Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

ROMANS 4

bible3

 

ROMANS 4

Abraham Justified by Faith

1 What then shall we say that Abraham, our forefather, discovered in this matter? 2 If, in fact, Abraham was justified by works, he had something to boast about–but not before God. 3 What does the Scripture say? “Abraham believed God, and it was credited to him as righteousness.” 4 Now when a man works, his wages are not credited to him as a gift, but as an obligation. 5 However, to the man who does not work but trusts God who justifies the wicked, his faith is credited as righteousness. 6 David says the same thing when he speaks of the blessedness of the man to whom God credits righteousness apart from works: 7“Blessed are they whose transgressions are forgiven, whose sins are covered. 8 Blessed is the man whose sin the Lord will never count against him.” 9 Is this blessedness only for the circumcised, or also for the uncircumcised? We have been saying that Abraham’s faith was credited to him as righteousness.10 Under what circumstances was it credited? Was it after he was circumcised, or before? It was not after, but before! 11 And he received the sign of circumcision, a seal of the righteousness that he had by faith while he was still uncircumcised. So then, he is the father of all who believe but have not been circumcised, in order that righteousness might be credited to them. 12 And he is also the father of the circumcised who not only are circumcised but who also walk in the footsteps of the faith that our father Abraham had before he was circumcised. 13 It was not through law that Abraham and his offspring received the promise that he would be heir of the world, but through the righteousness that comes by faith.14 For if those who live by law are heirs, faith has no value and the promise is worthless, 15 because law brings wrath. And where there is no law there is no transgression. 16 Therefore, the promise comes by faith, so that it may be by grace and may be guaranteed to all Abraham’s offspring–not only to those who are of the law but also to those who are of the faith of Abraham. He is the father of us all. 17 As it is written: “I have made you a father of many nations.” He is our father in the sight of God, in whom he believed–the God who gives life to the dead and calls things that are not as though they were. 18 Against all hope, Abraham in hope believed and so became the father of many nations, just as it had been said to him, “So shall your offspring be.” 19 Without weakening in his faith, he faced the fact that his body was as good as dead–since he was about a hundred years old–and that Sarah’s womb was also dead. 20 Yet he did not waver through unbelief regarding the promise of God, but was strengthened in his faith and gave glory to God, 21 being fully persuaded that God had power to do what he had promised. 22 This is why “it was credited to him as righteousness.” 23 The words “it was credited to him” were written not for him alone, 24 but also for us, to whom God will credit righteousness–for us who believe in him who raised Jesus our Lord from the dead. 25 He was delivered over to death for our sins and was raised to life for our justification.

 

 

Những điểm ngữ pháp cần nghiên cứu để hiểu rõ lời Chúa:

I/ Suffix ( tiếp vĩ ngữ/ hậu tố ) “ness” .
Ta xem câu 6: ” David says the same thing when he speaks of the blessedness  of the man to whom God credits righteousness apart from works “
– Blessed is past participle used as an adjective.: được chúc phước/ được ơn  phước.
– righteous is adjective : công Bình/ công chính.

Blessedness becomes a noun with suffix ” ness” : sự Phước hạnh.
Righteouness becomes a noun with suffix ” ness ” : sự công chính .
Righteousness còn được dùng trong câu 22 và 24.

Formation:

An adjective + ness = a noun

 

Tham khảo thêm ở:
– Luke 1:75 holiness.
– I Cor 2:3 weakness.
– I Cor  4:25 foolishness.
– Job 7:7  happiness.
– Job  15:22. darkness
– Psalm 17:15 likeness.

II/ Those whose = people who.

 

Đây là cách dùng theo thói quen của ngườ Anh với ý : những người mà…
Trong câu 14 và 16 dùng ta thấy ” those who “
Câu 14: ” For if those who live by law are heirs, faith has no value and the promise is worthless.”

Ta có thể hiểu là : vì nếu những người mà sống bằng luật pháp mà được hưởng thừa kế thì Đức tin không có giá trị gì và lời hứa cũng trở thành vô ích .

+ Who, In whom, to whom ( relative pronouns )

 

Trong câu 17 và 24.

” He is our father in the sight of God, IN WHOM he believed- the God WHO gives life to the dead and calls things that are not as though they were.”

Whom và who trong câu thuộc loại từ Liên hệ đại danh từ ( relative pronoun)

– WHO dùng làm chủ từ ( subject )

– WHOM dùng làm túc Từ/ bổ ngử ( object ).

Chúng thay cho danh từ chỉ về người.

Theo nguyên tắc relative pronouns phải đứng liền sau danh từ mà nó thay thế                   (antecedent) hay ngay sau giới Từ ( prepositions) mà nó làm object.

Trong câu trên antecedent của who là God và là subject của GIVES; Và whom là object của preposition IN và antecedent của whom là God.

+ chúng ta cũng lưu ý động từ ” to call “ trong câu có nghĩa là ra lệnh cho một việc gì tiến hành.

Chúng ta có Thể hiểu câu KT này là :

Ông ấy (Apraham) là cha của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời, là Đấng Ông đã tin- tức là Đức Chúa Trời là Đấng ban sự sống cho kẻ chết và ra lệnh cho những thứ mà chúng không có dường như chúng có phải hình thành.

(hay nói một cách khác là Đấng tạo ra mọi vật từ cỏi hư vô.)

 

+ Cũng lưu ý trong câu này có Liên Từ ( conjunction ) AS THOUGH = AS IF có nghĩa là “dường như” sau nó động từ phải ở thì past subjunctive. ( thì này được dùng để diển tả một sự việc không có thuc ở hiện tại ; đã có đề cập trong các đoạn trước đây.)

 

Tham khảo thêm : 

Romans 9:15

” I will have mercy ON WHOM I have mercy,

 And I will have compassion ON WHOM I have compassion.”

 

III/ NOUN CLAUSES: in apposition to a noun. 

 

Ta xem câu 19:

” Without weakening in his faith, he faced the fact THAT his boby was as good as dead – since he was about a hundred years old – and THAT Sarah’s womb was also dead.”
Ta thấy 2 mệnh đề được giới thiệu bởi Từ ” that “ sau danh từ ” the fact “.

Mệnh đề ” that hís body was as good as dead “ đồng nghĩa với ” the fact” và mệnh đề ” that Sarah’s womb was also deed “ cũng tương đương nghĩa của “the fact”

Do  2 mệnh đề này được giới thiệu bởi từ “that” và có nghĩa tương đương với danh từ     “FACT “ ( sự thật ) nên ngữ pháp Anh gọi là noun clauses in apposition to a noun ( danh mệnh đề đồng cách với một danh từ .)

Ta có thể hiểu câu KT này:

Đức tin của Ông không hề suy giảm,ông đối diện với sự thật đó là thân thể của ông hao mòn gần chết- vì ông cũng đã khoản 100 tuổi rồi- và (sự thật) rằng Sarah cũng không còn sanh đẻ được nữa.

 

Tham khảo thêm :

“It is God’s will that you should be sanctified: that you should avoid sexual immorality.”  ( Thessa 4:3 ).

( Danh mệnh đề trong câu đồng cách với God’s will ).

   

   ” My prayer is not that you take them out of the world but that you protect them from the evil one “.( John 17:15 )

( 2 danh mệnh đề trong câu đồng cách với danh từ ” prayer.”
+ Ta xem câu 20 và 21.

“Yet he did not waver through unbelief regarding the promise of God, but was strengthened in his faith and gave glory to God, being fully persuaded that God had power to do what he had promised.”

 

Câu 21 bắt đâu là ” being fully persuaded that God had power to do what he had promised.”

Để tránh lặp lại subject ở mệnh đề trước ngữ pháp Tiếng Anh dùng present participle        (hiện tại phân từ) đứng sau dấu phảy (comma).

Để thấy rõ ta có thể viết lai mệnh đề sau có chủ ngử như sau:

 

He did not waver ….., he was fully persuaded that God had power to do what he had promised.”

 

+ Chúng ta cũng lưu ý là Đức Chúa Trời đã có quyền năng để làm trọn những gì Ngài đã Hứa.

Ngài đã hứa trước khi Ngài đã có quyền làm.Do đó động từ promise phải  ở thì past perfect ( tiền quá khứ )

 

FORMATION of:

 

+ Past perfect active:

 

   HAD + PAST PARTICIPLE

 

+ Past perfect passive:

 

   HAD BEEN + PAST PARTICIPLE

Tham khảo câu 18:

 

“Against all hope, Abraham in hope believed and so became the father of many nations, just as it had been said to him.”

“Y như lời đã được phán với ông” xảy ra trước khi ông đã trở thành cha của nhiều dân tộc cho nên dùng ” Had been said ”

 

Tham khảo thêm:
” Those who had been scattered preached the words wherever they went .” 

(Acts 8:4)

( những người mà đã bị tản lạc trước thì họ đã giảng đạo sau ).

 

“Some time later the brook dried up because there had been no rain in the land.”     (l King 17:7)

( Đã không có mưa trước đó nên suối đã khô cạn. )

 

Hope  “the Spirit  of wisdom and revelation ” ( Eph 1: 17) support us to understand God’s words fully and clearly .

 

We are looking forward to your words which can help our work better.

 

Amen

 

Ban Biên tập

 

 

QUYỀN NĂNG CỦA CỨU CHÚA JESUS.

QUYỀN NĂNG CỦA CỨU CHÚA JESUS.

(  THE POWER OF SAVIOR JESUS )

I/Quyền Cai Trị Thế Gian Của Ma Quỷ.

Chúng ta được sự soi sáng của lời Chúa mà biết rằng ma quỷ mà là thế lực của Thế giới vô hình, cả thế giới này đều ở dưới quền trị của nó .
” we know that we are children of God and that the whole world is under the control of the evil one.” ( I John 5:19 NIV). Đoàn quân của ma quỷ mà sa tan là quỷ vương ơ các miền trên trời luôn muốn hãm hại, đem lại sự huỷ diệt, bất an, đau buồn và sự chết cho loài người.Với quyền lực vô hình ma quỷ nhốt một số người trong lao tù mà nó quản cai cả cuộc đời của người ấy.Nhà tù của nó được thiết lập nơi mồ mả, chốn hoan vu. Những con người mà nó đã nhốt vào nhà lao của nó thì hoàn toàn mất hết quyền tự chủ mà có một cuộc sống hoàn toàn bị Thế lực tối tăm này chi phối.
Ma quỷ là đoàn quân vô hình nhưng hiên diện khắp nơi trên Trần gian này để gây ra mọi loại tội ác và nô lệ. Các thần dữ này chính là những thiên sứ ngày xưa phạm tội và bị Đức Chúa Trời đày xuống thế gian này ( the fallen angels).Vì là Thiên sứ nên chúng là một giống loài được dựng nên khôn ngoan và có quyền lực vượt trội hơn con người.Muc đích của ma quỷ là chống cự lại Chúa, nó dụ dỗ, lôi kéo con người vào sự hư mất đời đời để chung cùng số phận với chúng là ở nơi lửa địa ngục.
Để cảnh tỉnh con cái Chúa, Về những mối hiểm hoạ có thể phá vở niềm tin, hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để đứng vững mà địch cùng mưu kế của ma quỷ. Vì chúng Ta đánh trận chẳng phải cùng thịt và huyết,bèn là cùng chủ quyền, cùng Thế lực, cùng vua chúa của Thế gian mờ tối này, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy.
” Put on the full armor of God, so that you can take your stand against the devil’s schemes. For our struggle is mot against flesh and blood, but against the rulers, against the authorities, against the power of this dark world and against the spiritual forces of evil in the heavenly realms.” ( Ephesians 6:11-12 ).

II/ Quyền Năng Của Cứu Chúa Jesus.

Mục đích Chúa Jesus đến thế gian là để phá huỷ công việc của ma quỷ.
” The reason the Son of God appeared was to destroy the devil’s work.
Chính Chúa Jesus phán với dân Giu đa rằng khi các ngươi nhận biết lẽ thật thì lẽ thật sẽ buông tha các ngươi.
” Then you will know the truth, and the truth will set you free.” ( John 8:32 )
Thật vậy Chúa Jesus phán Ta là đường đi là LẺ THẬT là sự sống là đường dẫn bất kỳ ai tin nhận Ngài đến với Đức Chúa Trời yêu thương, thánh khiết và công bình.
” I am the way and the truth and the life, no one  comes to the Father except through me.” ( John 14:6 ).

III/ Quyền Năng Được Thể Hiện.

Trong nhiều phép lạ Chúa Jesus đã làm khi Ngài thi hành chức vụ ở trần gian này thì có những phép lạ Ngài giải thoát cho những người bị ma quỷ chiếm hữu hoàn toàn trong cuộc đời Nô lệ trong lao tù của nó.
Kinh thánh chép lại câu chuyện Chúa Jesus đuổi quỷ cho một người ở nơi mồ mả và đồi núi,dẫu dùng xiềng sắt cũng chẳng ai cột trói được nữa, nhiều lần người này đã bẻ xích tháo cùm, ngày đêm kêu la lấy đá rạch cắt chính mình, người này ở nơi mồ mả và trên các đồi núi.
” When Jesus got out of the boat, a man with an evil spirit came from the tombs to meet him. This man lived in the tombs, and no-one could bind him any more, not even with a chain. For he had often been chained hand and foot, he tore the chains apart and broke the irons on his feet. No one was strong enough to subdue him. Night and days among the tombs and in the hills he would cry out and cut himself with stone.

Thật ngày nay chúng ta vẫn thấy những người bị quỷ ám như vậy. Nó có một sức mạnh phi thường để nhốt những người nó bắt phục trong nhà tù kiêng cố của có.

Nhưng quyền năng chủa Chúa có Thể phá bỏ những gông cùm chỉ với một tiếng phán ” hãy ra khỏi người nầy, you evil spirit.”

” Come out of this man, you evil spirit.”

Quỷ ám người này xin chúa nhập vào bày heo. Chúa cho phép và quỷ liền ra khỏi và nhập vào bầy heo và bầy heo đã nhảy xuống hồ và chết chìm ở đó

” send us among the pigs; allow us to go into them. He gave them permission, and the evil spirits came out and went into the pigs…rushed down the steep bank into the lake and were drowned ” (Mark 5: 2-13).

Qua câu chuyên đuổi quỷ này ta thấy Chúa Jesus kêu đích danh ” ác linh” ( evil spirit )khi đuổi nó. Ma quỷ là đứa tráo trở mạo danh hết đường chối cải, không chỗ ẩn núp.

Trong một trường hợp khác được chép trong Luca 4:31-37

Trong nhà hội có một người bị quỷ ám,một tà ma, cất tiếng la lên rằng ” hỡi Jesus Na xa ret, xin hãy đi tránh đi, tôi với Ngài có sự gì chăng? Ngài đến để diệt chúng tôi sao?” tôi biết Ngài là ai- Đấng Thánh của Đức Chúa Trời!

” in the synagogue there was a man possessed by a demon, an impure spirit. He cried out at the top if his voice ” Go away! What do you want with us , Jesus of Nazareth? Have you come to destroy us?” I know who you are- the Holy One of God.

Song Đức Chúa Jesus quở nặng ” hãy nín đi, hãy ra khỏi người này.” quỷ bèn vật ngã người này trước mặt đám Đông và không làm hại chi đến người.

” Then the demon  threw the man down before them all and came out without injuring him.”

Ta tự hỏi tại sao ma quỷ lại dám vào trong đền thờ, chỗ nhà hội, nơi giảng đạo?

Ma quỷ là kẻ vô hình nó đi khắp mọi nơi để rình mò và lừa phỉnh mọi người, không chừa chỗ nào, nhất là những nơi mà nó đánh hơi có mùi của tham lam, ích kỷ, ganh tỵ, ghen ghét, thù hận,dâm dục, thần tượng trong lòng những con người cho dù những con người đó ở đâu, đền thờ hay nhà hội; dưới  bất cứ danh hiệu nào, tín đồ Chúa Jesus, chấp sự, trưởng lảo,kẻ chăn bầy, mục sư, hay truyền đạo .

Trong trường hợp ma quỷ kiện Gióp Chúa hỏi  Sa tan rằng: ngươi ở đâu đến? Sa tan thưa rằng: Tôi trải qua khắp đất và đi tới đi lui  trên đó.

” Sa tan answered the Lord, From roaming throughout the earth, going back and forth on it.” ( Job 1:7).

 

Tại sao những quỷ ám này cũng biết được những danh hiệu đặc biệt của Chúa Jesus?

Quỷ ám này gọi Chúa là Đấng Thánh ( The Holy One of God ) Đức Chú Trời là Đức Chúa Trời Chí cao ( the Most High ) như Thiên sứ trả lời cho mẹ Mary ( mẹ phần xác của Chúa ) :

” The Holy Spirit will come on you, and the power of the Most High will overshadow you. So the Holy One to be born will be called the Son of God”.

Ma quỷ biết điều này vì chính Chúa đã phán với nó rằng Ta sẽ làm cho

mầy cùng người nữ, giòng dõi mầy cùng giòng dõi người Nữ thù nghịch nhau. Người sẽ dày đạp đầu mầy còn mầy sẽ cắn gót chân người .

” Cursed are you above all the livestock and all the wild animals!

You will crawl on your belly and you will eat dust all days of your life.

And I will put enmity between you and the woman, and beteen your offspring and hers; he will crush your head and you will strike his heel.” ( Gen 3:14-15)

 

Ma quỷ biết rõ kinh thánh còn nhiều hơn một số tín đồ tin Chúa lâu năm. Trong Ma thi ơ 4, khi ma quỷ cán dỗ Chúa nó cũng dùng kinh thánh 3 lần để thuyết phục, gài bẩy ngài.Nhưng Ngài cũng dùng lời kinh thánh  để đắc thắng cám dỗ.

 

Chúng ta thấy Chúa đuổi quỷ để giải phóng những kẻ làm Nô lệ cho chúng nó.

Chúa Jesus biết con người nhận biết được Thế giới vật chất là do các giác quan ( senses ) cũng như phần tâm linh của linh hồn để tiếp giáp với Thế giới tâm linh nên Ngài bày tỏ quyền năng của Ngài trong sự chửa lành thị giác cho người mù (Mark 10:46-53)

Người mù kêu la xin Ngài chửa lành ” Jesus, Son of David, have mercy on me” (Luke 10:47).

Chúa phán Đức tin ngươi chửa lành ngươi, tức thì người được sáng mắt  và đi theo Ngài.

” Go” Jesus said ” your faith has healed you”. Immediately he received his light and followed Jesus along the road.”

 

Ngài cũng đuổi quỷ cho một đứa trẻ bị câm và điếc với quyền năng của Ngài. Ngài cũng kêu đích danh tên của nó và ra lệnh cho quỷ câm và điếc phải ra khỏi đứa trẻ nầy, đừng ám nó nữa. Quỷ bèn la lớn tiếng, vật đứa trẻ mạnh lắm mà ra khỏi .

He rebuked the impure spirit ” You deaf and mute spirit” he said ” I command you, come out of him and never enter him again.”

 

Thật Cứu Chúa Jesus Christ đã đến trong Thế gian để làm của lễ chuộc tội cho chúng ta và với tất cả quyền phép Ngài công bố sự tự do cho những tù nhân của ma quỷ, phục hồi sự sáng cho kẻ mù, giải phóng cho kẻ bị Hà hiếp.

” The Spirit of the Lord is on me, because he has anointed me to proclaim to the poor . He has sent me to proclaim freedom of the prisoners and recovery of sight for blind, to set the oppressed free.” ( Luke 4:18-19).

 

Có một câu chuyện ở nước Anh. Một người bán thịt ( butcher) quyết định đến nhà thờ để nghe muc sư giảng.Khi Về nhà vợ anh hỏi Anh rằng Anh có nhớ họ đã hát bài thánh ca nào không, có biết ai giảng lời Chúa không, Và giảng ở đoạn kinh thánh nào không .Anh bán thịt trả lời  rằng Anh không nhớ, không biết.Vợ Anh nói tiếp vậy thì Anh đi nhà thờ làm gì cho vô ích vậy. Anh bán thì trả lời cho vợ rằng: ” Tuy Anh không nhớ rõ những điều này, nhưng em sẽ thấy sự ích lợi, vì ngày mai khi anh đến tiệm, Anh sẽ đổi cái cân non của anh từ đó đến giờ chỉ có 14 ounces, để cân dối cho khách hàng là 1 pound. Anh sẽ dùng một cái cân đúng 16 ounces cho 1 pound .

Lẽ thật đã buông tha anh khỏi tội tham lam xuôi khiến Anh dối trá.

 

Chúa Jesus có quyền năng trong lời phán của Ngài; Chúa có quyền phép giải thoát chúng ta ra khỏi những ngục tù và những ràng buộc vô hình do ma quỷ bủa giăng.

Chúa là lẻ thật ( truth) sẽ ban cho chúng ta trải nghiệm được sự tự do hoàn toàn khi chúng ta thực sự kinh nghiệm được Ân điển cứu chuộc và quyền năng tuyệt đối của Ngài.

 

Pastor Nguyễn Đức Na

 

NÀNG THƠ LÃNG MẠN

NÀNG THƠ LÃNG MẠN – Mỹ Vi Qui Nhơn (Bài chọn đăng 92)
Ngày 20/03/2014

            Đình Dũng ra đi khá bất ngờ, kết thúc một cuộc tình với Chúc Anh. Dũng bắt buộc phải phục tùng cha mẹ kết hôn với một người con gái khác không phải là người yêu của mình. Yêu một người và rồi cưới một người khác làm vợ cũng là chuyện thường tình ở đời. Nhưng điều này đã làm cho Chúc Anh đau khổ tột cùng, dường như cả một thế giới đang sụp đổ trong đôi mắt cô gái hai mươi mốt  tuổi.

pilklg

Đang là sinh viên năm thứ ba Khoa Ngữ Văn của Trường Đại Học Sư Phạm, Chúc Anh bắt đầu làm thơ trên facebook để vơi đi nỗi buồn sau một cuộc tình đổ vỡ:

Phải chi chiều ấy đừng gặp nhau
Sẽ không đem lụy quấn lấy sầu
Phải chi chiều ấy mưa đừng vội
Chắc sẽ không cần tay đan nhau

Ai bảo chiều Đông là giá lạnh

Chiều không anh em cũng lạnh lắm rồi.

Và bỗng dưng cô sinh viên Khoa Ngữ văn trở thành một nhà thơ học đường chuyên sản xuất thơ tình. Lê Cường, một bạn học cùng lớp với Chúc Anh có khuôn mặt của một quái kiệt giống hệt như Bùi Giáng bắt đầu để ý đến hiện tượng này. Cường quyết định sẽ theo đuổi Chúc Anh không phải vì yêu nhưng là muốn bạn học của mình phải bước qua cú sốc này. Cường bắt đầu bình luận các bài thơ của Chúc Anh:

Giá như chiều ấy em đừng gặp
Một cái nhìn theo xé rách hồn
Ước chi ngày đó không người ấy
Em vẫn là cô em gái tôi

Phạm Vũ Khanh, thạc sĩ Tâm Lý Học là giảng viên của Chúc Anh cũng vào cuộc. Mọi người đều yêu mến Chúc Anh và tìm mọi cách để đắt đưa cô nữ sinh đáng thương này vượt qua một cuộc tình dang dở. Duy Khanh viết lời bình luận trên Facebook của Chúc Anh:

Tôi biết em mang nặng một mối sầu
Đã theo tình, tình phớt mãi em ơi
Nè cô gái nỗi buồn da diết quá
Sao cứ ôm hoài một mối tình xa
Hãy đứng lên từ những tàn tro
Sau cơn mưa trời bao giờ cũng sáng
Bão tan rồi chim vẫn hót vô tư

Mặc cho bao nhiêu lời động viên khích lệ, Chúc Anh vẫn ôm ấp nỗi buồn của mình, dường như không có cách gì gỡ ra được. Trong một ngày cuối năm cô ấy viết bài thơ này:

Em đang ngồi bện nỗi nhớ và cô đơn
Thành sợi dây thừng để thắt tình yêu chết
Anh hài lòng chưa đam mê em dốc hết
Trả một lần, hổn hển thở rồi thôi

Sống thì lẻ loi nên chết cũng mồ côi
Chỉ có nỗi buồn chen chân để đưa tiễn
Cả đắng cay nữa cũng tranh nhau tiễn biệt
Dù tình yêu em chẳng được chúc phúc bao giờ

Đêm qua rồi lòng chưa tỉnh khỏi mơ
Làm sao thoát cám dỗ của ký ức
Hong giọt nước rèm mi mà bất lực
Tự mỉa mai mình không phước mà đa đoan

Anh đứng bên đời dìu dặt những nhặt khoan
Chỉ nay mai thôi nguội quên chút tình nhỏ
Chấp chới mình em vẫn một thân vò võ
Ngồi bện đan lòng để cố giết tim đi

Xuân đến rồi anh cứ bước chân đi
Chỉ phía em là gió Đông thốc ngược

Nỗi nhớ thương một người tình đã ra đi không bao giờ trở lại, cũng được Chúc Anh viết trong bài “Nhớ Anh”:

Nén lòng mình, hai tiếng: “Anh ơi!”
Mà sao thấy nhớ thương thăm thẳm quá
Em bỗng muốn mình trở thành tượng đá
Để thiên thu tình ấy chẳng hao mòn

Người đâu còn để dạ vẫn sắt son
Nào ai hẹn mà giữ thề với hứa
Thời gian vẫn vùn vụt như vó ngựa
Cuối đường trần nỗi buồn chạm đáy chưa?!

Xuân đến rồi, cỏ còn khát cơn mưa
Đông bước qua mặc lòng thêm vôi vữa
Thoáng chiếc lá nhẹ rơi ngoài bậu cửa
Cũng xót lòng bật thành tiếng: “Anh ơi!”

Tâm trạng ra sao thơ ra như thế, Chúc Anh được bạn bè gọi là nàng thi sĩ thất tình đành mượn thơ để tìm quên. Nhưng quên làm sao được khi nỗi buồn cứ đeo đuổi mãi không rời?

Thật may mắn  là còn có một người bạn cùng lớp âm thầm cầu nguyện cho linh hồn của Chúc Anh. Đó là Uyên Vi, một Cơ đốc nhân đang sinh hoạt tại nhà thờ Trương Minh Giảng, Sài Gòn. Uyên Vi không có khả năng làm thơ nhưng cô gái này vốn là một nữ sinh rất yêu mến Chúa.

Một buổi chiều kia, sau khi tan trường Uyên Vi chủ động mời Chúc Anh:

-Tối nay mời bạn đến nhà thờ Trương Minh Giảng với mình tham dự một đêm truyền giảng Phúc Âm trong mùa Giáng sinh?

-Mình chưa bao giờ đến nhà thờ Tin Lành, nên không biết ở đó có thích hợp với mình hay không?

-Đừng ngại, nơi ấy thích hợp cho tất cả mọi người. Mình chắc chắn là như vậy.

Một cách miễn cưỡng Chúc Anh theo Uyên Vi đến nhà thờ. Đó là lần đầu tiên trong đời nàng thơ lãng mạn này được nghe những bài Thánh Ca với một giai điệu thanh thoát, lạ lùng không giống với bất kỳ dòng nhạc nào bên ngoài. Rồi đến bài giảng của ông truyền đạo thật  sinh động tràn đầy nhiệt huyết. Mọi người trong Ban tiếp tân ân cần hỏi thăm, xin số điện thoại của Chúc Anh… Những điều này  đã có một tác động tích cực vào tâm hồn của cô gái trẻ. Chúc Anh trở về nhưng những lời chia sẻ của ông truyền đạo như một thách thức cho tâm hồn cô ấy. Và lạ thật Chúc Anh nhớ rất rõ sứ điệp của ông truyền đạo:

-Chúa Jesus đang phán với các bạn: “Nếu các ngươi làm theo điều ta dạy thì các ngươi là bạn hữu ta.” Ngài là người bạn thật của tất cả những ai thực hành Lời của Ngài. Ngài không chỉ là một người bạn bình thường như bao nhiêu người bạn thân khác mà Ngài còn là người bạn có khả năng thông cảm, thấu hiểu và trở thành người cố vấn cho bạn trong những khủng hoảng cuộc đời. Nếu bạn đang đau buồn vì những đổ vỡ trong cuộc sống, Ngài là người bạn sẽ nâng vực bạn đứng dậy để bước tới. Nếu bạn bị người khác bỏ rơi, thì Chúa Jesus là người bạn thân đứng bên cạnh đưa cánh tay Ngài ra cho bạn nắm lấy. Nếu bạn bị người khác phản bội thì Chúa là Đấng thành tín, nguồn trông cậy bền vững để bạn chạy đến với Ngài….

Ông truyền đạo còn giảng nhiều điều trong khoảng ba mươi phút, và Chúc Anh có thể nhớ được một số ý chính của bài giảng. Nhà thơ sinh viên này thầm nghĩ: “Tại sao ông này lại nói đúng tâm trạng của mình quá? Như vậy chắc mình phải cần đến Chúa, nếu Ngài là người bạn chân thật của mọi người.”

Sau bài giảng còn có một nữ thanh niên đơn ca bài “Ôi Jesus,  Chúa ta là bạn thật,  bằng lòng gánh tội lỗi chúng ta…” Bài hát được trình bày với một chất  giọng sang trọng đã đọng lại trong tâm khảm của Chúc Anh.

Chúc Anh trở về Ký túc xá suy nghĩ mông lung: “Tiếp nhận Chúa làm Cứu Chúa hay không?” Câu hỏi này hiện ra trong đầu của Chúc Anh.

Uyên Vi tiếp tục cầu nguyện cho Chúc Anh: “Lạy Chúa xin Ngài bày tỏ tình yêu và sự thương xót của Ngài trên cuộc đời của người bạn con. Xin Chúa cứu cô ấy ra khỏi tâm trạng đau khổ vì một cuộc tình tan vỡ.”

Chỉ có một mình Uyên Vi là Cơ đốc nhân trong một lớp học gồm bốn mươi sinh viên đến từ nhiều tỉnh thành trên cả nước. Uyên Vi là một người thường xuyên cầu nguyện cho linh hồn người khác. Cô nữ sinh này biết bản thân mình không thể thuyết phục được ai đến với Phúc Âm, nhưng tin rằng chính Chúa sẽ kéo người ta đến với Ngài.

Một tuần lễ sau đó Uyên Vi có dịp nói chuyện với Chúc Anh:

-Chúc Anh có cảm nhận gì về buổi truyền giảng ở nhà thờ tuần trước?

-Mình cũng không biết phải nói ra cảm nhận đó như thế nào. Có lẽ mình cần thời gian để suy nghĩ. Dù sao cũng cám ơn Uyên Vi đã đưa mình tới đó.

Chúc Anh tiếp tục thả hồn của mình theo từng bài thơ. Có người khi thất tình thì uống rượu giải sầu, còn Chúc Anh thì mượn thơ để ký thác tâm trạng. Người như thế nào thì thơ như thế ấy. Thơ chính là con người bên trong phát tán ra bên ngoài. Và nàng thơ này chỉ viết xoay quanh có mỗi một chủ đề:Tình Xót Xa:

Có lẽ tôi là người bảo thủ quá chăng ?!
Nên tôi không thích cái gì gọi là tình đầu hay tình cuối.
Đối với tôi, một kiếp người chỉ cần một lần yêu là đủ.
Yêu đến điên cuồng – rồ dại – lẫn si mê.

Và nỗi buồn của nhà thơ dường như bất tận mỗi ngày:

Ngày mới rồi nhưng em mòn hơn xưa
Tập tành quen với nỗi buồn vắt vẻo
Ký ức chỉ như giọt sương trong trẻo
Rơi xuống rồi chỉ còn mặn môi thôi
.

Có mấy ai đọc những dòng thơ như vậy mà không thương cảm cho tác giả!

Một buổi chiều kia sau khi tan trường, tình cờ Chúc Anh gặp giáo viên của mình trong một quán cà phê trên đường Nguyễn Văn Cừ: Thầy Phạm Vũ Duy Khanh dạy môn Tâm Lý Học. Duy Khanh chủ động mở đầu câu chuyện:

-Chào em, khí cầu tình yêu của em bay tới đâu rồi?

-Ồ thầy khéo nói đùa, khí  cầu của em đã vỡ, rơi xuống Thái Bình Dương cả một năm nay.

-Thật thế sao, thầy không nghĩ như vậy. Đọc những bài thơ em viết trên facebook  buồn quá.

-Có thể nào khác được thầy ơi. Nỗi buồn là một phần của cuộc sống mà.

-Đúng như em nói nhưng nếu nỗi buồn cứ đeo bám dai dẳng một người nào đó, thì đời sống còn có ý nghĩa gì?

-Đó chính là ý nghĩa cuộc sống của em. Thầy không thể lấy đi nỗi buồn của em.

Duy Khanh trầm ngâm:

-Vâng, tôi không thể làm điều đó, nhưng tôi có thể lắng nghe và cảm nhận từ nơi em một nỗi buồn mà đáng lý ra em có thể quên nó. Đời sống có những nghịch lý: Theo tình, tình phớt. Phớt tình, tình theo. Tôi hy vọng thời gian sẽ là liều thuốc chữa lành trái tim bị thương tổn của em. Hiện nay điều đó chưa đến, nhưng tới một thời điểm nào đó, có thể là một năm nữa em sẽ thay đổi. Tình cảm con người không phải luôn luôn bất biến, tôi chúc cho em gặp được ý trung nhân trong một tương lai gần.

-Cám ơn thầy đã động viên em. Hiện giờ tâm hồn em trống vắng và hầu như không thể yêu ai được nữa. Có lẽ em giống như một con chim gãy cánh mà không biết đến bao giờ mới được lành.

Buổi truyền giảng tiếp theo, Uyên Vi lại mời Chúc Anh đến nhà thờ. Nàng thơ miễn cưỡng nhận lời. Tối hôm ấy Mục sư diễn giả trình bày sứ điệp “Mục đích của đời sống”. Ông nhấn mạnh:

-Mục đích của đời sống không phải là yêu và được yêu, nhưng là yêu thương và ban cho đến người khác. Chúa Jesus đã đến thế giới này không phải để được người ta yêu thương, trái lại nhân loại đã đóng đinh Ngài. Ngài đến để hoàn thành mục đích của đời sống: Yêu thương nhân loại và ban cho nhân loại chính mạng sống của Ngài. Chúa Jesus đã trở thành một gương mẫu cho tất cả chúng ta hôm nay. Tình yêu có nghĩa là phục vụ, giúp đỡ người khác để qua đó người được giúp đỡ có thể thấy được vẻ đẹp của Chúa Cứu Thế ở bên trong mỗi chúng ta. Chúa Jesus đã đến thế giới để phục vụ nhân loại, Ngài không trông đợi con người phục vụ Ngài. Nếu bạn muốn hiểu bản chất thật của tình yêu, bạn hãy đến với Chúa Jesus để trải nghiệm một tình yêu ngọt ngào với Ngài. Khi một người đã có Chúa trong tâm hồn, người đó sẽ biết cách yêu thương như Chúa đã yêu thương và Ngài trở thành gương mẫu của một tình yêu vô đối.

Khi đang giảng, bỗng dưng vị mục sư dừng lại và nói tiên tri (lời này ông không soạn trước trong bài giảng):

-Trong vòng các bạn những người đang lắng nghe sứ điệp này có một người mang tâm trạng u buồn, sầu khổ vì người yêu của mình đã sang ngang. Tình yêu của con người không có gì bảo đảm. Tôi kêu gọi người đang có tâm trạng đó hãy tiến lên đây sau khi tôi giảng để cầu nguyện tiếp nhận Chúa. Chỉ có tình yêu của Chúa Jesus mới chữa lành được những tấm lòng đang bị tổn thương.

Tự dưng Chúc Anh nghe lạnh ở sống lưng. Có ấy vẫn còn giữ sự tự chủ, nhưng có một tiếng nói nhẹ nhàng trong tâm hồn mách bảo: “Tôi chính là người đó, và tôi cần sự chữa lành”.

Không ai có thể biết được phương cách mà Đức Thánh Linh làm việc trong lòng của một con người. Ngài có mọi phương pháp và chiêu thức tác động vào mỗi cá nhân để kéo người đó trở về với Đấng là Cội Nguồn của mọi sự. Chúc Anh đã nghe được tiếng nói êm dịu nhỏ nhẹ từ trong sâu thẳm của tâm hồn.

Kết thúc bài giảng, Mục sư diễn giả đưa ra lời kêu gọi:

-Các bạn muốn nhận Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa của mình, hãy tiến lên phía trước tòa giảng để được hướng dẫn cầu nguyện.

Uyên Vi nhẹ nhàng nắm tay Chúc Anh đứng lên rời khỏi hàng ghế đi về phía trước tòa giảng. Hai chân của Chúc Anh bỗng trở nên thanh thoát như lướt trên những đám mây ngoan ngoãn đi theo bạn mình. Vị Mục sư hướng dẫn cho Chúc Anh cùng với mười hai người nữa tin Chúa trong buổi tối hôm ấy. Nữ thi sĩ lãng mạn đã được ghi danh vào trong sách sự sống của Chiên Con!

Kể từ đây những cảm xúc của nàng thơ bắt đầu thay đổi. Chúc Anh được giải phóng ra khỏi cái tôi, bản ngã của mình để nhìn đời trong một lăng kính mới. Ngày xưa cuộc đời qua đôi mắt của Chúc Anh chỉ là một mùa Thu ảm đạm với lá vàng rơi hiu hắt. Có lúc Thu chuyển sang Đông cũng chỉ thấy một bầu không khí se lạnh bao trùm với những cơn mưa chiều muộn màng trên phố Sài Gòn đông đúc. Còn bây giờ bầu trời trở nên quang đãng đến lạ lùng. Mây vẫn bay và gió vẫn trôi nhưng mọi sự từ nay đã đổi tông màu.

Chúc Anh không còn thương nhớ bóng hình của người yêu cũ nữa. Nàng thơ bắt đầu đọc Kinh Thánh một cách say mê, giống như người tìm được báu vật mới trong đời. Cô nàng càng đọc Lời Chúa tâm trí cô càng biến đổi. Chúc Anh lấy làm tiếc là tại sao cho đến bây giờ mình mới bắt đầu đọc quyển sách best seller (sách bán chạy nhất) trong mọi thời đại này.

Chỉ một tuần sau đó Chúc Anh viết bài thơ sau trên facebook của mình:

Thôi nhé tạ từ thời dĩ vãng
Những đam mê u uất của tâm hồn
Hãy bay đi những kỷ niệm dật dờ
Thời hoang dại chưa tìm ra lối thoát

Tưởng đã chết nhưng bây giờ lại sống
Giữa trùng khơi tìm được một cánh tay
Kéo tôi lên thuyền cứu nạn an bình
Trong tay Chúa ôi bình an diễm tuyệt

Chim gãy cánh phục hồi trong nắng mới
Gió Thu về đâu còn rợn nước sông
Và chiều Đông vẫn ấm áp lạ thường
Vì Cứu Chúa chữa lành trong ân sủng

Tạ ơn Cha từ ái mãi đợi chờ
Con hoang đàng nay trở về tổ ấm
Đời bình yên phước hạnh ở trong Ngài
Hồng ân Chúa muôn đời con ghi nhớ.

Uyên Vi đọc bài thơ này, và nhanh chóng bình luận:

Đây là một trong những bài thơ lạc quan nhất của tác giả mà tôi từng đọc. Tạ ơn Chúa vì Ngài đã đem Chúc Anh trở về trong ngôi nhà của Tình yêu và Hy Vọng. Tôi trông đợi những bài thơ khác của tác giả với những trải nghiệm mới mẻ trên bước đường theo Chúa.

                                                                       MỸ VI QUI NHƠN

 321 lượt xem tại: http://songdaoonline.com/e2783-nang-tho-lang-man-my-vi-qui-nhon-bai-chon-dang-92-.html

SỰ XỨC DẦU THẦN THƯỢNG

SỰ XỨC DẦU THẦN THƯỢNG

 

 

Trên vua dầu xức đổ ra,

Giúp vua cai trị an hoà trên ngôi;

Tiên tri được xức dầu rồi,

Phát ngôn cho Chúa những lời cao sâu;

Thầy tư tế hưởng xức dầu,

Phụng thờ đền thánh cúi đầu khiêm cung.

Jêsus, Cứu Chúa vô cùng,

Cha ban dầu xức vui mừng nhiều hơn;

Ngài đi chữa bệnh, làm ơn,

Rao tin mừng lớn nông thôn, thị thành.

Ô người Cơ đốc, hỡi anh,

Linh quyền năng có vận hành qua chăng?

Trong anh Linh đến một lần,

Mà không biểu lộ nhân quần thấy sao?

Tại anh nhốt Chúa quá lâu,

Ngài đang tiềm ẩn chẳng sao tỏ bày;

Anh ơi, đầu phục cùng Ngài,

Chúa chờ anh để phô bày thế nhân.

(7-3-2014)

 

 

Trích Nguồn: http://prayers4vn.net/QuanDiemHoiThanh

 

PHỤC VỤ THEO GƯƠNG CHÚA JESUS

PHỤC VỤ THEO GƯƠNG CHÚA JESUS
( Service followed The Lord Jesus’ example)

Chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ mà trở nên giống như loài người ( Philip 2:7)
Chúa Cứu Thế Jesus nhập thể không lấy hình một đế vương, một công hầu hay khanh tướng mà Ngài lấy hình tôi tớ.
Một tôi tớ ( servant ) thì phải mang tính chất phục vụ ( to serve ) và luôn luôn nhớ đến một sứ mạng phục vụ ( service )
Trong cựu ước rất nhiều lần sử dụng từ tôi tớ trong những trường hợp khác nhau nhưng tựu trưng vẫn với một ý nghĩa là Phuc vụ.
TT 116:16 ” Hỡi Đức Giê Hô va, tôi thật là tôi tớ Ngài, tôi là tôi tớ Ngài,con trai con đòi của Ngài, Ngài đã mở gông cùm cho con.”
” O Lord, I am truly your servants; I am your servant, the son of your maidservant ; you have freed me from my chains. ( NIV )
” Môi se, tôi tớ của Đức Giê Hô Va, qua đời tại đó trong đồng bằng
Ô áp”( Phuc 34:5).
And Moses the servant of the Lord died there in Moab. ( NIV).
Phaolo lô và Ti mô Thê, tôi tớ của Đức Chúa Jesus Christ, gởi cho hết thảy các thánh đồ trong Đức Chúa Jesus Christ, ở thành Phi líp, cùng cho các giám mục và các chấp sự.( Philip 1:1)
Paul and Timothe , servants of Christ Jesus,
To all saints in Christ Jesus at Philippi, together with the overseers and deacons. ( NIV).
Những đặc tính của một tôi tớ mà Cứu Chúa đã Thể hiện trọn vẹn trong quản đời phục vụ Thiên Chúa ở Trần gian này mà Ngài muốn tôi con Ngài noi theo:

1/ PHUC VỤ THA NHÂN ( serve others ).

Chúa Jesus đã khẳng định rằng Ngài đến Thế gian là để Phuc vụ tha nhân chứ không phải để người ta Phuc vụ mình.
” Just as the Son of Man did not come to be served, but to serve, and to give his life as a ransom for many”.( Matt 20:28 ).

Trước khi về lại Ngôi vị của Ngài với cha Ngài thì Chúa Jesus đã rửa chơn cho các môn đồ Ngài.
“After that, he pour water in a basin and began to wash his disciples’ feet, drying them with the towel that was wrapped around him” ( John 13:5 ).
Chúa cũng phán cùng họ rằng Chúa là Thầy, là Chúa mà còn rửa chơn cho họ nên họ cũng nên rửa chơn cho nhau và Chúa cũng phán rằng Ngài làm như vậy là để làm gương cho họ.
” You call me ” Teacher ” And “Lord” and rightly so, for that is what I am. Now that I, your Lord and Teacher, have washed your feet, you also should wash one another’s feet. I have set you an example that you should do as I have done for you. ( John 13: 14-15 , NIV ) .
Thật Chúa nêu gương cho chúng ta bằng hành động chứ không chỉ bằng lời phán dạy.Chúa cũng dạy tôi con Chúa Chớ có yêu thương bằng ” lời nói và lưởi, mà phải bằng việc làm và lẻ thật.
” Dear children, let us not love with words or tongue, but with actions and in truth. ( I John 3:18; NIV).

2/ Gương tiếp theo mà Chúa nêu cho chúng ta là TUÂN PHỤC.

( execute, obey).
Không có tinh thần vâng phục thì không thể làm tôi tớ được. Tuân phục đúng nghĩa là chấp hành mệnh lệnh và thi hành mệnh lênh, vâng, dạ mà không thi hành ý muốn của chủ thì không thể nói là vâng phục được. Nghe lời Chúa, hiểu lời Chúa mà không làm theo thì cũng ở trong phạm trù không vâng phục
Chúa Jesus làm gương cho chúng ta mà Kinh thánh có ghi chép rõ ràng trong Giăng 12:50 . Chúa biết mạng linh của Cha Ngài, cho nên những điều Chúa nói thì nói những điều Cha đã dặn.
” I know that his command leads to eternal life. So whatever I say is just what the Father told me to say” ( NIV).
Tuân phục cũng có nghĩa là vâng phục, vâng lời. Kinh thánh cũng cho chúng ta thấy sự vâng phục tuyệt đối của Ngài. Ngài vâng phục cho đến chết,thậm Chí chết trên cây thập tự .
” And being found in appearence as a man, he humbled himself and became obedient to death- even death on a cross! ( Philippians 2:8; NIV ).

Trong cuộc đời hầu việc Chúa, có những khó khăn, thử thách; nếu không có tinh thần TUÂN PHỤC thì dễ tẻ tách qua một ngả rẻ khác.Gương Giô-na cho ta thấy điều này. Chúa bảo đi Ni-ni-ve thì Giô na lại đi Ta-rê-si.Về phương diện địa lý thi 2 thành phố này nằm đối diện nhau trên một trục địa lý 180 độ, có nghĩa là Giôna đã làm ngược lại mệnh lệnh của Chúa 100%.

Chúa Jesus biết Ngài sẽ phải chịu đau đớn trên cây thập tự, Ngài vẫn cầu nguyện với cha Ngài trong tinh thần vâng phục. Xin cha cất chén này khỏi con,dầu vậy, xin ý cha được nên. Chớ không theo ý con. ( Lu ca 22:43)
“Father; If you are willing, take this cup from me.; Yet not my will, but yours be done” ( NIV).

3/ GƯƠNG HY SINH ( sacrifice).

Địa vị của Ngài là Đức Chúa Trời ngôi hai.Nơi ngự của Ngài là Thiên Quốc vinh hiển, nhưng Ngài không coi sự bình đẳng của mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giử, chính Ngài hy sinh, tự bỏ địa vi cao sang đó và đã Giáng thế ( Philip 2:6).
” Who, being in very nature God, did not consider equality with God something to be grasped.”( NIV) .
Không có sự hy sinh nào có thể so sánh với sự hy sinh mạng sống của con người.
Một gương hi sinh tuyệt đỉnh để chúng ta noi theo. Không dám hi sinh thì sự phục vụ Chúa của chúng ta không bao giờ đạt đến đỉnh cao, nếu không muốn nói là không thể hoàn thành chức phận mà Chúa đã kêu gọi anh em.
Một minh chứng trong thời đai này một chức viên trong Ban Điều Hành mà không thể hy sinh ngày mùng 5 Tết đi thăm sui gia mà bỏ họp cuộc họp BĐH đầu năm. Cũng không dám bỏ một ngày kỷ niệm hôn nhật 37 năm ( theo phong tục tập quán của người Âu- Mỹ thì người ta chỉ tổ chức Lễ kỷ niệm ngày hôn nhật 5 năm một lần sau Lễ Bạc “Silver Wedding” tức là vào 30,35,40,45,50,55 và 60 năm ngày cưới.) để tham dự kỳ họp định kỳ 2 tháng 1 lần của Ban ĐH đã lên lịch từ đầu năm.
Làm sao có thể tiếp tục chức vụ cao trọng trong một tinh thần vừa ích kỷ không dám hy sinh những chuyện nhỏ nhặc như vậy vừa tỏ ra tinh thần không tuân phục.
Với tinh thần noi gương Chúa, chúng ta hãy hy sinh thì giờ, tiền bạc, của cải, tài năng,sức lực để Phuc vụ Ngài
và chúng ta nhớ rằng ” công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ich đâu.”
” Therefore, my dear brothers, stand firm. Let nothing move you. Always give yourselves fully to the work of the Lord, because you know that your labour in the Lord is not in vain.” ( I Cor 15: 58 “.

Ngoài 3 đặc tính cần thiết một tôi tớ Chúa phải có mà chính Chúa của chúng ta đã làm gương .
Phao lô noi gương Chúa và cũng nhắc nhở những tôi tớ Chúa rằng hầu việc Chúa phải tự nguyện, vui lòng mà làm, không vì lợi dơ bẩn ( I Phioro 5:2).
“Be shepherds of God’s flock that is under your care, serving as overseers- not because you must, but because you are willing, as God wants you to be; not greedy for money, but eager to serve.”

Nguyện Chúa ban thêm sức cho tôi con của Ngài hầu cho ai nấy đều noi gương Cứu Chúa chúng ta trong khi đang hầu việc Ngài.

Mục sư Nguyễn Đức Na

TÌNH VẪN CÒN ĐẦY

2014_02_10_3zmp26ixqos

Thầy giáo Bửu trở về nhà mặt lầm lì không nói. Một nỗi buồn thấu tận tâm can làm anh vô cùng đau đớn. “Hoàn cảnh như thế này thì chết tốt hơn là sống”, anh suy nghĩ mông lung.

Diệu Thu, người vợ có hai đứa con với anh đã không thể chối cãi khi cô ấy ở chung phòng trong khách sạn với một người đàn ông.

Ở tuổi bốn mươi ba, Diệu Thu vẫn còn giữ được những nét duyên dáng, quyến rũ của một thời xuân sắc. Người phụ nữ này đã từng là hoa khôi của Trường Trung học trước đây. Bây giờ vẻ đẹp đằm thắm dịu dàng của cô ấy vẫn còn làm cho bao kẻ si tình phải ngất ngây.

Lớn lên trong một gia đình đạo dòng, Diệu Thu được mọi người nhìn nhận là một phụ nữ ngoan đạo. Nhưng thế giới nội tâm của cô ấy là cả một khung trời bí ẩn mà rất khó cho người khác nhận biết được. Cô ấy thuộc mẫu người duyên dáng nhưng cũng đầy huyền bí, giấu kín bên trong những cảm xúc phức tạp của một phụ nữ hồi xuân tràn đầy sinh lực.

Là một phụ nữ xinh đẹp tham gia vào ca đoàn của giáo xứ, Diệu Thu đã làm cho Đức Trung, một người cùng tuổi phụ trách ca đoàn của nhà thờ bối rối. Hai người trao đổi với nhau bằng ánh mắt mà chỉ có họ mới có thể hiểu được. Ngôn ngữ của tình yêu thật lạ lùng, khi hai tâm hồn đã hòa điệu trong một tần số yêu đương thì ai có thể ngăn cản họ?

Tình cảm tự nhiên giữa giáo hữu với nhau vốn trong sáng như lẽ thật của Phúc Âm. Nhưng cái ranh giới mong manh của nó với tình yêu nam nữ chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc. Đức Trung là nhạc sĩ đã góa vợ, ông có những nhu cầu và cảm xúc giống như bao nhiêu người khác. Và trong mối quan hệ với Diệu Thu, Đức Trung đã vượt lằn ranh cho phép của Lời Chúa và Giáo hội. Hai người đã hẹn hò với nhau trong một khách sạn ở Biên Hòa.

Thầy giáo Bửu đau khổ vì vợ anh đã sẩy chân. “Một phút yếu lòng trăm năm nghìn hận” Có lẽ Diệu Thu rơi vào tình trạng đó. Văn Bửu tự chọn cho mình một cách giải quyết vấn đề: Anh ra khỏi căn nhà của mình và thuê một phòng trọ sống biệt lập với gia đình, sớm tối đi về tránh mặt Diệu Thu để chiêm nghiệm nỗi buồn của mình. Và cũng từ đó anh không bao giờ dám đến nhà thờ nữa. Đối với anh giáo đường quen thuộc trước đây, bây giờ đã trở nên lạ lẫm. Nơi đó người vợ yêu dấu đã làm anh bị sỉ nhục không kể xiết. Và ông nhạc sĩ kia là người thứ ba đã chen vào hủy hoại cuộc sống hôn nhân đang hạnh phúc của anh.

Một buổi chiều cuối năm khi vừa xong hai tiết dạy tại một Trung tâm Anh Ngữ ở huyện Trảng Bom, Đồng Nai, tôi gặp Văn Bửu. Đôi mắt anh buồn vời vợi, tôi mở đầu câu chuyện:

-Chào thầy Bửu, tôi biết thầy có tâm trạng buồn. Hãy nói đi, tôi đang muốn nghe câu chuyện của thầy và biết đâu tôi sẽ có lời an ủi thích hợp vào lúc này.

-À, tôi không nghĩ như vậy. Nỗi buồn của tôi không ai có thể chia sẻ được. Nó là của riêng tôi.

-Tôi đã nghe câu chuyện của thầy từ bạn bè trong Trường học. Tôi nghĩ thầy nên tha thứ cho Diệu Thu.

-Trong lúc này sự tha thứ có còn ý nghĩa gì không?

-Vô cùng ý nghĩa. Thiên Chúa đã tha thứ cho thầy, vì vậy thầy hãy tha thứ cho vợ của mình.

-Câu này tôi đã nghe anh chị em trong giáo xứ nói, nhưng hiện nay điều này đối với tôi là bất khả thi.

-Tại sao?

-Thầy không ở vào hoàn cảnh của tôi thì không thể hiểu được nỗi đau của tôi?

Là giáo viên cùng chung một thế hệ nên tôi không khó khăn lắm để gần gủi với Văn Bửu và lắng nghe từ đầu tới cuối câu chuyện của anh. Văn Bửu nói với một giọng trầm buồn, có lúc anh phải cố kiềm chế cảm xúc không cho phép những giọt nước mắt chực chờ tuôn ra:

Tôi yêu Diệu Thu từ khi cô ấy còn là một thiếu nữ tuổi mười lăm. Bốn năm sau đó chúng tôi kết hôn trong ngôi giáo đường này. Vì cô ấy tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả những bí tích, thánh lễ từ yêu cầu của Giáo hội, mặc dù tôi xuất thân từ một gia đình không có đạo. Hai năm sau chúng tôi đã có với nhau đứa con đầu tiên và đó cũng là lúc tôi bắt đầu nghi ngờ mối quan hệ trên mức bình thường của vợ tôi với nhạc sĩ Đức Trung ở giáo xứ này. Diệu Thu tham gia vào ca đoàn phụ nữ của nhà thờ, Đức Trung tập hát và đánh đàn cho ca đoàn. Tình cảm của họ phát sinh trong những lần gặp nhau và tôi biết vợ tôi cũng có một cảm tình đặc biệt dành cho ông nhạc sĩ tài năng này. Tình cảm đó có vượt qua sự cho phép của Giáo hội hay không? Tôi nghĩ là rất có khả năng vợ tôi sẽ trượt chân trong mối quan hệ đó. Và điều tôi lo sợ đã thực sự xảy ra. Trong lòng tôi oán hận cả hai người. Vợ tôi đã cắm cho tôi một cái sừng, còn ông nhạc sĩ kia là kẻ đâm sau lưng tôi. Nỗi buồn này ai có thể chia sẻ với tôi?

Tôi thẫn thờ khi nghe những lời trần tình từ anh bạn đồng nghiệp đáng thương. Trong cuộc sống của mỗi người luôn có những nỗi đau, và đối với Văn Bửu thì nỗi sầu khổ này quá lớn. Anh vẫn còn yêu vợ của mình mặc dù biết rằng cô ấy đã có thêm một người đàn ông khác trong cuộc đời. Tôi đưa ra một lời đề nghị:

-Tôi muốn tìm kiếm một giải pháp thích hợp cho câu chuyện của thầy. Trong đêm giao thừa của Tết dương lịch sắp tới mời thầy đến nhà tôi uống ly trà cuối năm, cùng đón năm mới, hy vọng là chúng ta tiếp tục thảo luận với nhau về câu chuyện này và tìm ra một hướng đi nào đó.

-Vâng, tôi sẽ cố gắng đến.

Văn Bửu đến nhà tôi vào 10 giờ tối hôm ấy. Các anh em trong nhóm cầu nguyện của hội thánh cũng đang ở đó trong một buổi cầu nguyện đặc biệt cho khởi đầu của năm mới 2010. Mục sư Nguyễn Phi Bình từ Quận 8, Sài Gòn ra thăm chúng tôi trong buổi nhóm ấy, ân cần nói chuyện với Văn Bửu:

-Chào anh, thầy giáo Minh có nói sơ qua về anh với tôi. Tôi muốn đọc cho anh nghe vài câu Kinh Thánh. Anh có muốn nghe không?

-Vâng, xin mời mục sư.

-Câu thứ nhất ở Phúc Âm Giăng 3:16, “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời”. Câu này bảo đảm cho mọi người là hễ ai tiếp nhận Chúa Jesus, là Con của Đức Chúa Trời vào lòng, người đó sẽ nhận lãnh sự sống đời đời. Anh có muốn nhận lãnh sự sống này không.

-Dĩ nhiên, tôi muốn.

-Và còn nữa, câu thứ 2 là đây, tôi mời anh hãy đọc câu này: “Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta” (Khải huyền 3:20). Trong câu này Chúa Jesus đang mời gọi anh mở cửa lòng ra để mời Ngài bước vào. Khi Chúa được mời, Ngài sẽ vào trong tấm lòng của anh, kết bạn thâm giao với anh. Anh có muốn Chúa Jesus trở thành thiết hữu của anh không?

-Tôi muốn.

Đọc thêm vài câu Kinh Thánh khác, mục sư Bình hướng dẫn Văn Bửu dâng lên lời cầu nguyện ngay sau đó:

Lạy Thiên Chúa hằng sống. Tạ ơn Ngài đã đến thế giới này làm một con người và chết thay cho tội lỗi của con trên thập tự giá. Con xin mở cửa tâm hồn con tiếp nhận Ngài bước vào làm Cứu Chúa của con kể từ hôm nay. Xin tha tội cho con vì bấy lâu nay con sống mà không có Ngài. Con xin giao nộp thân, hồn, linh của con cho Ngài. Nguyện xin Ngài làm chủ cuộc đời con mãi mãi và hướng dẫn các bước con đi tiếp theo. Con thành tâm cầu nguyện nhân danh Chúa Jesus Christ. Amen.

Khác với những trải nghiệm trước đây mà Văn Bửu đã từng có, một cảm giác bình an đến lạ lùng trào dâng trong tâm hồn anh sau lời cầu nguyện.

Chúng tôi ngồi lại thành một vòng tròn nhỏ đón giao thừa bên cạnh những tách trà nóng và bánh ngọt. Văn Bửu được mọi người khích lệ bằng những lời động viên đầy tình yêu thương để khởi đầu một đời sống mới với Chúa Jesus. Trước khi chia tay, mọi người đặt tay cầu nguyện cho Văn Bửu, đặc biệt là xin Chúa ban cho anh sự hướng dẫn từ Đấng Khôn Ngoan để anh có thể bày tỏ tình yêu và sự tha thứ cho Diệu Thu.

Bên ngoài trời cuối Đông se lạnh, nhưng trong phòng khách hơi ấm của tình yêu thương lan tỏa. Khuôn mặt Văn Bửu dường như sáng rỡ ra sau khi cầu nguyện. Mọi người có thể thấy ánh mắt anh lấp lánh một niềm tin yêu mới. Đêm nay thật là một đêm đặc biệt!

Văn Bửu trở về phòng trọ lúc hai giờ sáng, đầu óc hoàn toàn tỉnh táo và anh không thấy buồn ngủ chút nào. Anh nghĩ đến những điều sẽ chờ đợi anh trong năm mới này. “Xin Chúa dẫn dắt con trong mỗi chi tiết của đời sống, đặc biệt là trong cách mà con sẽ thể hiện với Diệu Thu”. Anh thầm dâng lên lời cầu nguyện với Chúa.

Văn Bửu bắt đọc đầu Tân Ước một cách thích thú như chưa bao giờ đọc trước đây. Ánh sáng thiên thượng tràn vào lòng anh. Càng đọc anh càng cảm nhận những gì lời Chúa dạy thật quá nhiệm mầu. Đức Thánh Linh và Lời Chúa đã đem đến sự chữa lành cho linh hồn anh. Văn Bửu như được lột xác trở thành một con người mới. Trong tư tưởng của anh có một sự thay đổi kỳ lạ. Từ chỗ là một người cay đắng, đầy oán hận với những ai đã làm anh đau khổ, Văn Bửu đã thay đổi trong ánh sáng của Lời Chúa để trở nên một người đầy ắp tình yêu thương. Quyển Kinh Thánh Tân Ước đã giải phóng anh ra khỏi những ý tưởng truyền thống, chật hẹp cố hữu.

Văn Bửu quyết định trở về sau khi anh được Chúa biến đổi. Giã từ phòng trọ anh về nhà gặp lại Diệu Thu vào một buổi sáng mùa Xuân:

-Anh thông cảm và bỏ qua mọi chuyện trước đây em đã gây ra.

Diệu Thu mở to đôi mắt, dường như không tin vào những lời cô ấy đang nghe:

-Anh tha thứ cho em sao?

-Vâng anh tha thứ cho em tất cả về những gì em gây ra, vì Lời Chúa đã biến đổi anh.

Diệu Thu rất tò mò muốn biết điều gì đã xảy ra trong tâm hồn Văn Bửu:

-Lời Chúa biến đổi anh như thế nào?

-Trước đây anh chưa bao giờ đọc Tân Ước một cách nghiêm túc, những gì anh học được chỉ là những giáo điều, nghi lễ của giáo hội. Nhưng từ khi anh thật sự có Chúa Jesus thì tâm hồn anh đã hoàn toàn thay đổi. Anh đã hiểu thế nào là lời cầu nguyện: Xin tha tội lỗi cho chúng tôi, như chúng tôi cũng tha kẻ phạm tội nghịch cùng chúng tôi (Ma-thi-ơ 6:12). Vì thế anh sẵn sàng tha thứ cho em và tất cả những ai đã làm tổn thương anh.

Diệu Thu ngỡ ngàng như ở trong cơn mơ. Những giọt nước mắt tự động tuôn ra trên khuôn mặt xinh đẹp của nàng:

-Cảm ơn anh đã tha thứ cho em. Từ khi anh bỏ nhà đi, em đã không ngủ được suốt mấy tuần lễ sau đó. Trong thao thức, trằn trọc em biết mình đã trượt chân và lún sâu vào tội lỗi. Em cầu mong anh trở về và cho em nói lời xin lỗi. Thực ra một lời xin lỗi của em cũng không thể chữa lành trái tim tan vỡ của anh. Nhưng chắc chắn là em rất muốn anh hãy tha thứ cho em. Từ khi anh ra đi, nhạc sĩ Đức Trung đã dời nhà về Bình Dương và nghe đâu ông ấy cũng đã tục huyền, an phận với một người phụ nữ khác.

Cả hai vợ chồng ôm chầm lấy nhau trong những giọt nước mắt cảm thông hạnh phúc. Ai ngờ gương vỡ lại lành! Ngoài kia nắng ấm cũng vừa lên như reo vui trong ngày tái hợp.

Nhờ ân điển Chúa, Văn Bửu không mất đi người vợ yêu dấu của mình. Tình yêu của anh dành cho Diệu Thu vẫn như một bát nước đầy sau khi trải qua cơn sóng gió.

DAVID LINH ÂN

401 lượt xem tại: http://www.songdaoonline.com/e2708-tinh-van-con-day-david-linh-an-bai-chon-dang-so-75-.html

TIN MỤC VỤ

Trong đợt mục vụ tại Giáo khu Cần  thơ vào 2 ngày 01 và 02 thang 3 vừa qua, khi xe chúng tôi đến nơi các tôi tớ Chúa đã chuẩn bi xe honda đưa Ban Điều hành chúng tôi đến phòng nhóm của Hội thánh Tin lành Liên Hiệp Thới Tân 1, Huyên Thới lai.
Tay bắt mặt mừng chúng tôi bắt đầu ngay buổi làm việc với các Giáo khu sau khi Ms giáo khu trưởng cầu nguyện.
Muc sư hội trưởng công bố các HT thuộc các Giáo khu như sau:I/ Giáo khu Thới Lai 1 gồm các HT sau:1/ HTTLLH Thới Tân 1
Nữ TĐ Nguyễn Hoa Tươi QN .
2/ HTTLLH Thới Tân 2
TĐ Lê Thanh Hồng QN.
3/ HTTLLH Đông Thuân2
Nữ TĐ Lê Thi Thu QN.
4/ HTTLLH Đông Hiệp 2
Nữ TĐTS Lý Thi Huế Phụ trách .
5/ HTTL LH Thới Tân 3
TDTS Nguyễn Văn Cửu Phụ trách.II/ Giáo khu Thới Lai 2 gồm các HT:1/ HTTLLH Đông Thuận 1
MSNC Nguyễn Thanh Hồng QN .
2/ HTTLLH Đông Bình 1.
TĐ Nguyễn Văn Giáo QN.
3/ HTTLLH Đông Bình 2
TĐ Trần Văn Hoàng QN.
4/ HTTLLH Trường Xuân 1
TĐ Trần Văn Chánh QN

III/ Giáo khu Cờ đỏ gồm các HT:

1/ HTTLLH Đông Thắng 1
TĐ Nguyễn Văn Tình QN.
2/ HTTLLH Đông Hiệp 1
TĐTS Nguyễn Chí Tâm Phụ trách
3/ GTTLLH Trung Hưng 1
TDTS Nguyễn Thanh Hồng Phụ trách.
Ms Phó Hội Trưởng Nội vụ Lương Thời cầu nguyện cho các Giáo khu được sức mới Từ nơi Chúa để Phuc sự Ngài.

Ms Hội Trưởng Nguyễn Đức Na dùng lời Chúa ở Rô ma 20:28 ” Anh em hãy giữ lấy mình,và luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập Anh em làm kẻ coi sóc,để chăn hội thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình.” để nhắc nhở các tôi tớ Chúa 2 ý :
Ý thứ nhất:
Anh em đã tình nguyện nhận lấy sự kêu gọi của Chúa và Đức Thánh Linh đã lập Anh em làm người chăn bầy. Giáo hội chỉ xem xét để công nhận chức vụ coi sóc bầy chiên của Anh em.hổ trợ giúp đở và Liên kết Anh em để thực hiện Khải tượng mà Anh em đã nhận từ nơi Chúa.

Ý thứ hai:
Hội thánh là bầy của Chúa mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình và chính Ngài lập nên Hội thánh Ngài trên vầng đá muôn đời. Như Anh em đã biết Giáio Hội Tin lành Liên Hiệp Toàn Cầu- Việt nam đã nhận được sự soi sáng của Đức Thánh Linh nên không bao giờ có ý nghĩ dùng tiền bạc hay vật chất đời này để mua chuộc HT.
Nhưng thật đáng buồn có những con người mang danh hầu việc Chúa mà dùng tiền bạc, vật chất, nhất là đồng tiền nước ngoài, đi mua chuộc Hội thánh để kinh doanh kiếm lời.
Về phần Anh em, tôi cãm tạ Chúa, vì Anh em đã từ bỏ con đường cũ, không  để cho kẻ Buôn thần bán thánh lợi dụng mà đem HT của Chúa mua bán nữa .
Những kẻ dùng Hội thánh Chúa mà Ngài đã mua bằng chính huyết minh đi mua bán thì sẽ phải trả bằng chính huyết của họ.
Hãy cẩn thận!

Phần tiếp theo là phân công các chức viên trong Ban ĐH GH tham dự buổi thờ Phượng Chúa vào sáng Chúa nhật 2/3/2014 với các Hội thánh địa phương để ” biết sự tình ” cả thuộc Thể lẫn thuộc linh nhu sau:

MS Phó Hội trưởng Nội vu Lương Thời Về các HT:

1/ HT TL LH Trường Xuân 1.
2/ HTTLLH Thới Tân 3

MS Phó HT Tài chánh Về các HT:

1/ HTTLLH Đông Thuận 1.
2/ HTTLLH Đông Thuận 2

MS TTK Về các HT:

1/ HTTLLH Thới Tân 2
2/ HTTLLH Thới Tân 1.

MS Hội trưởng vê các HT:

1/ HTTLLH Đông Thắng 1.
2/ HTTLLH Đông Hiệp 1.

Truyền đạo Lê Thanh Hồng cầu nguyện kết thúc Buổi  họp mặt và bày tỏ lòng vui mừng được mời Ban Điều Hành Giáo Hội và toàn thể tôi tớ Chúa về HT Thới Tân  2 dùng bửa tối cháo và gỏi vịt thật ngon trong tinh thần hiệp một.

securedownload

Hình chụp tại HTTLLH Thới Tân 1.
Hàng ghế đầu là Ban ĐHGH.
Hàng đứng phía sau từ trái qua phải:
TĐ Nguyễn Văn Tình, TĐ Trần Văn Chánh, TĐTS Nguyễn Văn Cửu,TĐ Nguyễn Văn Giáo, TĐ Trần Văn Hoàng, MSNC Nguyễn Thanh Hồng, TĐ Lê Thanh Hồng,NTĐ Lê Thị Thu. NTĐ Nguyễn Hoa Tươi, NTĐTS lý Thị Huế.

Một vài hình ảnh thờ Phượng Chúa ơ các HT  địa phương.

securedownload (1)

photo
WP_001068

Bữa ăn thân mật của BĐH GH và các nhân sự

Sau khi thờ Phượng Chúa với các HT địa phương ban ĐHGH và các Giáo khu trưởng tập họp tai HTTLLH Đông Thuân1 cùng nhau dự bửa cơm trưa do Ban ĐH GH chiêu đải.
Chia tay nhau ra về các tôi tớ Chúa cầu nguyện cho chuyến hành trình trở về của BDH với đoạn đường trên 400 km.

CẦU NGUYỆN CHUẨN BỊ XÂY DỰNG PHÒNG NHÓM MỚI

Trong dịp vê thờ Phượng Chúa với các HT địa phương, Muc sư Hội trưởng cũng là Sáng lập viên và là Trưởng Đoàn Từ Thuện Joseph đã quyêt định hổ trợ cho HTTLLH Thới Tân 1 vật liệu gạch, cát và xi măng để xây các bức vách của phòng nhóm thay cho vách bằng tôn cũ hầu cho phòng nhóm được sạch sẽ khang trang và ấm áp hơn.
Đoàn Từ Thiên Joseph cũng đã hổ trợ vật liệu để HTTLLH Đông Bình 2 tu sửa phòng nhóm. Nền được lót gạch sãh sẽ , mái được lợp lai để khỏi bị mưa dột và phòng nhóm được biệt riêng cho sự thờ Phượng Chúa.

Đoàn từ thiện Joseph đồng công cùng Giáo hội cũng đang cầu nguyện xin Chúa tiếp trợ để có thể hổ trợ cho HTTLLH Đông Thuận 1 xây dựng một phòng nhóm riêng biệt để thờ Phượng Chúa và cũng sử dụng cho viêc Huấn luyện kinh thánh, muc vụ cũng như bồi linh , Hiệp nguyện cho Liên giáo khu.

Ước ao trong năm nay HT Đông Thuận 1 sẽ thuc hiên được dự án này.

Trước đây chúng tôi cũng đã có bài viết nhan đề: CHUNG TAY XÂY DỰNG NHÀ NGUYỆN ĐÔNG THUẬN, CẦN THƠ tại trang web:

http://hoitinlanhlienhiep.com/?p=860

(Quí vị có thể xem lại bài này để có đầy đủ thông tin)

TTV Hướng Dương.

BƯỚC ĐƯỜNG CỦA BA RÁC

Đê-bô-ra được Linh Đức Giê-hô-va cảm thúc hát: “trong ngày Sam-ga, con trai A-nát và nhằm lúc Gia-ên, các đường cái đều bỏ hoang, những hành khách nương theo các lối quanh quẹo, trong Y-sơ-ra-ên thiếu các quan trưởng cho đến chừng ta là Đê-bô-ra chổi dậy như một người mẹ trong Y-sơ-ra-ên”.
Nhà bà Đê-bô-ra ở trong vùng đồi núi Ép-ra-im ở giữa khoảng Bê-tên và Ra-ma. Ra-ma này là quê hương của tiên tri Sa-mu-ên, nằm trên đường ranh giới chi phái Ép-ra-im và Bên-gia-min. Ra-ma cách Giê-ru-sa-lem 6 dặm về phía Đông Bắc, còn Bê-tên cách Ra-ma 5 dặm về phía Bắc.

Bà Đê-bô-ra ngồi dưới gốc cây chà là (kè) Đê-bô-ra để xét đoán dân chúng đến cùng bà. Thi thiên 92: 12 chép: “người công bình sẽ thịnh vượng như cây kè, đầy nhựa sống và xanh tươi”. Nữ tiên tri Đê-bô-ra giống như cây kè  cung cấp trái ngọt và bóng mát cho dân thánh đang bị ngoại bang chà đạp hung tàn.

Là tiên tri, lẽ tự nhiên Đê-bô-ra thường nhận được các sự khải thị từ Đức Chúa Trời và lời hiện hành của Ngài để giải đáp mọi nan đề và cấp dưỡng dân thánh. Công việc thường xuyên của bà là gì? Kinh thánh chép: “trong lúc đó Đê-bô-ra, nữ tiên tri … đã xét đoán dân Y-sơ-ra-ên”. Rõ ràng Đê-bô-ra là quan xét, là quyền bính của Đức Chúa Trời trong thời kỳ đó.

Kinh thánh chép “dân Y-sơ-ra-ên lên đến cùng người, đặng nghe sự xét đoán” Dân 27: 21 chép: “người phải ra mắt Ê-li-a-sa, thầy tế lễ, rồi người (Ê-li-a-sa) sẽ vì Giô-suê cầu hỏi sự xét đoán của U-rim trước mặt Đức Giê-hô-va”. Trong cả hai trường hợp từ liệu “sự xét đoán” có thể dịch là “phán quyết”. Cảm tạ Chúa, dù dân chúng thường xuyên chống đối, nhưng các tiên tri Đức Chúa Trời vẫn cứ xét đoán dân chúng, vẫn đưa ra các phán quyết do khải thị thần thượng soi dẫn. Phao-lô nói: “tôi tỏ ý kiến (sự quyết định tư pháp) như kẻ đã được thương xót để làm người đáng tin” (I Cô 7: 25). Anh em có thể tin nỗi các quyết định tư pháp của các tiên tri quyền bính chăng?

“Bà đã sai (người) và gọi Ba-rác, con trai A-bi-nô-am từ Kê-đe trong đất Nép-ta-li đến…”. Do phán quyết Chúa ban cho, Đê-bô-ra sai người kêu gọi Ba-rác từ Kê-đe đất Nép-ta-li đến ứng hầu trước mặt Đức Giê-hô-va tại cây kè Đê-bô-ra.

Theo Giô-suê 21: 32, Kê-đe của chi phái Nép-ta-li, xứ Ga-li-lê là thành của con cháu Ghẹt-sôn. Có thể Ba-rác là người Ghẹt-sôn, chi phái Lê-vi chăng. Bước chân đầu tiên của Ba-rác là phải vâng lời quyền bính đại biểu của Đức Chúa Trời, đến ra mắt bà tại núi Ép-ra-im. Với kinh nghiệm bản thân, tôi thấy sự khải thị từ người Đức Chúa Trời đều phải đưa chúng ta lên cư trú miền đồi núi. Núi Ép-ra-im là vùng núi chế ngự cả khu trung bộ xứ thánh. Dù anh em có sống trong Kê-đe, thành ẩn náu – cứu ân của Christ – ở bước đầu, anh em cũng cần lên miền núi khi người Đức Chúa Trời kêu gọi anh em.

Đê-bô-ra nói cùng Ba-rác: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã truyền lịnh này, hãy chọn đem theo ngươi một vạn người trong con cháu Nép-ta-li và trong con cháu Sa-bu-lôn”. Trước sự dâng mình của Ba-rác và các quan tướng các cấp, Đê-bô-ra hát: “khá ngợi khen Đức Giê-hô-va vì những quan trưởng đã cầm quyền quản trị trong Y-sơ-ra-ên và bá tánh dâng mình cách vui lòng … Lòng ta ái mộ các quan trưởng của Y-sơ-ra-ên, là những người trong dân chúng dâng mình cách vui lòng, đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va”. Đê-bô-ra là quyền bính quyết định, Ba-rác là quyền bính chấp hành.

“Vậy Đê-bô-ra đứng dậy đi cùng Ba-rác đến Kê-đe, Ba-rác nhóm hiệp người Sa-bu-lôn và người Nép-ta-li tại Kê-đe, có một vạn người đi theo sau người, và Đê-bô-ra cũng đi lên với người”. Điều bất năng mà các tôi tớ Đức Chúa Trời thường gặp là khó nhóm họp, vận động dân Chúa đi vào phương án của Chúa. Tôi tớ thành công của Đức Chúa Trời là người có thể vận động mọi người một ta-lâng, đưa mọi chi thể của Thân Thể Christ đi ra làm việc. Theo Giô-suê 20: 7, Kê-đe nằm trên núi Nép-ta-li, núi của xứ Ga-li-lê.

Ba-rác được sinh trưởng trong thành Kê-đe, trên núi Nép-ta-li- cứu ân hoàn bị của Đức Chúa Trời, cao như đỉnh núi – nhưng ông phải trải qua núi Ép-ra-im, dưới bóng cây chà là, nhận lãnh và am hiểu các tư tưởng, các khải thị của Chúa, mà đối với Ba-rác, chúng cũng cao như núi Ép-ra-im. Rồi đỉnh núi cuối cùng Ba-rác phải theo chân Đê-bô-ra cùng bước lên với cả đoàn tinh binh đến là Tha-bô.

Đê-bô-ra truyền lịnh của Chúa: “Hãy chọn đem theo người một vạn người trong con cháu Nép-ta-li và trong con cháu Sa-bu-lôn mà đi thẳng đến núi Tha-bô”.

Theo Giô-suê 19: 22, núi Tha-bô thuộc về chi phái Y-sa-ca. Chúa truyền Ba-rác mộ quân từ Nép-ta-li và Sa-bu-lôn, còn các bậc chỉ huy thuộc hạ của Ba-rác lại từ chi phái Y-sa-ca, vì Đê-bô-ra hát: “Các quan trưởng của Y-sa-ca đều theo Đê-bô-ra, Y-sa-ca và Ba-rác đồng một ý nhau”. Địa hình, địa vật núi Tha-bô và trũng Ki-sôn ở dưới núi các vị quan tướng đó đều quen thuộc. Tha-bô-và chiến trường Ki-sôn không gì khác hơn là sự kinh nghiệm tình trạng chiến tranh thuộc linh trong đời sống của các Đê-bô-ra và Ba-rác hiện tại.

Bọn tà linh có báo cáo cho Sa-tan khi thấy anh em và hội thánh đã lên Tha-bô thuộc linh rồi chăng? Kinh thánh chép: “người ta thuật lại cho Si-sê-ra hay rằng Ba-rác … đã đi đến núi Tha-bô”. Và khi hội thánh đăng quang, chiếm các địa vị thuộc linh, các nơi cao trên trời trong Đấng Christ.

Người Đức Chúa Trời luôn thấy trước chiến thắng và các tôi tớ Chúa luôn đánh thắng Sa-tan từ địa vị đã đắc thắng, còn Sa-tan vốn đã bị phế thải nên thường bị động và co cụm. Chúa phán trước cùng Ba-rác lúc còn ở núi Ép-ra-im “ta sẽ khiến Si-sê-ra … đến cùng ngươi tại khe Ki-sôn, luôn với các xe cộ và quân lính của hắn, ta sẽ phó hắn vào tay ngươi”.

Khi giờ hành động đến, nữ tiên tri Đê-bô-ra hạ lệnh cho Ba-rác: “hãy đứng dậy vì nầy là ngày Đức Giê-hô-va phó Si-sê-ra vào tay ngươi. Đức Giê-hô-va há chẳng ở đằng trước người sao”.

Cám ơn Chúa, rồi Ba-rác đi xuống núi Tha-bô, có mười ngàn người đi theo. Đê-bô-ra mô tả chiến thuật đánh như vậy là: “Bấy giờ các kẻ còn sót lại trong dân đều xuống, đến cùng các tráng sĩ đặng ra trận, dân Đức Giê-hô-va xuống đánh kẻ dòng sĩ”. Hội thánh Đức Chúa Trời ngày nay ít kinh nghiệm lối cầu nguyện quyền bính, không chuyên tâm thực hành phụng sự Chúa từ địa vị đăng quang trên trời, trên bè lũ Sa-tan và dân chúng. Chúa Jesus phán về Ngài và những kẻ liên hiệp chặt chẽ với Ngài rằng: “Đấng từ trên mà đến là trên hết thảy, kẻ từ đất mà ra là thuộc về đất, và nói cũng thuộc về đất, còn Đấng từ trời đến thì trên hết thảy”. Đối với Đức Chúa Trời thánh khiết, Đấng Cứu chuộc, chúng ta cần thật nhận biết mình vốn là bụi đất, còn đối với Sa-tan và thế giới chúng ta phải tin cậy và phô diễn nguồn gốc thiên thượng, thần thượng của mình là giấu kín với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời.

Tóm lại, trong Kê-đe trên núi Nép-ta-li, Ba-rác hưởng cứu ân hoàn bị trong thành ẩn náu, Ba-rác lên núi Nép-ta-li nhận các khải tượng thuộc linh về nhu cầu Đức Chúa Trời và sự chiến bại của kẻ thù. Sau đó, ông cùng đoàn quân phải đứng trên núi Tha-bô phô diễn sự toàn thắng của Chúa và mãi mãi kiềm chế, đè bẹp địch quân dưới lòng khe thấp thỏi.

Có ai dám bước theo bước chân của Ba-rác chăng? Xin Chúa dấy lên nhiều Ba-rác như vậy. Amen./.
Minh Khải

BÌNH MINH RỒI CŨNG ĐẾN

2014_02_08_pk775pth7je

Khi tiếng chuông nhà thờ vang lên thì cũng là lúc nó nhanh chân đến quán cà phê.  Ba nó là truyền đạo của một nhà thờ Tin Lành trong tỉnh Bình Định, thế nhưng nó chỉ có mặt ở nhà thờ mỗi năm có một lần, đó là thời điểm mà Hội Thánh tổ chức lễ Giáng sinh. Vì vậy mọi người gọi nó là tín đồ Nô-ên.

Nó ngồi đó trong một quán cà phê quen thuộc với đám bạn “nối khố” sống chết có nhau. Nhóm bạn của nó đánh cờ tướng, tán gẫu đủ mọi chuyện trong khi chủ quán mở dàn máy âm thanh với những bản tình ca thịnh hành của những năm 1980.

Cuộc sống của nó không khác gì cả so với những bạn bè bên ngoài nhà thờ. Bạn bè chơi gì nó chơi nấy. Bạn bè tới bến nó cũng tới bến luôn. Vậy là bó tay rồi! Cuộc đời nó xem như không còn thuốc chữa. Ba mẹ nó chỉ biết khóc trong sự cầu nguyện. Mọi lời khuyên đối với nó chỉ là đàn gảy tai trâu, nước đổ đầu vịt không có tác dụng gì. Mẹ nó vô cùng lo lắng cho tương lai của nó. Bà quyết định giới thiệu nó cho một người bà con có thế lực ở cao nguyên để tìm kiếm sự giúp đỡ. Dưới sự bảo trợ của người này nó được vào học tập ở Sở Thể Dục Thể Thao Lâm Đồng để trở thành cầu thủ dự bị cho đội bóng đá của tỉnh. Ba mẹ nó hy vọng trong môi trường mới này nó sẽ dành thì giờ rèn luyện thể lực và tập đá bóng. Biết đâu nhờ vậy nó sẽ giảm đi những thói hư tật xấu với đám bạn vô công rỗi nghề bên ngoài.

Cuộc sống không đơn giản như ba mẹ nó nghĩ. Từ một thiếu niên được huấn luyện, chuẩn bị trở thành cầu thủ dự bị, nó đã trở nên cầu thủ chính thức đá ở vị trí hậu vệ biên sau hai năm tham gia đội tuyển. Nó được mọi người trong đội bóng gọi là “Hùng Máy Ủi” vì có khả năng làm chiếc máy ủi cày nát hàng phòng vệ đối phương. Bây giờ nó trở nên nổi tiếng với tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh trong túi quần, ăn xài nhiều hơn trước vì đồng lương của một cầu thủ bóng đá như nó cũng khá hậu hĩnh.

Thỉnh thoảng nó trở về thăm gia đình trong cương vị của một thanh niên có vẻ như thành đạt. Nó là anh cả của năm đứa em, đứa út được gọi là bé Thùy Duyên chỉ mới sáu tuổi. Những lúc như vậy nó dẫn hết đám em của nó đi ăn bún cá Qui Nhơn rồi còn mua quà cho chúng nữa. Kể ra nó cũng là một người anh cả yêu thương các em của mình. Ba mẹ nhìn nó vừa mừng vừa lo, vì không biết được là linh hồn thằng này sẽ về đâu bởi vì từ khi vào đội tuyển bóng đá nó không hề đến nhà thờ.

Hùng Máy Ủi có một triết lý sống khá hiện sinh: Sống là phải hưởng thụ. Người ta biết gì thì nó phải biết nấy. Nó không muốn bị người khác coi thường là một thanh niên không biết ăn chơi. Đối với nó Tin Lành chỉ là một tôn giáo, như bao tôn giáo khác, không có gì đặc biệt. Mặc dù ba nó là truyền đạo, nhưng nó không cảm nhận được gì cả về con đường của ba mẹ nó đi. Thực ra nó cũng không được dạy dỗ nhiều từ gia đình, và những hấp dẫn của cuộc sống bên ngoài đã lôi kéo nó sống buông thả, tự do như bao thanh thiếu niên khác không có niềm tin vào một Thiên Chúa vĩnh hằng.

Những năm 1980 là quãng thời gian khó khăn cho nhiều người. Các Mục sư, Truyền đạo vừa lo công việc Hội Thánh vừa lo kinh tế gia đình. Các Hội Thánh nhỏ lúc bấy giờ không đủ sức cấp dưỡng cho các Mục sư quản nhiệm. Ngay cả Mục sư phụ trách nhà thờ chính của thị xã Qui Nhơn cũng phải làm thêm nhiều việc bên ngoài để có thể tồn tại. Ba nó là Truyền đạo, thư ký của Hội Thánh Qui Nhơn đồng thời cũng là một thợ may. Mẹ nó bán từng ly kem ở một góc phố kiếm tiền nuôi các em nó tới trường.  Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, nhưng cầu thủ Hùng có một cuộc sống với thu nhập khá lý tưởng. Nó có quyền hãnh diện với mọi người về chỗ đứng của nó trong xã hội. Với quần Jean, áo T-shirt, giày thể thao trông nó thật điển trai, dễ dàng lọt vào tầm nhìn của các em ngoài phố.  Cuộc sống bên ngoài của một cầu thủ thì không ai có thể kiểm soát được. Hùng là một cánh chim tự do bay lên trên bầu trời xanh với những tham vọng vô hạn của tuổi trẻ, nó hoàn toàn buông thả linh hồn của mình trôi theo chiều gió.

Vào một ngày cuối năm, nó được nghỉ phép, về nhà chuẩn bị ăn Tết với gia đình. Hôm ấy ba của Hùng có dịp nói nói chuyện riêng với nó:

-Hùng nè, năm nay con đã hai mươi lăm tuổi. Con nên nghĩ đến chuyện trở về với nhà Chúa và tính đến chuyện lập gia đình. Cuộc đời cầu thủ của con rồi sẽ chấm dứt khi tuổi càng ngày càng lớn.

-Ba nói vậy cũng được, có lẽ con nên tìm một cô gái nào đó trong nhà thờ. Bạn gái của con bên ngoài cũng có, nhưng tất cả giống như khách qua đường mà thôi.

-Dĩ nhiên là con trai của ba, con không thể lấy vợ bên ngoài được. Ba sẽ tìm cho con một cô gái xinh đẹp trong nhà thờ.

Hai năm sau đó Hùng Máy Ủi ra khỏi đội tuyển bóng đá vì tuổi đã lớn so với tiêu chuẩn hiện thời, và một phần phong độ của nó đã giảm sút nhanh chóng do rượu chè bên ngoài.  Nó trở về nhà, nhanh chóng kết hôn với Tiểu Mai, một nữ thanh niên xinh đẹp có một giọng hát khá hay của Hội Thánh Sông Cầu từ sự giới thiệu của một người quen trong Hội Thánh. Tiểu Mai không “kén cá chọn canh”, nhìn thấy Hùng cũng khá điển trai lại là con của một thầy truyền đạo nên đồng ý lấy nó. Hôn lễ của cặp đôi này được tổ chức đúng bài bản trong nhà thờ. Nhưng sau ngày cưới, Hùng cũng chỉ là tín đồ Nô-ên. Chuyện này không có gì lạ mặc dù nhiều năm trước đó nó được làm báp-tem một cách hình thức khi ở tuổi mười lăm.

Hùng bắt đầu cuộc sống gia đình bằng nghề đạp xích lô. Ba nó phân trần với mọi người:

-Lãnh đạo của đội tuyển không chấp nhận tính cách  ăn chơi, rượu chè của nó, nên khi ra khỏi đội tuyển nó  bắt buộc phải trở về nhà. Giá như mà nó là một cầu thủ đàng hoàng, thì khi hết ra sân cũng có thể được giữ lại trong Sở thể thao để học làm trọng tài biên hoặc trở thành một viên chức nào đó của Sở. Thôi thì bây giờ chấp nhận đạp xích lô để nuôi sống bản thân và vợ con.

Vậy là thời vàng son của nó đã đi qua.  Hùng Máy Ủi oai hùng, phong lưu ngày xưa trở thành Hùng Xích Lô. Sau một ngày đạp xe vất vả, người ta thấy nó trở về nhà chếnh choáng hơi men. Tiểu Mai rất xấu hổ vì chồng của mình như vậy. Những cuộc cãi vã giữa hai vợ chồng tăng dần theo năm tháng. Vào một buổi sáng kia, trước khi chồng mình đẩy chiếc xích lô ra khỏi nhà, Tiểu Mai nói với Hùng:

-Nè anh, chúng mình đã có con nhỏ, nếu anh tiếp tục uống rượu như thế sẽ làm gương xấu cho con sau này.

Hùng chống chế:

-Ừ, biết rồi, anh sẽ cố gắng.

Vào thời điểm này Hùng và Tiểu Mai đã có đứa con đầu lòng bốn tuổi được gọi là bé Thảo. Bé được lớn lên trong bầu không khí gia đình không êm ả và nó dường như nhạy cảm với những xung đột của ba và mẹ nó. Dù rất thương ba nhưng nó không thích lại gần ba nó với mùi rượu nồng nặc mỗi khi chiều về.

Lời nói của Hùng thường không đi đôi với việc làm, Tiểu Mai thừa biết là chồng mình chỉ nói cho qua chuyện thế thôi. Còn Hùng thì nói mà thực ra không biết là mình nói gì. Ma men đã đi sâu vào lòng của nó, tự bản thân nó không cách gì gỡ bỏ được. Thực ra Hùng bắt đầu uống rượu từ năm mười sáu tuổi. Thời kỳ đầu nó chỉ uống vài ly sương sương, rồi sau đó thì liều lượng nâng cấp dần theo năm tháng. Đến bây giờ vào tuổi ba mươi chín, chiều nào nó và hai đệ tử lưu linh khác cũng lai rai hết một lít rượu trắng. “Nam vô tửu như kỳ vô phong” là câu nói nằm trên cửa miệng của chúng nó. Đời sống chóng qua, đâu có ai biết được việc ngày mai, thôi thì mượn ly rượu tìm vui. Vui cũng uống, buồn cũng uống, không vui không buồn cũng làm vài ly, còn sống ngày nào là còn uống ngày ấy. Có thể nhịn ăn cơm nhưng không thể nhịn uống rượu. Có thể bỏ vợ con qua một bên nhưng không thể nào bỏ nàng ma men hấp dẫn đầy quyến rũ này. Hùng trở thành nô lệ cho ma men tự bao giờ!  Bây giờ nó là Hùng Xích Lô, nó chỉ có một niềm vui còn lại: mỗi khi chiều về phải uống vài ly, bên cạnh là đĩa mồi cá nướng hoặc gọn hơn chỉ cần một trái xoài cũng có thể chén tạc chén thù với anh em bè bạn. Cuộc đời thế là mãn nguyện. Có chết đi cũng chẳng ân hận gì. Cái triết lý của nó chỉ có chừng đó.

Rồi cái ngày đen đủi nhất của nó cũng đến. Một buổi chiều kia sau khi ngồi ở một vỉa hè uống rượu với đám bạn bè, nó xây xẩm mặt mày, lăn đùng ra và được đưa vào bệnh viện cấp cứu.

Nó được khám bệnh tổng quát, làm các xét nghiệm, chiếu X quang. Các bác sĩ kết luận thằng này bị ung thư gan và lao phổi thời kỳ cuối.

Vậy là hết, nó được thông báo là chuẩn bị tâm lý để ra đi. Nhiều lắm là hai tháng nữa nó sẽ phải nói lời vĩnh biệt với mọi người.

Hùng bàng hoàng khi biết mình sắp chết. Da thịt nó trở nên vàng như nghệ. Cuộc đời nó sẽ kết thúc ở tuổi bốn mươi sao?

Ung thư gan và lao phổi thời kỳ cuối là một căn bệnh truyền nhiễm. Hùng phải cách ly với mọi người. Không ai dám lại gần nó kể cả vợ con. Tiểu Mai vô cùng đau khổ.

May mắn cho Hùng là vẫn còn có một vài người thương nó. Cậu mợ nó là những người hầu việc Chúa biết được bệnh tình của nó nên vội vàng tới thăm:

-Hùng à, cậu mợ thấy rằng con nên quay về với Chúa. Dù con tội lỗi cỡ nào Chúa cũng tha thứ.

-Cám ơn cậu mợ, con sẽ chết trong vòng vài tháng nữa. Con muốn được trở về với Chúa, con cũng hy vọng Chúa sẽ tha thứ cho con.

Cậu mợ của Hùng hướng dẫn nó cầu nguyện tiếp nhận Chúa trở lại. Nó quì xuống ngay trên sàn nhà đơn sơ dâng lời cầu nguyện:

Lạy Đức Chúa Trời hằng sống là Cha thương xót nhân từ. Xin Cha tiếp nhận con trở về sau bao nhiêu năm con đã chìm sâu trong vũng bùn lấm của tội lỗi. Xin tha tội cho con và nhận con làm con của Ngài. Con cầu nguyện trong danh Chúa Jesus. Amen.

Nó bắt đầu đi nhà thờ. Mọi người dành riêng cho nó một cái ghế biệt lập cuối phòng nhóm. Cả Hội Thánh nhìn nó thương hại, nhưng không ai dám lại gần vì sợ bị lây nhiễm bệnh từ nó.

Cha mẹ, gia đình và cả vợ con không ai dám đến gần, Hùng đành phải đến nhà thờ tá túc để chờ đợi ngày ra đi về cõi vĩnh hằng. Một thằng bạn thân trước đây trong nhà thờ cho nó một tấm chiếu, một cái mền và một cái gối, nhờ vậy nó ngủ qua đêm trong một hành lang khuất của giáo đường. Anh chị em tín hữu thương tình cho nó thức ăn, một ít tiền tiêu vặt rồi nhìn nó thở dài ngao ngán.

Cũng có người nêu vấn đề cầu nguyện cho bệnh tình của nó. Nhưng không may mắn cho Hùng, sau khi được anh em trong Hội Thánh cầu nguyện, hoàn cảnh của nó vẫn y nguyên. Có người nói rằng với thằng này thì Chúa cũng đành thúc thủ. Thực ra sự chữa lành là một huyền nhiệm. Kathryn Kuhlman, tác giả quyển “Thượng Đế Còn Làm Phép Lạ”  cũng không biết tại sao một thiểu số người nào đó vẫn không thể nhận được sự chữa lành trong các chiến dịch truyền giảng của bà.

Đúng hai tháng sau kể từ ngày được chẩn đoán bệnh nó yếu dần đi, hơi thở chỉ còn thoi thóp. Cái chết đã cận kề.

Tiểu Mai và đứa con nhỏ lại gần nó trong giờ phút lâm chung. Hùng chỉ còn da bọc xương nằm đó, đôi mắt mở ra yếu ớt, hai tay chắp trước ngực và lí nhí dâng lời cầu nguyện.

Tiểu Mai không cầm được nước mắt. Bé Thảo bỗng khóc òa.

Hùng thở hắt ra một hơi cuối cùng rồi đầu nó lệch sang một bên.

Tiểu Mai đưa đôi tay run run vuốt mắt cho chồng.

Cuối Đông ngoài trời mưa phùn se lạnh.

Một bông hoa tàn tạ đến cuối đời được dâng về cho Chúa.

Bình minh cứu rỗi rồi cũng đến trên cuộc đời nó. Nhưng sau khi tiếp nhận Chúa thì cũng là lúc đời sống trên đất của nó đã hoàng hôn. Dù sao thì muộn cũng còn hơn không.

Sau một năm kể từ ngày Hùng ra đi, Tiểu Mai dẫn bé Thảo đến thăm mộ phần của chồng tại nghĩa trang Qui Nhơn và đặt lên đó một bó hoa. Bé Thảo bỗng dưng hỏi mẹ:

-Mẹ ơi giờ này ba đang ở đâu?

Tiểu Mai ngạc nhiên trước câu hỏi và trả lời ngập ngừng:

-Ba con đang ở trong một nơi gọi là Vườn Yên Nghỉ với Chúa.

-Mẹ ơi, trước lúc đi về Vườn Yên Nghỉ con có nghe ba cầu nguyện.

-Con nghe như thế nào?

-Ba cầu nguyện là: Lạy Đức Chúa Trời xin thương xót lấy con, vì con là kẻ có tội.

Tiểu Mai nhìn lên những đám mây bay lơ lửng trên bầu trời xanh. Một thoáng thẫn thờ!

Hai mẹ con trở về trong yên lặng. Tự dưng đôi mắt bé Thảo ươn ướt.


DAVID LINH ÂN

404 lượt xem 

NGUỒN: http://songdaoonline.com/e2701-binh-minh-roi-cung-den-david-linh-an-bai-chon-dang-so-73-.html

ROMANS 3

Romans 3

New International Version (NIV)

1  What advantage, then, is there in being a Jew, or what value is there in circumcision? Much in every way! First of all, the Jews have been entrusted with the very words of God.

What if some were unfaithful? Will their unfaithfulness nullify God’s faithfulness? Not at all! Let God be true, and every human being a liar. As it is written:

So that you may be proved right when you speak
and prevail when you judge.”[a]

But if our unrighteousness brings out God’s righteousness more clearly, what shall we say? That God is unjust in bringing his wrath on us? (I am using a human argument.) Certainly not! If that were so, how could God judge the world?Someone might argue, “If my falsehood enhances God’s truthfulness and so increases his glory, why am I still condemned as a sinner?” Why not say—as some slanderously claim that we say—“Let us do evil that good may result”? Their condemnation is just!

What shall we conclude then? Do we have any advantage?Not at all! For we have already made the charge that Jews and Gentiles alike are all under the power of sin. 10 As it is written:

“There is no one righteous, not even one;
11     there is no one who understands;
there is no one who seeks God.
12 All have turned away,
they have together become worthless;
there is no one who does good,
not even one.”[b]
13 “Their throats are open graves;
their tongues practice deceit.”[c]
“The poison of vipers is on their lips.”[d]
14     “Their mouths are full of cursing and bitterness.”[e]
15 “Their feet are swift to shed blood;
16     ruin and misery mark their ways,
17 and the way of peace they do not know.”[f]
18     “There is no fear of God before their eyes.”[g]

19 Now we know that whatever the law says, it says to those who are under the law, so that every mouth may be silencedand the whole world held accountable to God. 20 Therefore no one will be declared righteous in God’s sight by the works of the law; rather, through the law we become conscious of our sin.

21 But now apart from the law the righteousness of God has been made known, to which the Law and the Prophets testify.22 This righteousness is given through faith in[h] Jesus Christ to all who believe. There is no difference between Jew and Gentile, 23 for all have sinned and fall short of the glory of God, 24 and all are justified freely by his grace through the redemption that came by Christ Jesus. 25 God presented Christ as a sacrifice of atonement,[i] through the shedding of his blood—to be received by faith. He did this to demonstrate his righteousness, because in his forbearance he had left the sins committed beforehand unpunished— 26 he did it to demonstrate his righteousness at the present time, so as to be just and the one who justifies those who have faith in Jesus.

27 Where, then, is boasting? It is excluded. Because of what law? The law that requires works? No, because of the law that requires faith. 28 For we maintain that a person is justified by faith apart from the works of the law. 29 Or is God the God of Jews only? Is he not the God of Gentiles too? Yes, of Gentiles too, 30 since there is only one God, who will justify the circumcised by faith and the uncircumcised through that same faith. 31 Do we, then, nullify the law by this faith? Not at all! Rather, we uphold the law.

 

CÁC ĐIỂM NGỮ PHÁP ĐƯỢC NGHIÊN CỨU:

 

  1.  Jew và The Jews (trong câu 1, 2 và 22).

What advantage, then, is there in being a Jew, or what value is there in circumcision? (câu 1)

Much in every way! First of all, the Jews have been entrusted with the very words of God. (câu 2)

This righteousness is given through faith in Jesus Christ to all who believe. There is no difference between Jew and Gentile (câu 22).

 

Jew (n. sing): a person who believes in and  practises Judaism

The Jews (n. plu): those who believe in and  practise Judaism

Câu 1 và 2 có nghĩa là: Dường ấy, một người Do-thái có sự thuận lợi gì? Sự cắt bì có giá trị gì?  Nhiều hơn mọi đàng! trước hết là chính Lời của Đức Chúa Trời đã uỷ thác cho họ (những người Do Thái).

 

  1.                               2.  Will và  shall:

What shall we conclude then? Do we have any advantage?Not at all! For we have already made the charge that Jews and Gentiles alike are all under the power of sin (câu 9)

since there is only one God, who will justify the circumcised by faith and the uncircumcised through that same faith.  (câu 30).

 

Chúng ta xem Auxiliary verbs ( trợ động từ ) .SHALL và WILL được dùng trong câu 9 và câu 30. Chúng được dùng với một động Từ chính để tạo thành thì simple future ( tương lai đơn ).

Thì này được dùng để diển tả một hành động sẽ xảy ra trong tương lai.

Lưu ý:

Shall được dùng cho ngôi thứ nhất số it và số nhiều : I và WE.

Will được dùng cho các ngôi còn lại.

Chú ý:

Khi thể hiện một ý định chắc chắn trong tương lai như một lời hứa thì Will được dùng cho ngôi thứ nhất.

 

Đây là điếm ngữ pháp thuộc sơ cấp (elementary level).

 

(Shall and will cũng được dùng như là  modal verbs. ( biến cách động từ ). Chúng ta sẽ nghiên cứu trong những câu Kinh thánh sẽ gặp trong tương lai.

 

Chúng ta tham khảo các câu KT sau đây:

 

Matthew 6:31:

So do not worry, saying, “what shall we eat?”, or ” what shall we drink”, or ” what shall we wear?”.

Romans 6:1:

What shall we say, then? Shall we go on sinning, so that grace may increase?.

Corinthians 4:21:

What do you prefer? Shall I come to you with a whip, or in love and with a gentle spirit?.

Psalm 27:1:

The Lord is my light and my salvation- whom shall I fear?

The Lord is my stronghold of my life- of whom shall I be afraid?

 

Gen 12: 1-3

The Lord had said to Abram, “Go from your country, your people and your father’s household to the land I will show you.

 “I will make you into a great nation,
and I will bless you;
I will make your name great,
and you will be a blessing.[a]
 I will bless those who bless you,
and whoever curses you I will curse;
and all peoples on earth
will be blessed through you.

 

Câu 9 có nghĩa: Thế thì Chúng ta SẼ kết luận như thế nào? Người Do thái có gì khá hơn  dân tộc khác chăng? Không, chẳng có gì cả; vì chúng ta đã từng tố cáo rằng:  tất cả người Do-thái lẫn người Hi-lạp, hết thảy đều phục dưới quyền của tội lỗi.

Câu 30 có nghĩa: vì Đức Chúa Trời vốn là duy nhứt; Ngài SẼ do đức tin mà xưng nghĩa cho người chịu cắt bì, cũng sẽ do cùng đức tin đó mà xưng nghĩa cho người không chịu cắt bì nữa.

Note: Will, shall còn dùng trong những trường hợp khác như là Modal verbs và sẽ được đề cập trong những bài tới.

 

3. If – clause: ( mệnh đề điều kiện )

But if our unrighteousness brings out God’s righteousness more clearly, what shall we say? That God is unjust in bringing his wrath on us? (I am using a human argument.) (v 5).

Chúng ta thấy trong câu trên có mệnh đề điều kiện được bắt đầu với Từ ” if ” .

Động Từ trong mệnh đề if : ” brings ” ở thì simple

present; Động Từ ở mệnh đề chính ở simple future.

 

Đây là loại câu điều kiện có thật ( real condition ).

 

Ta có thể tóm lược như sau:

 

 

 
If clause.                    Main clause
simple present.             Simple future

 

 

Câu 5 có nghĩa là: Nhưng nếu sự bất nghĩa của chúng ta chứng tỏ sự công nghĩa của Đức Chúa Trời rõ ràng hơn, thì chúng ta SẼ phải nói làm sao? Đức Chúa Trời giáng thạnh nộ trên chúng ta thì Ngài há bất nghĩa sao? (Tôi nói theo cách người ta nói.)

 

4. Were – past subjunctive. ( điểm ngữ pháp này ở  intermediate level / Trung cấp)

 

Certainly not! If that were so, how could God judge the world? (v 6)

Chúng ta thấy trong mệnh đề điều kiện trên chủ ngữ ( subject ) là ” that ” số it mà động từ to be lai dùng ” were ”  và động Từ ở mệnh đề chính là ” could judge ”

Đây là loại câu điều kiện không thật ở hiên tại ( unreal/ Imaginary condition in the present ”

Were được dùng trong mệnh đề IF

là thì quá khứ của subjunctive mood ( quá khứ của Thể giả định) . Ta có thể nói gọn là past subjunctive.   “The meaning of the past subjunctive is not factual but counterfactual (e.g. [ I wishhe were hereIf I were you . . .) or tentative (e.g. I would be surprised if he were to do that). . . .

Were là past subjunctive được dùng cho tất cả các ngôi, số ít và số nhiều.

Câu 6 có nghĩa là:  Chắc chắn là không! Nếu như thế,  thì Đức Chúa Trời xét đoán thế gian thể nào?

Ta có thể summary như sau:

Unreal/ imaginary condition in present

 

If clause                Main clause

Past subjunctive      Conditional present

( were for to be). ( could+ bare infinitive )

Note : chỉ có to be có past subjunctive riêng; còn tất cả các động từ khác có past subjunctive giống như past simple .

Chúng ta tham khảo câu nói của Chúa Jesus nói khi Giu đa phản ngài ở

Matthew 26:24

“…The Son of Man will go just as it is written about him. But woe to that man who betrays the Son of Man! It would be better for him if he had not been born”.

Chúng ta thấy ” it would be better for him” :thật tốt hơn cho nó ( kẻ phản Chúa) nhưng sự thật không phải như vậy ( Giu Đa đã tự tử)

“If he had not been born ” nếu nó không được  sinh ra ( nhưng sự thật thì Giu Đa đã được sinh ra rồi.): Had not been born là past perfect subjunctive được dùng trong mệnh đề điều kiện không thật ở quá khứ.

SUMMARY: unreal condition in the past

 

If clause.                         Main clause

 

Past perfect subjunctive.    Conditional perfect

( had+ past participle).      ( should/ would + have+

past participle )

 

 

5. Objective complent.( advanced level)

Chúng ta thấy trong câu này động từ prove được dùng ở thể pasive và có một Objective complement ( ở active voice) và là subjective complement ở pasive voice.
So that you may be proved right when you speak
and prevail when you judge (V 4).

Câu 4 có thể viết lại: The very words of God may prove you right when you speak and prevail when you judge

Câu 4 có nghĩa là:… Để cho Chúa được chứng minh là đúng khi Chúa phán,
và chiếm ưu thế khi Ngài xét đoán.”

Trong English grammar có một số động từ ngoài direct object ra, nó còn có một Objective complement mới đủ nghĩa.

Trong câu trên RIGHT là Objective complement.

 

Trong đoạn 3 câu 21 cũng có cấu trúc câu tương tự: Từ known là subjective complement ( active) và Objective complement ( passive)

 

 

But now a rightousness from God, apart from the law, has been made known, to which the Law and the Prophets testify.(v 21).

Ta có thể đổi câu này sang active:

 

But now our God has made a righteousness from God known, apart from the Law, to which the Law and the Prophets testify.

Summary:  objective complement

 

Subject+ finite verb+ direct Object+ objective complement

Loại động Từ này gọi là loai transitive verbs of incomplete predication.
Notes: Objective complement  có thể là một adjective ,  a noun hay a bare infinitive.

Tham khảo

Active:

Jeremiah 6:27.   I have made you a tester of metals

 

Acts 2:35.      I make your enemies
a footstool for your feet

Passive:

Luke 14:34.  Salt is good, but if it loses its saltiness, how can it be made salty again?

 

Proverbs 20:28.   Love and faithfulness keep a king safe;
through love his throne is made secure.

Act 14:12

Barnaba they called Zeus, and Paul they called Hermes because he was the chief speaker.

Genesis 1:10

God called the dry ground ” land”, and the gathered water he called ” sea.”

Jonah4:6

Then the Lord God provided a vine and made it grow up over Jonah to give shade for his head to ease his discomfort.

 

Các bạn hãy đổi các câu KT trên qua thể ngược lại để xác định sư hiểu chắc chắn loại câu này.

 

 

(Còn tiếp kỳ sau)

 

 

Post Navigation