Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

TÍN ĐỒ, MÔN ĐỒ, SỨ ĐỒ

Tín Đồ; Môn Đồ; Sứ Đồ.
( Believers; Disciples; Apostles;)

I/ Tín Đồ ( believers)
Tín đồ có nghĩa là người tin.
Tín đồ Đấng Christ có nghĩa là những người tin Chúa Jesus là con Đức Chúa Trời,  Đấng được xức dầu đã hy sinh trên thập tự giá để làm của lễ chuộc tội cho mình .
Công vụ 26:28 có chép lời của Vua Ác-ríp-ba rằng: “Thiếu chút nữa ngươi khuyên ta trở nên tín đồ Đấng Christ.

(“Then Agrippa said to Paul, “Do you think that in such a short time you can persuade me to be a Christian?” NIV) , sau khi Vua lắng nghe lời tự bào chửa của Phao-lô : ” Ấy vậy, tôi lên thành Đa-mách có trọn quyền và phép bởi các thầy tế lễ cả, đang đi dọc đường, muôn tâu, lúc giữa trưa, tôi thấy có ánh sáng từ trên trời giáng xuống, chói lói hơn mặt trời, sáng lòa chung quanh tôi và kẻ cùng đi. Chúng tôi thảy đều té xuống đất, và tôi nghe tiếng phán cùng tôi bằng tiếng Hê-bơ-rơ rằng: Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bắt-bớ ta? ngươi đá đến ghim nhọn thì là khó chịu cho ngươi vậy. Tôi thưa: Lạy Chúa, Chúa là ai? Chúa đáp rằng: Ta là Jêsus mà ngươi đang bắt bớ. Song hãy chờ dậy, và đứng lên, vì ta đã hiện ra cho ngươi để lập ngươi làm chức việc và làm chứng về những việc ngươi đã thấy, cùng những việc ta sẽ hiện đến mách cho ngươi. Ta sẽ bảo hộ ngươi khỏi dân nầy và dân ngoại là nơi ta sai ngươi đến, đặng mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng, từ quyền lực của quỉ Sa-tan mà đến Đức Chúa Trời, và cho họ bởi đức tin nơi ta được sự tha tội, cùng phần gia tài với các thánh đồ. Tâu vua Ac-ríp-ba, từ đó, tôi chẳng hề dám chống cự với sự hiện thấy trên trời; nhưng đầu hết tôi khuyên dỗ người thành Đa-mách, kế đến người thành Giê-ru-sa-lem và cả xứ Giu-đê, rồi đến các dân ngoại rằng phải ăn năn và trở lại cùng Đức Chúa Trời, làm công việc xứng đáng với sự ăn năn. Kìa, vì thế nên người Giu-đa đã bắt tôi trong đền thờ và toan giết tôi. Song nhờ ơn Đức Chúa Trời bảo hộ, tôi còn sống đến ngày nay, làm chứng cho các kẻ lớn nhỏ, không nói chi khác hơn là điều các đấng tiên tri và Môi-se đã nói sẽ đến, tức là Đấng Christ phải chịu thương khó, và bởi sự sống lại trước nhất từ trong kẻ chết, phải rao truyền ánh sáng ra cho dân sự và người ngoại.( Công vụ 26:12-23)

 (“On one of these journeys I was going to Damascus with the authority and commission of the chief priests. About noon, O king, as I was on the road, I saw a light from heaven, brighter than the sun, blazing around me and my companions. We all fell to the ground, and I heard a voice saying to me in Aramaic, ‘Saul, Saul, why do you persecute me? It is hard for you to kick against the goads.’ “Then I asked, ‘Who are you, Lord?’ ” ‘I am Jesus, whom you are persecuting,’ the Lord replied.  ‘Now get up and stand on your feet. I have appeared to you to appoint you as a servant and as a witness of what you have seen of me and what I will show you.  I will rescue you from your own people and from the Gentiles. I am sending you to them  to open their eyes and turn them from darkness to light, and from the power of Satan to God, so that they may receive forgiveness of sins and a place among those who are sanctified by faith in me.’ “So then, King Agrippa, I was not disobedient to the vision from heaven. First to those in Damascus, then to those in Jerusalem and in all Judea, and to the Gentiles also, I preached that they should repent and turn to God and prove their repentance by their deeds. That is why the Jews seized me in the temple courts and tried to kill me. But I have had God’s help to this very day, and so I stand here and testify to small and great alike. I am saying nothing beyond what the prophets and Moses said would happen–that the Christ would suffer and, as the first to rise from the dead, would proclaim light to his own people and to the Gentiles.” NIV)

Người tín đồ sau khi tiếp nhận Cứu Chúa thì tụ họp lại thành một tập thể để giúp đở nhau gọi là Hội Thánh.
“Nếu Tín-Đồ nào có đàn bà hoá trong nhà mình, thì phải giúp đở họ, cho khỏi lụy đến hội thánh, hầu cho Hội-thánh có thể giúp đở những người thật hoá ” ( I Tim 5:16)

( If any woman who is a believer has widows in her family, she should help them and not let the church be burdened with them, so that the church can help those widows who are really in need. NIV).
Là ” Tín Đồ ” Đấng Christ là dân thánh của Đức Chúa Trời,  là chức tế lễ nhà vua nên không hổ thẹn mà chịu thử thách.” Nhưng nếu có ai vì làm tín đồ Đấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn; thà hãy vì danh ấy ngợi khen Đức Chúa Trời là hơn.”( I Phiero 4:16) …..

(However, if you suffer as a Christian, do not be ashamed, but praise God that you bear that name.NIV)

Tín đồ Đấng Christ được một lời hứa rất thiết thực trong hành trình theo Ngài ở II Phierơ 1:3  “Bởi quyền phép của Ngài đã ban cho chúng ta đủ mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính, qua sự hiểu biết đầy trọn của Đấng đã kêu gọi chúng ta đến sự vinh quan và đức hạnh cao trọng” ( bản dịch của MS Tiến sĩ Nguyễn Tấn Cảnh 2014)
” Quyền năng của Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi điều liên quan đến sự sống và sự tin kinh, qua sự nhận biết Ngài là Đấng đã kêu gọi chúng ta bằng vinh quang và nhân đức của Ngài” ( Bản HĐ 2012)
” His divine power has given us everything we need for life and godliness through our knowledge of him who called us by his own glory and goodness.” ( NIV)
Tôi muốn dịch sát nghĩa của từ ( words)và văn phạm ( grammar)  trong câu để thấy một ơn lớn lao của Chúa: ” Quyền phép của Đức Chúa Trời đã và đang ban cho chúng ta ( tín đồ Đấng Christ) đủ mọi nhu cầu cho đời sống thuộc thể và đời sống tin kính ( thuộc linh) bởi sự nhận biết của chúng ta về Đấng lấy sự vinh hiển và nhơn đức “riêng”của Ngài ( Đấng Christ) đã kêu gọi chúng ta.
Bất cứ tín đồ Đấng Christ chân thật nào cũng được hưởng lời hứa này một cách trọn vẹn.

Tín đồ Đấng Christ còn được gọi là ” thánh đồ”.
Ê-phê-sô 1:1 có chép ” Phao-lô, theo ý muốn Đức Chúa Trời, làm sứ đồ của Đức Chúa Jesus Christ, gởi cho các ” Thánh đồ” ở thành Ê-phe-sô, cho những kẻ  trung tín trong Đức Chúa Jesus Christ” 

(Paul, an apostle of Christ Jesus by the will of God, To the saints in Ephesus, the faithful in Christ Jesus NIV).
Trong trường hợp Phi ơ rơ cầu nguyện cho bà Tabitha sống dậy  ông gọi tín đồ là thánh đồ đến xem : ” Phi e rơ đưa tay ra đở bà dậy, rồi gọi các “thánh đồ “và các bà goá đến, chỉ cho họ thấy bà đang sống.” ( Công vụ 9:41).
( He took her by the hand and helped her to her feet. Then he called the believers and the widows and presented her to them alive. NIV).

2/ MÔN ĐỒ: ( Disciples).
Môn đồ là những tín đồ theo Chúa để được Chúa dạy bảo. Môn đồ còn gọi là môn đệ hay đệ tử.
Ngày xưa học chữ nho thi không có trường và chỉ một thầy dạy học trò tại nhà mình, cho nên
những người cùng học với một thầy sau khi vào đời họ lập ra hội ” đồng môn” nghĩa là những người cùng học ở một cửa ( môn có nghĩa là cái cửa). Bây giờ các học sinh khi vào đời cũng cùng nhau lập hội cùng lớp , cùng trường . Tôi cũng được các em học sinh trường Văn Hiến mời dự  cùng các thầy dạy các bộ môn khác  ngày kỷ niệm hàng năm của tất cả các em cùng học 1 cấp lớp từ 1968-1975 ( từ lớp 6-12).
Với ý nghĩa đó trong cựu ước dùng từ môn đồ của các tiên tri
” các môn đồ của những tiên tri ở tại Gie-ri-cô đến gần Ê-li-sê, nói với người rằng: Anh có biết rằng ngày nay Đức Giê Hô Va  sẽ cất thầy của anh lên khỏi anh chăng?…”( IICác vua 2:5a) 

(The company of the prophets at Jericho went up to Elisha and asked him, “Do you know that the LORD is going to take your master from you today?”NIV)

Chúa đưa ra điều kiện để trong số tín đồ có thể trở thành môn đồ của Chúa .” Đức Chúa Jesus phán cùng môn đồ rằng: Nếu ai muốn theo ta thì phải liều mình, vác thập tự giá mình mà theo ta”( Mathio 16:24) 

(hen Jesus said to his disciples, “If anyone would come after me, he must deny himself and take up his cross and follow me.  NIV)
Một điều kiện có lẻ là khó khăn nhất, đó là từ bỏ mọi sự mình có để được làm đệ tử của Chúa; ” như vậy, nếu ai trong các ngươi  không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đệ ta” ( Luca 14:33)

 ( In the same way, any of you who does not give up everything he has cannot be my disciple. NIV)

3/ SƯ ĐỒ. ( Apostles)
Sứ đồ là người được Chúa lựa chọn và ủy thác, bổ nhiệm làm sứ giả cho Chúa để rao giảng phúc âm ( Tin lành ).
” Đến sáng ngày, Ngài đòi môn đồ đến, chọn 12 người, gọi là sứ đồ.”( Luca 6:13).

(When morning came, he called his disciples to him and chose twelve of them, whom he also designated apostles. NIV)
Ngài ban cho họ quyền phép để rao giảng Tin lành.
” Đức Chúa Jesus gọi 12 môn đồ đến, ban quyền phép trừ tà ma, và chửa các thứ bệnh tật” ( Mathio 10:1)

(He called his twelve disciples to him and gave them authority to drive out evil spirits and to heal every disease and sickness. NIV)
Chúa gọi 12 môn đồ ( disciples) vì Ngài mới quyết định bổ nhiệm ( designated) họ vào chức sứ đồ, nhưng họ chưa nhận quyền phép  và chưa thi hành chức vụ; giống như đại sứ được bổ nhiệm nhưng chưa trình quốc thư. Ta cũng nhớ rằng sứ đồ được lựa chọn từ các môn đồ. Nên sứ đồ cũng là môn đồ, nhưng môn đồ thì không phải là sứ đồ. Cũng vậy môn đồ ra từ tín đồ; cho nên môn đồ cũng là tín đồ, nhưng tín đồ không phải là môn đồ. Và ta cũng  có thể thấy rằng môn đồ có mức độ thuộc linh cao hơn tín đồ và sứ đồ thì cao hơn môn đồ.
Chính vì vậy mà khi hội thánh ở thành Giê-ru-sa-lem gặp cơn bắt bớ giử tợn; trừ ra  các sứ đồ, còn hết thảy tín đồ đều phải chạy tan lạc trong các miền Giu-đê và xứ Sa-ma-ri

” Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất. (Công vụ:8) 

(But you will receive power when the Holy Spirit comes on you; and you will be my witnesses in Jerusalem, and in all Judea and Samaria, and to the ends of the earth.” NIV)

Trong 12 sứ đồ có Giu-đa phản Chúa. Mathia được chọn trong các môn đồ đặc biệt theo Chúa từ khi Giăng làm phép báp tem cho Chúa cho đến khi Chúa chịu hình trên thập tự giá và cho đến ngày Ngài được cất lên khỏi giửa chúng ta phải có một người làm chứng cùng chúng ta về sự Ngài sống lại ( Acts 1:23) ( So they proposed two men: Joseph called Barsabbas (also known as Justus) and Matthias. NIV).
Phao-lô không có những điều kiện nầy, nhưng Ông đã gặp Chúa phục sinh và được chính Chúa Jesus bổ nhiệm vào chức vụ sứ đồ và được Chúa ban cho quyền phép ” Các bằng cớ về chức vụ sứ đồ tôi đã tỏ ra trong anh em bởi sự nhịn nhục mọi đàng, bởi các dấu lạ, các sự khác thường và các phép lạ” ( II Cor 12:12)

( The things that mark an apostle–signs, wonders and miracles–were done among you with great perseverance.NIV).

Tất cả tín đồ của Chúa Jesus đều có thể là môn đồ của Ngài và nếu được Chúa phục sinh  kêu gọi, bổ nhiệm và trang bị và chúng ta đáp lời thì chúng ta cũng  sẽ là sứ đồ của Chúa. Vinh dự lắm thay!
A men
Mục sư Nguyễn Đức Na
(Giáo Hội Tin lành Liên Hiệp Toàn Cầu- VN.)

Single Post Navigation

Comments are closed.