân tộc chúng ta được tự do khỏi nô lệ của tội lỗi và gông cùm của tội ác. Chỉ có Lời Đức Chúa Trời mới có sức mạnh thay đổi lòng người từ trong ra và ‘linh hồn’ của đất nước. Chỉ có Lời Đức Chúa Trời mới có năng quyền làm cho quê hương đất nước chúng ta trở nên thịnh vượng, hùng mạnh, và vĩ đại.

MS Tiến sĩ Christian Le PhD

Post Navigation