Tự Huỷ Hoại Đặc Ân (To Destroy Favors By Oneself)
“Sam-xôn được sinh ra do một người phụ nữ son sẻ không thể sinh con, theo một đặc ân để làm quan xét cho dân sự của Đức Chúa Trời. “ (Các Quan Xét 13-16)
“A certain man of Zorah named Manoah, from the clan of Danites, had a wife who was childless, unable to give birth” ( Các Quan Xét 13: 2) .
“Thiên sứ của Đúc Giê Hô Va hiện đến cùng người đàn bà ấy mà rằng: Kìa, ngươi son sẻ không có con; nhưng ngươi sẽ thọ thai và sanh một con trai.” ( Judges 13:3).
Đây là một đăc ân ( favours/ favors) như đặc ân mà Đức Chúa Trời đã ban cho nữ đồng trinh Ma-ri cưu mang Cứu Chúa để thực hiện chương trình cưu chuộc của Ngài ( xin xem bài Ân Điển, Ân Tứ và Ân Huệ trong trang web này) . “Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì ngươi được ơn trước mặt Đức Chúa Trời.” ( Lu 1: 30).
“Do not be afraid, Mary; you have found favor with God.” ( NIV).
Mẹ của Sam-sôn vâng giử lời dặn của thiên sứ ” Vậy, từ bây giờ hãy cẩn thận, chớ uống rượu hay là vật chi say, và cũng đừng ăn vật gì chẳng sạch; dao cạo sẽ không đưa qua đầu nó; vì đứa trẻ từ trong lòng mẹ sẽ làm người Na-xi-rê cho Đức Chúa Trời; về sau nó sẽ giải cứu Y-so-ra-ên khỏi tay dân Phi-li-tin”
” Now see to it that you drink no wine or other fermented drink and that you do not eat anything unclean.
You will become pregnant and have a son whose head is never to be touched by a razor because the boy is to be a nazirite, dedicated to God from the womb. He will take the lead in delivering Israel from the hands of the Philistines” ( Judges 13:4-5)
Sam-sôn được sinh ra và lớn lên, được Đức Chúa trời sử dụng theo lời hứa của Ngài cho đến khi Sam-sôn tự huỷ phá đặc ân mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ông.
Sam-sôn đi xuống Thim-na thấy một người nữ trong vòng con gái Phi-li-tin và trở về đòi cha mẹ đi hỏi cưới cho chàng làm vợ. Cha mẹ chàng không đồng ý và nhắc nhở chàng rằng dân Phi-li-tin là dân không chịu cắt bì, là kẻ thù của dân sự Chúa. Nhưng Sam-sôn nhất định đòi cưới vì ” nó đẹp mắt con” “Get her for me. She is the right one for me.” (Judges 14:3b).
Với người vợ vừa lòng này, Sam-sôn đã ngã quỵ trước lời ngọt ngào trong nước mắt và gieo tấm thân ngà ngọc nàng trên thân thể ông : ” Anh ghét em! anh thực sự không yêu em : anh đã ra câu đố cho dân sự em mà không không có câu trả lời cho em!” ( Then Samson’s wife threw herself on him, sobbing, ” You hate me! you don’t really love me. You ‘ve given my people a riddle, but you have’nt told me the answer.” (Judges 14:16). Ông cãm thấy thua mưu và nổi giận phừng phừng, bỏ về quê mình!
Vợ ông được đem gả cho một trong số người đã kết bạn với ông.
Thời gian sau, trở lại thăm vợ, thì vợ không còn. Ông trả thù dân Phi-li-tin, ông bị truy đuổi, phải trốn trong hang đá Ê-tam. Chúa vẫn thương xót va tha thứ cho ông, những dây cột 2 cánh tay ông trở thành như chỉ gai bị lửa đốt, tàn rớt khỏi tay người. ” The ropes on his arms became like charred flax, and the bindings dropped from his hands.” (Judges 15:14c).Samsom sắp chết khát và khẩn nguyện, Chúa đã nghe và đã mở nước từ bộng nước tại Lê-chi cho ông uống. ( Then God opened up the hollow place in Lehi, and water came out of it.”( Judges 15:19a).
Chúa giải cứu Samson , một ngày kia, ông xuống Gaza, thấy một kỵ nữ, Samson lại vào nhà và ăn nằm với người. Dân Phi-Phi-li-tin hay tin và đã bao vây thành và chờ sáng mai sẽ giết người.” Samson is here! So they surrounded the place and lay in wait for him all night at the city gate. They made no move during the night, saying, ” At dawn we’ll kill him” (Judges 16:2). Nhưng sức lực bởi đặc ân vẫn còn trong Samson. Nửa đêm, ông thức giấc dậy, nắm 2 cánh cửa thành và hai cây trụ, nhổ nó lên luôn với then cài, vát trên vai và lên đỉnh đồi đối ngang Hếp rôn.
Đây là lần thứ hai Samson vẫn để cho tư dục điều khiển mình. Hết lấy vợ thờ thần tượng, ( lần thứ nhất) tức là kết hợp đền thờ của Đức Chúa Trời với hình tượng tà thần. Đấng Christ và Bê-li-an nào có hoà hiệp chi, hay kẻ tin có phần gì với kẻ chẳng tin? Có thể nào hiệp đền thờ Đức Chúa Trời lại với hình tượng tà thần. “What harmony is there between Christ and Belial? Or What does a believer have in common with an unbeliever? What agreement is there between the temple of God and idols? For we are the temple of the living God.”( 2 Cor 6:15-16a)
Lần thứ nhì thì Samson kết hợp chi thể của Đấng Christ với điếm đỉ. Ông là người biệt riêng cho Đức Chúa Trời, hơn ai hết phải biết lẻ đạo mầu nhiệm ” cả hai trở nên một thịt” ” Do you not know that your bodies are members of Christ himself? Shall I then take the member of Christ and united them with a prostitute? Never! Do you not know that he who united himself with a prostitute is one with her in body? For it is said, “the two will become one flesh” ( 1 Cor 6:15-16)
Cả 2 vợ chồng đều có thân vị riêng, nhưng lại là MỘT THỊT.
Thật là thâm thuý với câu ca dao Việt nam :” Vợ chồng tuy 2 mà 1, tuy 1 mà 2.”
Thế rồi sau đó ít lâu, Samson lại phải lòng vì tiếng sét ái tình với một người nữ Phi-li-tin tên là Da-li-La. “ ” Some time later, he fell in love with a woman in the Valley of Sorek whose name was Dellilah.” (Judges 16:4)
Người nữ này cũng tìm mọi cách cám dỗ Samson để lấy một ngàn một trăm nén bạc.
” The rulers of the Philitines went to her and said, ” See if you can lure him into showing you the secret of his great strength and how we can overpower him so we may tie him up and subdue him. Each one of us will give you eleven hundred shekels of silver.” ( Judges 16:5).
thật là ngu dại và mù quán trước lời yêu cầu của người đẹp, nàng nói rõ ý đồ là làm cách nào trói anh lại mà anh không thể cựa quậy, anh không thể bức đức đến 3 lần ” How you can be tied up and subdued.”
Ba lần lừa phỉnh người đẹp, bây giờ người đẹp ra đòn tình cãm, không còn trắng trợn như 3 lần trước. Làm sao anh có thể nói là anh yêu em, khi anh không tin tưởng ở em? anh đã gạt em 3 lần rồi và không nói cho em biết bởi đâu anh có sức mạnh phi thường.
“Then she said to him, how can you say” I love you”, when you won’t confide in me? This is the third time you have made a fool of me and haven’t told me the secret of your great strength.” ( Judges 16:15)
cuối cùng chàng trai, hay nói một cách chính xác là thầy quan xét hay là thẩm phán, ham sắc cũng đã thổ lộ bí mật của mình.
” No razor has ever been used on my head” he said, ” because I have been a Nazirite dedicated to God from my mother’s womb. If my head were shaved, my strength would leave me, and I would become as week as any other man”.( Jusges 16:17)
Biết chắc được bí mật của lòng chàng, nàng bèn đặt chàng vào lòng nàng và ru chàng ngủ, nàng gọi một người cắt bảy mé tóc trên đầu chàng.Như vậy nàng khởi làm khổ người, sức mạnh đã lìa khỏi chàng!
người đã bị quân thù móc mắt và bắt xay cối trong ngục.
“After putting him to sleep in her lap, she called for someone to shave off the seven braids of his hair and so began to subdue him. And his strength left him… Then the Philitines seized him, gouged out his eyes and took him down to Gaza…., they set him to grinding grain in the prison.” ( Judges 16:19-21)
“Sự bất quá tam” người đời thường nói. Quan xét Samson phạm tội lần thứ ba và đã không qua khỏi, mặc dù ông đã cố tình lừa gạt 3 lần! Samson đã tự hủy phá đặc ân mà Chúa đã dành cho Ông.
Ta có thể đặt một câu hỏi tại sao một người đã được biêt riêng cho Đức Chúa Trời ” Nazirite” làm quan xét trong thời gian khá dài, 20 năm mà phạm tội đến 3 lần cuối cùng phải chết thê thảm bên xát quân thù.?
Quý vị có cho rằng Samson chủ quan? thiếu tương giao với Đấng mình đang phục vụ? Hay là hầu viêc Chúa nhưng không tỉnh thức đã để cho uế linh ( impure spirit ) mà kinh thánh còn gọi là ma quỷ ( demon) trong trường hợp này là linh dâm dục ( adulterous spirit) chiếm đoạt tâm linh của Samson và điều khiển mọi hành động theo ” ham mê của mắt” như kinh thánh miêu tả ” For everything in the world- the lust of the flesh, the lust of the eyes, and the pride of life- comes not from the Father but from the world” ( 1 John 2:16 )?
Quý vị có nghỉ rằng Sanson cũng giống như Giu đa đã vì ham mê tiền bạc mà đã mở cửa lòng cho Ma-môn ( money spirit) nhập vào lòng mình và đã điều khiển Giu-đa bán Chúa? Đã tự huỷ hoại đặc ân làm sứ đồ mà Chúa đã kêu gọi Ông?
Mong rằng đây là bài học quý giá cho những người đang hầu việc Chúa, đặc biệt là cho những người đang hưởng ân huệ Của Ngài.
Amen.






Ho Chi Minh