Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

CON VỀ NƯỚC CHÚA

Trong ngày đau buồn, một tôi tớ Chúa tham dự lễ tang đã nhắc “Bà làm một bài thơ cho con”. Đêm hôm đó trước ngày tiễn con đến nghĩa trang, phu nhân Mục sư hội trưởng đã làm bài thơ này và có đọc trong lễ di quang.

Lê Chi! Còn gì nữa đâu!
Con đã đi rồi, nỗi sầu đọng lại.
Các em con, vắng chị Hai,
Năm tháng trải dài ba mẹ xót xa!
Việt, Anh, khi mẹ vắng nhà
Lấy ai chăm sóc khi ra lúc nào.
Chồng con lo việc Chúa giao
Hằng ngày gánh vác, ai nào đỡ nâng?

Biết rằng nơi Thiên Quốc ấy,
Xa cách tạm thời con thấy nhớ mong
Nhưng con hãy cứ an lòng,
Bình an với Chúa, thong dong đây rồi
Chúa thương con gái đó thôi
Phục Sinh con đã vào đời bấy năm.
Giờ đây Chúa đã viếng thăm,
Phục Sinh con lại xa xăm gia đình.
Con đi giữa buổi bình minh,
Niềm vui Chúa sống, sao mình lại đau?!
Đời con phước hạnh lắm thay,
Người người quý mến tháng ngày xẻ chia.
Yêu thương nói mấy cho vừa,
Bình minh nơi ấy Cha đưa con về.
Thiên đàng vĩnh cửu là quê,
Đau thương chấm dứt con về nghĩ ngơi.
Cho hay muôn sự ở đời,
Chỉ là giấc mộng tạm thời đó thôi.
Nơi Thiên Quốc ấy xa xôi,
Con đang vui hưởng thảnh thơi linh hồn.
Hoa thơm cỏ lạ đẹp hơn,
Vì con yêu thích khi còn trần gian.
Chia tay lòng mẹ bàng hoàng,
Hôn con tạm biệt, vô vàn nhớ thương!
            
Khóc con, mẹ của con, Lê Mai.

ẢNH HUỞNG CỦA CƠ ĐỐC NHÂN

Những sử gia của Hội Thánh trên thế giới cho rằng có hai ảnh hưởng tích cực của Hội Thánh Hàn Quốc trên Cơ Đốc giáo thế giới, quý vị có biết hai điều đó là gì không ?

Thứ nhất là sự cầu nguyện vào buối sáng. Hiếm nơi nào trên thế giới có thể tìm thấy hình ảnh tín đồ dậy từ lúc bình minh để cầu nguyện. Nhưng tại Hàn Quốc thì nơi nơi đều có chương trình cầu nguyện buổi sáng. Hội Thánh Hàn Quốc ảnh hưởng tích cực trên Hội Thánh thế giới bằng đời sống cầu nguyện buổi Sáng.

Trên khắp thế giới, khó có thể tìm thấy những tín đồ dậy sớm cầu nguyện. Nhưng tại Hàn Quốc, cầu nguyện buổi sáng là một làn sóng đang dậy lên khắp nơi. Thông qua thì giờ cầu nguyện buổi sáng này, những lời cầu nguyện nài xin lên Đức Chúa Trời hằng sống sẽ dẫn đến sự chúc phước lạ lùng. Lòng sốt sắng cầu nguyện thông qua thì giờ cầu nguyện buổi sáng đang đóng vai trò xức dầu cho ngọn lửa cầu nguyện của Hội Thánh thế giới.

Thứ hai là KOSTA. Các nhà truyền giáo học của thế giới cho rằng không một nước nào trên thế giới mà lòng sốt sắng rao truyền Phúc âm ở cả trong nước và vươn tới du học sinh như Hàn Quốc. Khắp mọi nơi trên thế giới, khi hàng ngàn hàng vạn du học sinh bắt đầu nhóm lại, không chỉ du học sinh Hàn mà cả những người Hàn thế hệ 2 cũng bắt đầu nhóm lại. Họ nhóm lại cầu nguyện với ước mong Đức Chúa Trời sẽ hành động tại những khu vực họ sinh sống.

Năm 1986, 100 năm sau khi vị giáo sĩ đầu tiên mang Phúc âm đến mảnh đất này, vào một buổi sáng sớm Phục sinh năm 1885, tại Nhà dưỡng linh gần một cái hồ ở ngoại ô Washington, 250 sinh viên trẻ đã nhóm lại để chào đón sự ra đời của KOSTA.

Trong vòng 100 năm qua, Đức Chúa Trời đã ban cho hội thánh Hàn Quốc phước hạnh vô ngần thông qua chương trình cầu nguyện buổi sáng. Chúa đã cho HT Hàn quốc nếm trải những ân phúc lạ lùng mà các Hội Thánh khác trên thế giới không kinh nghiệm được. Trong ơn Chúa, HT Hàn quốc đã tổ chức được các trại bồi linh dành cho du học sinh – điều mà không một nước nào trên thế giới này có thể tưởng tượng được.

KOSTA được thành lập vào thời kỳ cực kỳ ảm đạm. Người ta tưởng rằng chỉ cần đánh đổ nhà độc tài duy tân, tức tổng thống Park Jung Hee, chỉ cần một nhà độc tài chết thì đất nước sẽ được dân chủ hóa ngay nhưng thực tế thì không phải như vậy. Bởi vì ngay sau khi Tổng thống Park Jung Hee bị ám sát, chính quyền của Chun Do Hwan – một kẻ tàn bạo hơn – lên nắm quyền. Thế hệ sinh viên vô cùng tuyệt vọng. Đó là thời kỳ mà vô số thanh niên tự thiêu. Chúng ta có thể lấy ngôn từ nào để diễn tả hết nỗi tuyệt vọng lúc bấy giờ ? Cứ như vậy, những người trẻ đã dần dần đánh mất niềm hy vọng. Đúng lúc ấy, Đức Chúa Trời đã dấy lên những đầy tớ của Ngài tại một buổi nhóm nhỏ tại ngoại ô Washington. Lúc ấy, chúng ta chưa hiểu hết ý nghĩa của buổi nhóm đó. Lúc ấy, chúng ta đã bắt đầu với một tấm lòng đơn sơ như vậy.

Thứ nhất, khải tượng của KOSTA, ấy là làm bùng lên lòng nhiệt thành ấy để cứu rỗi vô số những linh hồn hư mất, những linh hồn bị ruồng bỏ, những linh hồn cô độc, những linh hồn tự sát, những linh hồn sống không có Đức Chúa Trời, không có Chúa Giê-xu Christ. Đây chính là thập tự giá. Qua thập tự giá, chúng ta được cứu rỗi linh hồn và tội nhân được trở nên con cái Đức Chúa Trời.

Thứ hai, khải tượng thứ hai là phục vụ. “Bởi Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu-ca 19:10).

Vậy vai trò của KOSTA là gì ? vai trò của KOSTA là làm tròn đạo lý đức tin. Dù trong giới chính trị hay kinh tế hay văn hóa hay làm việc bất cứ việc gì, thành viên của KOSTA phải làm tròn nguyên tắc về niềm tin nơi Chúa Giê-xu, không phải vật lộn để rồi chỉ một mình ăn sung mặc sướng nhưng phải tin Chúa với mong ước “Bởi con, xin Chúa hãy chúc phước cho đất nước này ! Xin Chúa hãy chúc phước cho dân tộc này !”

Vai trò của Cơ Đốc nhân trong thời đại này là làm tròn đạo đức của một Cơ Đốc nhân. Làm tròn đạo đức của một người tin Chúa Giê-xu trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa…v.v. là rất quan trọng. Tức là, đạo lý đúng đắn của một Cơ Đốc nhân ấy là sống với tấm lòng khao khát vì mình mà cả dân tộc thay vì chỉ bản thân mình đều được phước.

Tiến xa hơn một bước, tại hội nghị của KOSTA tổ chức tại Nhật Bản năm nay, có tới 2000 du học sinh Hàn Quốc và 500 sinh viên Nhật Bản. Trong lịch sử Nhật bản, chưa bao giờ có hơn 300 du học sinh nhóm lại trong danh Chúa Giê-xu. Vậy mà khi mời, 500 sinh viên của Nhật đã nhóm riêng và khóc lóc cầu nguyện với Chúa “Nhật Bản cũng cần được Phúc âm. Nhật Bản cũng cần được Chúa Giê-xu làm chủ”. Nhưng KOSTA sẽ không dừng lại ở đó. Tôi cũng biết một tin vui là năm tới, sau khi KOSTA tại Mỹ kết thúc, du học sinh tại Trung Quốc cũng sẽ tổ chức chính thức một đại hội của riêng du học sinh tại Trung Quốc. Năm 1992 là năm đầu tiên tôi tham dự chương trình KOSTA. Tôi tin rằng cuộc gặp gỡ với KOSTA là ơn phước mà Đức Chúa Trời ban cho cuộc đời tôi. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng ơn phước ấy không phải là một sự ngẫu nhiên nhưng là sự đáp lời cầu nguyện. Những Mục sư thành lập KOSTA 18 năm trước đã thực sự gieo giống trong nước mắt. Họ không biết hạt giống ấy có lớn lên, có bị gió thổi bay đi hay không nhưng Chúa đã giúp họ trở về với những bó lúa trĩu nặng. Chưa hết, tôi tin rằng thông qua KOSTA, Chúa còn giúp họ gặt hái nhiều niềm vui hơn nữa.

LEE DONG WON (Theo Sự Thành Công Của Người Sống Ngay Thật)

Nguồn VietChristian.com

NÓ TRỞ VỀ

 2014_05_02_tubsz0ze5cj

-A lô, Minh Hưng online nhé?

-OK, Có ngay, tớ sẵn sàng.

Minh Hưng mở computer, webcam và online với nhóm bạn trên Internet. California sau 10 giờ tối.

Nhóm bạn của Minh Hưng trên khắp các tiểu bang ở Mỹ và châu Âu bắt đầu uống bia, ca hát online cho đến tận 3 giờ sáng. Chỉ một mình nó uống hết mười sáu lon Heineken.

Mệt, xỉn và ngã ra bộ xô-pha ngủ luôn cho đến 1 giờ chiều ngày hôm sau.

Cuộc sống quay vòng, ngày nào cũng như ngày ấy. Minh Hưng giống như một cái cối xay quay liên tục!

Có lúc hết tiền, nó ăn mì gói sống tạm qua ngày. Không có khả năng thanh toán hóa đơn tiền điện. Cúp điện, nhà tối om, âm u. Cuộc sống tưởng như tận cùng rồi. Ở Mỹ mà như thế này không chết cũng lạ.

Nhưng đó là cuộc sống thật của Minh Hưng. Nó là một thợ tiện ở Việt nam qua đây từ năm 2006. Năm ấy nó vừa 28 tuổi. Dễ nhận ra nó với một thân hình vạm vỡ không khác gì vận động viên điền kinh, trên ngực nó lủng lẳng sợi dây chuyền với một pho tượng Phật lấp lánh. Không khó lắm để nó tìm được việc làm  trong một công ty cơ khí, khi có tiền lương, nó bắt đầu ăn chơi.

Con đường hút chích ma túy trở nên gần gũi với nó. Nó quyết định chơi luôn, phải trải qua mọi cảm giác để biết thế nào là sung sướng cuộc đời.

Minh Hưng tham gia vào một đường dây vận chuyển ma túy liên tiểu bang. Bị bắt ở phi trường Los Angeles, Minh Hưng ra tòa và phải bóc hai cuốn  lịch trong nhà giam. Ai có thể cứu nó ra khỏi con đường tội lỗi?

Ra khỏi tù, ngựa quen đường cũ, Minh Hưng “vũ như cẩn”. Nó lại hút chích, uống bia, lái xe tông vào trụ điện. Trụ điện ngã, nó lái xe chạy tiếp. Bị cảnh sát bắt giam, rồi ra khỏi nhà giam nó vẫn là “yên hùng xa lộ”. Bó tay!

Gia đình, người thân, bạn gái lắc đầu ngao ngán. Không ai biết được tương lai của nó sẽ ra sao trên đất nước xinh đẹp này!

May mắn thay, nó còn có Út Trang giới thiệu về Chúa Jesus và mời nó đến một điểm nhóm tại miền Nam California. Chỉ có một nhóm nhỏ gồm sáu người gặp nhau hát Thánh Ca với một cây đàn Ghi-ta và học Kinh Thánh hằng tuần. Nó ngồi đó lơ mơ như một tân binh, nhưng rồi chẳng bao lâu nó cũng nhịp nhịp bàn chân, hát theo được với các anh chị em trong nhóm. Minh Hưng nghĩ thầm: “Cái này được đây, có ca hát là vui rồi”.

Sau khi ca hát, Minh Hưng nghe một phụ nữ chia sẻ Kinh Thánh. Mọi người giới thiệu bà ấy là vợ của mục sư Daniel Nguyen.

Bà Daniel Nguyen chia sẻ: Chúa Jesus phán, “Ta để sự bình an lại cho các ngươi; ta ban sự bình an ta cho các ngươi; ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi” (Giăng 14:27). Sự bình an mà Chúa Jesus ban cho chúng ta rất khác biệt với sự bình an giả tạo đến từ những thú vui, tiện nghi vật chất, hay tiền bạc kiếm được. Những gì của thế giới có thể làm cho con người vui thỏa trong chốc lát rồi cũng nhanh chóng qua đi. Bạn có một ô tô mới, vừa mua được căn nhà mới, hay là bạn tìm kiếm cảm giác mạnh trong hê-rô-in, cần sa, rượu, tình dục… Bạn như được lên cao trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng bạn không có sự bình an thật. Sự bình an bên trong mà Chúa Jesus ban cho con người thì không giống như vậy. ..

Minh Hưng nghĩ thầm: Đó chính là cuộc sống của mình. Làm sao để mình có được sự bình an thật đó?

Bà Daniel Nguyen chia sẻ chừng hai mươi phút. Tự dưng những góc khuất trong tâm hồn Minh Hưng được bày tỏ. Nó cảm nhận bà này đi guốc trong bụng của nó. Lạ thật, những gì Minh Hưng trải qua bà này đều biết. Minh Hưng thầm nghĩ: “Chắc bà này là một chuyên gia về tâm lý hay là bà ta có giác quan thứ sáu, biết được những bí mật bên trong của mình?”. Sau khi nghe bà Daniel Nguyen chia sẻ, nó muốn cầu nguyện tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa. Minh Hưng nói với Út Trang:

-Dì Trang ơi, cháu muốn cầu nguyện tin Chúa.

-Tạ ơn Chúa, chúng tôi sẽ hướng dẫn cho cháu.

Minh Hưng được bà Daniel Nguyen hướng dẫn cầu nguyện tiếp nhận Chúa Jesus Christ  làm Cứu Chúa. Sau khi cầu nguyện, một cảm giác bình an, nhẹ nhàng lần đầu tiên đến trong tâm hồn Minh Hưng. Chưa bao giờ nó cảm thấy thanh thản đến như vậy. Đó là một buổi chiều Chủ nhật đặc biệt trong cuộc đời của nó. Cảm giác và “khẩu vị” của nó  bắt đầu chuyển hướng từ đây.

Con đường thập tự đồng đi với Chúa không dễ dàng chút nào cho bất cứ ai. Hai tuần sau khi tin Chúa, Minh Hưng có giấy triệu tập từ tòa án. Trước đó nhiều năm, nó tham gia vào một đường dây vận chuyển ma túy trên khắp Hoa Kỳ. Nếu bị kết tội, nó có thể bị trục xuất về Việt Nam theo một điều luật của chính phủ Mỹ.

Không có tiền để thuê luật sư biện hộ. Tòa án  chỉ định cho nó một luật sư ngẫu nhiên. Nó ra Tòa với hai người làm chứng: Út Trang và cô bạn gái Linda Diem. Hai người này có trách nhiệm phải nói tốt về nó để hy vọng Tòa giảm án.

Gần đến ngày ra Tòa, Minh Hưng thưa với Chúa: “Xin Chúa cứu con, cho con ở lại Mỹ. Nếu bị trả về Việt Nam xem như con hết đường sống.”

Rồi cái ngày hồi hộp ấy đã đến, Minh Hưng đứng trước vành móng ngựa trả lời các câu hỏi của Tòa.

Vị công tố hỏi bằng Tiếng Anh những câu hỏi liên quan đến nhân thân, việc làm và động cơ của nó khi tham gia vào việc buôn bán ma túy. Minh Hưng không phải là người giỏi Tiếng Anh (nó chỉ là một công nhân bình thường, đâu có học hành gì nhiều), nhưng lúc đó không hiểu sao nó hiểu được tất cả các câu hỏi của quan tòa và trả lời trôi chảy. Thật kỳ lạ. Sau này Út Trang nhận xét dường như lúc đó nó trở nên thông minh đột xuất. Mọi người có mặt trong phiên tòa cũng ngạc nhiên trước khả năng tiếng Anh của nó.

Sau khi thảo luận chung trong giờ giải lao, các quan tòa quyết định tha bỗng nó. Minh Hưng được ở lại Mỹ. Điều này giống như một phép lạ!

Trắng án, Minh Hưng vui như mở cờ trong bụng. Nó còn một ít tiền, liền gởi về Việt Nam một trăm đô la, nhờ gia đình đem tới dâng hiến cho hội thánh Tin Lành gần nhà. Nó nghĩ cần phải có một của lễ cảm tạ dâng lên cho Chúa.

Út Trang và bà Daniel Nguyên tiếp tục giúp đỡ Minh Hưng trên con đường theo Chúa. Minh Hưng được học các bài học Kinh Thánh căn bản. Nó cũng làm quen với các bài Thánh Ca và cầu nguyện với Chúa Jesus Christ mỗi ngày.

Minh Hưng kinh nghiệm sự đổi mới trong ơn Chúa. Những gì nó đam mê trước đây không còn nữa. Giã từ ma túy, thuốc lá, bia, rượu, các mối quan hệ bất chính… nó như được lột xác từ một con sâu rọm xấu xí trở nên một con bướm xinh đẹp trong nắng mới ban mai.

Trưởng thành sau hai năm học Kinh Thánh ở California, nó trở lại Việt Nam trong một kỳ nghỉ ngắn và làm chứng về ơn phước Chúa tại Hội Thánh Phúc Âm Toàn Vẹn Sài Gòn:

-Tôi nguyên là một Phật tử, cứ tới ngày rằm hay mùng một là đi lễ chùa để cầu may. Tôi cầu xin trước các pho tượng cho tôi được sức khỏe, có việc làm  và kiếm được nhiều tiền trên đất Mỹ. Sau khi có được những thứ đó tôi bắt đầu ăn chơi, hút chích. Để có thêm tiền tôi tham gia buôn bán ma túy và các hóa chất chế biến ma túy. Tôi biết điều đó là phạm pháp, nhưng tôi bị cám dỗ bởi sức mạnh của đồng tiền và sự quyến rũ của “nàng tiên trắng”. Mỗi lần tiêm chích ma túy, cả con người tôi như được thăng hoa, cảm giác đó rất tuyệt vời. Còn những lúc thiếu chất hê-rô-in tôi phờ phạc như người mất hồn. Cuộc sống của tôi là hưởng thụ và đi tìm những khoái cảm trong những thú vui trần tục. Nhưng sau khi đã thử qua rất nhiều điều trong thế giới của ăn chơi, hút chích, hưởng thụ… tôi vẫn cảm thấy một nỗi trống vắng hụt hẫng sâu xa trong tâm hồn. Cho đến một ngày kia, dì Út Trang giới thiệu Chúa Jesus cho tôi. Lúc đầu tôi nghĩ: “Mình đã có Phật rồi, đâu cần đến Chúa nữa?”  Nhưng vì muốn thử qua mọi cách để có thể thay đổi định mệnh của mình, tôi đã theo hướng dẫn của dì Út Trang. Tôi đến với một buổi nhóm, nghe giảng sứ điệp Kinh Thánh  và cầu nguyện tiếp nhận Chúa. Sau khi cầu nguyện một cảm giác bình an đến với tôi. Tôi không thể diễn tả chính xác sự bình an đó là cái gì. Nhưng rõ ràng có một sự sống mới đang tuôn chảy bên trong tôi. Được các anh chị em khác trong hội thánh giúp đỡ qua các buổi nhóm học Kinh Thánh, cầu nguyện, tôi như trải qua một cuộc cách mạng nội tâm. Những  gì tôi yêu mến trước đây không còn nữa. Tôi đã khởi sự  cho một đời sống mới. Được sống với Chúa Jesus và Lời của Ngài là một điều tuyệt vời cho tôi.

Sau buổi nhóm một thanh niên hỏi Minh Hưng:

-Anh có dự định gì trong thời gian sắp tới?

-Tuần sau tôi sẽ bay về Mỹ, tôi sẽ ghi danh vào học Thần học tại một Trường Kinh Thánh, tôi quyết định đầu tư quãng đời còn lại của tôi cho Chúa Jesus Christ. Ngài đã cứu tôi ra khỏi Sô-đôm  và Gô-mô-rơ của thế giới hiện đại. Giờ đây nếu tôi có lấy cả sinh mạng mình để đền đáp công ơn cứu chuộc của Ngài cũng không thể nào trả hết món nợ yêu thương của Chúa. Tôi muốn sống để rao giảng về Ngài và  làm chứng nhân cho Ngài. Tôi biết Chúa đã cứu tôi cho mục đích của Ngài.

Chúa Jesus đã thay đổi cuộc đời Minh Hưng từ tối tăm qua sáng láng. Nó đang hội nhập vào cộng đồng hội thánh và tại đó có hàng trăm đời sống giống như nó. Trong mọi thời đại luôn luôn có những cuộc đời được thay đổi nhờ gặp Chúa Jesus cách cá nhân. Không phải tôn giáo, nhưng là Chúa Jesus Christ có quyền năng để thay đổi bất cứ ai nhận thức ra mình đang lầm lạc trong thế giới và muốn trở về nhà Cha.

                                                                DAVID LINH ÂN

207 lượt xem tại: http://www.songdaoonline.com/e2855-no-tro-ve-david-linh-an-bai-chon-dang-113-.html

NGƯỜI KHÔN NGOAN

 2014_04_30_o76dxtbwf85

Giu-đa nguyên là một chiến sĩ trong binh đoàn thiện chiến của vua Sa-lô-môn. Hai năm trước đây vì vi phạm kỷ luật, anh ta buộc phải trở về quê và hành nghề thợ săn trong một khu rừng hoang dã cách nhà không xa.

Phi-líp, một nông dân phúc hậu là người hàng xóm của Giu-đa.

Giu-đa nuôi một đàn chó săn rất hung dữ, chúng thường nhảy qua hàng rào rượt đuổi, cắn xé đàn cừu của Phi-líp. Phi-líp rất buồn, anh ta nói chuyện nhẹ nhàng với Giu-đa và đề nghị Giu-đa phải có một cách nào đó ngăn cản đàn chó dữ.

Giu-đa ậm ừ cho qua chuyện, nhưng rồi mọi việc cũng không có gì thay đổi. Thỉnh thoảng đàn chó vẫn tấn công đàn cừu. Phi-líp ngậm ngùi nhìn những con cừu của mình  trở thành đồ chơi cho lũ chó săn.

Nhiều lần nói chuyện với Giu-đa không thành công, Phi-líp tìm đường vào hoàng cung và gặp vua Sa-lô-môn tấu trình về việc này.  Nhà vua chăm chú lắng nghe câu chuyện và nói với Phi-líp:

-Ta có thể  phạt người thợ săn Giu-đa về tội đã để cho lũ chó cắn xé những con cừu của ngươi, và ra lệnh anh ta nhốt đàn chó vào chuồng. Nhưng làm như vậy anh ta sẽ trở thành kẻ thù của ngươi. Ngươi muốn có một người hàng xóm tốt hay là một kẻ thù làm láng giềng của ngươi?

-Tâu bệ hạ. Dĩ nhiên tôi muốn sống bên cạnh một người hàng xóm tốt.

-Được rồi ta rất vui khi nghe câu trả lời của nhà ngươi. Bây giờ ngươi hãy về nhà và làm theo những gì ta gợi ý cho ngươi. Hy vọng ngươi sẽ có một người hàng xóm tốt.

Vua Sa-lô-môn tư vấn và hướng dẫn Phi-líp cách đối đãi với người thợ săn Giu-đa.

Phi-líp trở về nhà, ông bắt hai con cừu tốt nhất đem tặng cho hai đứa con trai của người hàng xóm. Những đứa trẻ này rất thích các con cừu dễ thương xinh đẹp và chúng nó yêu cầu người cha Giu-đa xích đàn chó lại  để an toàn cho các con cừu.

Giu-đa thương các con mình, ông lập tức xích đàn chó vào những cọc cây trong sân nhà.

Cảm kích trước tính cách hào phóng của Phi-líp, Giu-đa đem đến gia đình Phi-líp những “món quà trả lễ” là những miếng thịt săn mà ông ta có được sau mỗi lần đi săn.

Phi-líp cũng thường tặng cho Giu-đa những nông sản trong vườn nhà của mình. Hai người trở thành bạn tốt của nhau.

 

Cuộc sống êm đềm trôi, tình bạn của họ dường như rất tốt đẹp.

Nhưng sự đời không đơn giản chút nào. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.

Bốn năm sau đó.

Người thợ săn Giu-đa đứng trên phòng cao của mình vào một buổi chiều tà và nhìn sang nhà Phi-líp. Tình cờ ông trông thấy Ra-chên, vợ Phi-líp đang tắm trong một phòng tắm không có mái ở bên trên. Lại thêm một chuyện rắc rối khác đây!

Trong lúc ấy Phi-líp từ trong sân vườn nhìn lên phòng cao của nhà hàng xóm cũng ngẫu nhiên bắt gặp ánh mắt say đắm của Giu-đa khi nhìn Ra-chên tắm. Phi-líp giựt mình và bối rối…

Đêm đó Giu-đa không ngủ được vì hình ảnh của nàng Ra-chên. Ông nằm mơ và nhìn thấy những đường cong tuyệt hảo trên thân thể người phụ nữ xinh đẹp này.  Đã hai năm nay, ông sống cảnh phòng không gối chiếc từ ngày vợ ông vĩnh viễn ra đi vì một căn bệnh hiểm nghèo.

Giu-đa tìm cách chiếm đoạt Ra-chên. Những năm trước đây ông đã từng bị sa thải khỏi đội kị binh của nhà vua cũng vì tội cưỡng dâm người khác. Giờ đây ông vẫn chứng nào tật nấy. Đúng là giang sơn dễ đổi, bản chất khó dời.

Người nông dân hiền lành Phi-líp cũng rất nhạy cảm với những gì diễn ra chung quanh mình. Một lần nữa ông tìm đến vua Sa-lô-môn trình bày sự việc để xin một lời khuyên bảo khôn ngoan:

Tâu đức vua, câu chuyện trước đây của tôi đã được giải quyết êm thắm. Nhưng bây giờ phát sinh ra một vấn đề khác với ông bạn hàng xóm như thế này …..

Phi-líp kể lại toàn bộ câu chuyện cho vua Sa-lô-môn nghe.

Sa-lô-môn lúc bấy giờ đã già, và sự khôn ngoan của nhà vua dĩ nhiên là có giới hạn.

Nhà vua hỏi Phi-líp:

– Tại sao ngươi không làm cái phòng tắm cho vợ ngươi thật kín kẽ?

– Thưa đức vua, trước đó phòng tắm của vợ tôi vốn kín đáo, nhưng mái che bên trên chỉ bị hư trong tháng vừa qua, và tôi chưa kịp sửa chữa thì xảy ra sự cố đáng tiếc này.

Vua Sa-lô-môn đăm chiêu suy nghĩ, ông nhớ lại chuyện ngày xưa của cha ông. …

Tám mươi năm về trước, phụ vương của Sa-lô-môn là Đa-vít cũng đã từng nhìn từ trên nóc đền hoàng cung một người phụ nữ tắm bên dưới và rồi phạm tội. Sa-lô-môn chính là tác phẩm từ cái nhìn của vua cha Đa-vít lúc đó. Bây giờ đến lượt người thợ săn Giu-đa!

 

Lịch sử luôn luôn tái diễn!

(Trong một giới hạn nào đó thì những câu chuyện trong lịch sử thường lập đi lập lại với những hoàn cảnh khác nhau, nhưng nguyên nhân của nó chỉ có một!)

Vua Sa-lô-môn tự nói với chính mình: “Thật trớ trêu, cha của ta cũng đã từng nhìn một người phụ nữ tắm, và ông ấy đã không thắng được cám dỗ chết người này. Bây giờ ta phải khuyên Phi-líp thế nào đây?”

Sa-lô-môn của tuổi  bảy mươi lăm là một Sa-lô-môn khác với những năm về trước. Bên cạnh ông bây giờ có quá nhiều vợ và ông còn xây các miếu thờ hình tượng cho những người vợ ngoại quốc của ông. Sự thành công, khôn ngoan và vinh quang của Sa-lô-môn trong quá khứ không thể bào chữa cho những sai trật của ông lúc cuối đời.

Vua Sa-lô-môn miễn cưỡng nói với Phi-líp:

-Có lẽ chỉ còn một cách là ngươi âm thầm bán nhà và di chuyển đến một nơi khác.

-Thưa đức vua, cách này rất khó cho tôi. Vì gia đình tôi đã sống ở đây từ những ngày rất xa xưa. Tôi đã quen với vườn cây, gia súc của mình. Làm sao tôi có thể dễ dàng dời đến một nơi khác được?

-Nếu ngươi nói thế thì ta cũng đành bó tay. Thôi thì ngươi hãy đóng cửa giữ gìn vợ mình, và nhớ là không được rời xa nàng nửa bước.

Phi-líp buồn bã ra về, trong lòng ông không ngớt băn khoăn: “Làm sao để ta có thể không rời Ra-chên nửa bước? Gã thợ săn này thật là một nỗi phiền phức cho ta”.

Sau khi Phi-líp rời hoàng cung, vua Sa-lô-môn suy nghĩ mông lung. Trong đầu ông hiện lên sáu chữ: Lịch sử luôn luôn tái diễn. Ông biết Giu-đa sẽ dùng mọi thủ đoạn để lấy được Ra-chên. Nhưng giờ đây nhà vua bất lực, ông không có kế sách nào hay để giúp đỡ Phi-líp. Sự khôn ngoan tuyệt vời của ông trong những năm về trước không dùng được vào lúc này.

Điều gì đến rồi cũng phải đến. Giu-đa vốn có cái đầu lạnh và trái tim rạo rực lửa tình, người thợ săn này vắt óc suy nghĩ để chiếm hữu thân thể Ra-chên. Sau nhiều ngày suy nghĩ, một kế hoạch thâm hiểm được hình thành trong đầu người cựu chiến binh dày dạn….

Ra-chên lúc ấy là mẹ của hai đứa con còn nhỏ, đứa lớn nhất chỉ mới sáu tuổi. Nàng đẹp rực rỡ như một bông hoa huệ trong đồng nội mà bất kỳ họa sĩ nào cũng nghiêng mình ngưỡng mộ!

 

Vào một ngày đẹp trời, khi vụ mùa thu hoạch nông sản vừa xong, Giu-đa sang chơi bên nhà Phi-líp với một ý đồ được che giấu. Sau khi uống xong ly rượu nho của Phi-líp mời, Giu-đa đề nghị:

-Vụ mùa thu hoạch lúa mì đã qua, ngày mai anh có thể cùng tôi lên rừng săn bắn. Tôi sẽ chỉ cho anh cách sử dụng cung tên để hạ những con mồi.

Phi-líp điềm đạm:

-Tôi chỉ là một nông dân, không thích hợp với việc săn bắn. Xin anh cho tôi từ chối lời đề nghị này.

-Ồ, anh cứ xem như đây là một chuyến đi chơi ngoài trời vậy. Nếu anh không thích chuyện săn bắn, anh cũng có thể  lên núi tham quan một lần để biết thế nào là cảnh hùng vĩ của núi rừng.

Giu-đa còn dùng những lời lẽ khéo léo khác để thuyết phục Phi-líp cùng đi với anh ta. Và cuối cùng Phi-líp miễn cưỡng nhận lời.

Sáng hôm sau cả hai lên đường. Phi-líp không biết rằng đó là một ngày định mệnh của mình.

Giu-đa liên tục bắn hạ những thú rừng, Phi-líp giúp đỡ người bạn hàng xóm mang vác các “chiến lợi phẩm” trên suốt chặng đường. Đến một sườn đồi kia, bất ngờ Giu-đa xô ngã Phi-líp xuống một vực thẳm lởm chởm đá bên dưới. Phi-líp rơi tự do và trút hơi thở cuối cùng dưới vực thẳm.

Điều này có vẻ giống như một tai nạn nghề nghiệp, nhưng nó là một kịch bản đã được tính toán chi ly của Giu-đa.

Vì muốn có Ra-chên, Giu-đa đã lên kế hoạch giết chết Phi-líp. Một lần nữa lịch sử được tái diễn! (Vua Đa-vít cũng đã từng dùng thủ đoạn trừ khử U-ri để được Bát-sê-ba trong quá khứ).

Không có ai đứng ra điều tra xét hỏi về cái chết của Phi-líp. Mọi người trong làng cũng có ý xầm xì thế này thế kia. Nhưng rồi với thời gian mọi việc nhanh chóng đi qua.

Hai năm sau, kể từ ngày Phi-líp qua đời. Giu-đa không khó khăn lắm để có được Ra-chên.

Trên đây là luận văn của Gia-cơ,  một học sinh năm cuối bậc Trung học tại thành phố Giê-ru-sa-lem. Đề của bài luận như thế này: Hãy nói về một giai thoại trong Cựu Ước chứng minh cho mệnh đề: “Lịch Sử Luôn Luôn Tái Diễn”.

Học sinh Gia-cơ nhận được điểm bảy trên mười cho bài luận của mình kèm lời phê của giáo viên: Mặc dù có những điểm chưa hoàn hảo, nhưng cấu trúc câu chuyện mạch lạc, đã chứng minh được yêu cầu của đề.

Dĩ nhiên là vậy, nhưng điều quan trọng hơn chính là bài học ẩn mình trong câu chuyện cho mọi người, nhất là những Cơ đốc nhân.

                                                                       TƯỜNG VI 

97 lượt xem tại: http://songdaoonline.com/e2853-nguoi-khon-ngoan-tuong-vi-bai-chon-dang-112-.html

SỰ CHẾT CỦA NHỮNG NGƯỜI THÁNH

BÀI DƯỠNG LINH

Đọc: 1 Cô-rinh-tô 15:50-58
Hỡi sự chết, sự đắc thắng của mầy ở đâu? – 1 Cô-rinh-tô 15:55

Cách đây vài hôm, tôi nhìn thấy Bob, một người bạn cũ, đang ra sức đạp xe đạp trong một phòng tập ở khu chúng tôi ở và nhìn vào chiếc máy đo huyết áp đeo trên tay.

Tôi hỏi: “Anh đang làm gì vậy?”

Anh nhỏ nhẹ đáp: “Nhìn xem tôi còn sống không.”

Tôi hỏi vặn lại:“Anh sẽ làm gì nếu thấy mình đã chết?”

Anh cười rạng rỡ trả lời: “Tôi sẽ nói lớn: Ha-lê-lu-gia!”

Trải qua nhiều năm tháng, tôi đã thấy năng lực mạnh mẽ bên trong của Bob: kiên nhẫn đối diện với sự xuống dốc và mệt mỏi về thể chất với đức tin và hy vọng khi anh tiến gần hơn đến đoạn kết của cuộc đời. Quả thực, anh ấy không chỉ tìm được hy vọng, mà sự chết cũng mất quyền cai trị trên anh.

Ai có thể tìm được sự bình an và hy vọng, thậm chí là vui mừng khi cận kề cái chết? Chỉ  những người bởi đức tin được kết nối với Đức Chúa Trời đời đời và những ai biết rằng họ có sự sống đời đời mà thôi (1 Côr. 15:52,54). Với những người có sự bảo đảm ấy, giống như Bob bạn tôi, thì sự chết không còn khiến họ sợ hãi. Họ có thể nói về niềm vui lớn lao khi gặp Đấng Christ mặt đối mặt!

Sao phải sợ chết? Sao không vui mừng? Như lời nhà thơ John Donne (1572-1631) đã nói, “Sau một giấc ngủ ngắn, chúng ta sẽ thức mãi mãi.” – David Roper

 

Yêu bằng lời nói việc lành

Với người hư mất, chân thành ủi an

Con mong nặng gánh cưu mang

Với lòng thương xót tuôn tràn từ tâm. —Fitzhugh

Đối với người tin Chúa, sự chết là bóng đêm cuối cùng của trần gian trước bình minh của thiên đàng

 

TIN LIÊN QUAN:

Bà Nguyễn thị Lê Chi, phu nhân của mục sư nhiệm chức Nguyễn Hữu Mỹ là trưởng nữ của mục sư Nguyễn Đức Na – Hội trưởng Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam, đã về nước Chúa vào ngày 19 tháng 4 năm 2014 tại Vũng Tàu.

Bà Lê Chi lâm trọng bệnh cách đây ba tháng, mặc dù gia đình, người thân từ các hội thánh đã cầu nguyện và hết lòng chữa trị cho bà nhưng bà đã về nước Chúa trong sự tể trị của Đức Chúa Trời toàn năng. 

Bà Lê Chi đã cùng với chồng sốt sắng hầu việc Chúa qua nhiều chức vụ khác nhau. Bà được nhìn nhận là một người con hiếu thảo, người chị gương mẫu,  nuôi dạy con cái trưởng thành và là người giúp đỡ đặc biệt cho chồng mình trong mọi muc vụ. Đặc biệt là mục vụ chăn bầy. 

Chúa biết điều gì là tốt nhất trên cuộc đời và chức vụ của bà Lê Chi. Bà ra đi đã để lại bao nỗi nhớ thương cho gia đình, các đồng lao và bạn hữu trong các hội thánh. 

Lễ tang của bà được tổ chức trang nghiêm, trọng thể tại Hội thánh Chúa ở Phước Cơ thuộc thành phố Vũng Tàu.

Đại diện Ban điều hành của Giáo Hội và các Giáo khu của Giáo hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam đã thăm viếng, cầu nguyện an ủi đại gia đình MS Hội trưởng, đặc biệt là MSNC Nguyễn hữu Mỹ và 2 con.

 

Sự chết của các người thánh.
Là quí báu trước mặt Đức Giê-hô-va
. (Thi thiên 116:15) 

Đây cũng là câu gốc mà mục sư Nguyễn Tờn, UVMV của TLH, giảng luận trong buổi lễ di quan. Bài giảng luận thật đầy ơn Chúa, khích lệ con dân Chúa sống tốt với niềm tin. Nhưng rất tiếc là lời chào thăm của ông đối với những người trưởng thượng của tang gia hiên diện trong buổi lễ chưa đầy đủ! 

Bà Lê Chi đã chấm dứt hành trình trên đất, sự ra đi của bà là quí báu trước mặt Chúa. 

Chúng ta tạm thời chia tay với bà Lê Chi, nhưng trong tương lai chúng ta sẽ gặp lại bà mãi mãi trong vương quốc vinh hiển của Đức Chúa Trời.

 

Đi vi người tin Chúa, s chết là bóng đêm cui cùng ca trn gian trước bình minh ca thiên đàng. 

 

———————————————————————

NHỮNG HÌNH ẢNH TRONG NGÀY ĐƯA TIỄN NGƯỜI THÂN VỀ NƯỚC CHÚA:

SỰ CHẾT CỦA NHỮNG NGƯỜI THÁNH là quí báu trước mặt Đức Giê-hô-va (Thi thiên 116:15).

 

 

ImageImage

Mục sư Mỹ và con trai.

IMG_5048

Người cha buồn thương nhìn di ảnh cô con gái yêu quí.

IMG_5053

Buổi nhóm cầu nguyện vào chiều tối ngày 21 tháng 4 năm 2014.

Image

Phái đoàn của Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu Việt Nam phúng điếu,  trao các lẵng hoa và cầu nguyên an ủi gia đình.

Image

Các mục sư nhìn mặt người quá cố lần cuối.

Image

Bào đệ của Bà LÊ CHI, mục sư Nghĩa từ Mỹ trở về nhìn lần cuối khuôn mặt  người chị cả yêu quí

IMG_5089

Mục sư Nghĩa đọc tiểu sử của người chị cả yêu quí

 

securedownload (1)

 

Mục sư Tờn giảng luận sứ điệp Thánh Kinh.

Image

 

Những giây phút ngậm ngùi.

IMG_5093

Di quang ra nghĩa trang.

 

securedownload

Đặt quan tài vào lòng đất tại Nghĩa trang.

IMG_5110Nghĩa Trang Suối Nghệ, Bà Rịa Vũng Tàu.

IMG_5075

 

Những vòng hoa kính viếng.

IMG_5096

IMG_5107

Chuẩn bị Lễ hạ huyệt.

IMG_5099

Rất đông  người đưa tiễn Bà Lê Chi tại nghĩa trang.

(Tường Vi)

TÔI CHỌN NGƯỜI YÊU

forget-your-first-love

 

 

Tốt nghiệp lớp 12 vào năm 1979, tôi thi vào Đại học sư phạm Qui Nhơn.

Rớt. Được chuyển xuống học Trung học sư phạm.

Chấp nhận thương đau, học hệ 12 + 1 của Trường. Một năm sau ra Trường, làm cô giáo tiểu học. Năm ấy tôi vừa đúng mười chín tuổi. Read more…

KÝ ỨC PHỤC SINH (The Resurrection Memory)

the_walk_to_emmaus

MỪNG CHÚA PHỤC SINH 2014

Thay mặt Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam

Hội trưởng: Mục sư Nguyễn Đức Na

 

KÝ ỨC PHỤC SINH
( The Resurrection Memory )

Trong mùa Phuc sinh năm nay tôi muốn cùng tôi con của Chúa suy nghĩ về những ký ức đã được sống lại trong số các môn đồ (disciples) và các sứ đồ của Chúa (apostles) trong khoảng thời gian  từ khi Chúa bị bắt bớ, chịu thương khó và sống lại từ âm phủ .

I/ SƠ LƯỢT VỀ KÝ ỨC:

(Generality of Memory)

Ký ức (Trí nhớ) là khả năng của trí óc có Thể nhớ lại những sự kiện mà nó đã ghi nhận. Khi chúng ta không nhớ nổi một sự kiện mà ai đó nhắc lại, ta thường nói tôi e rằng sự kiện đó đã trượt khỏi ký ức của tôi .(I am afraid that the fact slipped my memory.)
Trong nảo bộ của con người, khoa học tìm thấy rằng có một vùng gọi là ” hạnh nhân” (amygdala) nó  tạo cảm xúc và in dấu những ký ức của con người.  Lớp ngoài của vỏ nảo lưu giữ trí nhớ ( ký ức) dài hạn ở những khu vực khác nhau.Một Vùng sâu trong nảo bộ (hippocampus) sẽ có nhiệm vụ duy trì ký ức.

 II/ ĐIỀU KIỆN ĐỂ KÝ ỨC HỒI SINH.

 (Conditions for resurrection memory)

 1/ Hiện Tượng Sinh Học:

 ( Biological phenomena )

 Muốn ký ức tái xuất hiện, ký ức phải được in dấu trong vỏ nảo và được lưu giữ ở đó.

 2/ Hiện Tượng Tâm lý.

 ( Psychological phenomena )

Một người có lòng nhân ái (charity) thì ký ức dễ tái hiện.

Hai môn đồ đi về làng Em-ma-út cùng với Chúa, họ đã chân tình với lòng nhân ái, giục Ngài vào làng nghĩ lại đêm vì trời đã sập tối. Họ lo cho sự an nguy của người khách bộ hành xa lạ với hành trình tiếp theo trong đêm tối. (Luke 24:29 ) But they urged him strongly, “Stay with us, for it is nearly evening; the day is almost over.” So he went in to stay with them.”

Giả sử họ không nhiệt tình mời Chúa với lòng Trắc ẩn (compassion) thi họ đã không gặp được “Chúa Phục Sinh”,hay nói cách khác ký ức về Chúa không có dịp hồi sinh đúng lúc.

3/ Hiện Tượng Hướng Thượng.

 (Spiritual phenomena )

Một tấm lòng hướng thượng cũng là một điều kiện để ký ức hồi sinh.

Hai môn đồ tìm kím Chúa nhưng không gặp, lòng họ buồn bã không biết Chúa mình đang ở đâu vì như Chúa quở trách họ  là “ngu dại và có lòng chậm tin vào những lời tiên tri.” “How foolish you are, and how slow of heart to believe all that the prophets have spoken” ( Luke 24:25).

Tuy vậy lòng họ lúc nào cũng suy nghĩ về Chúa mình. Một tâm hồn hướng thượng.

Chúng ta ai cũng biết rằng Juda là sứ đồ của Chúa, nhưng lòng Ông hướng về vật chất nên lời quở trách của Chúa trực tiếp đến với Ông không được kích hoạt để in dấu ở vỏ nảo để được duy trì. Do đó Juda không có một ký ức nào để hồi sinh! Và Ông đã treo cổ tự vận!

4/ Đức Thánh Linh Hành Động .

Trong đời sống thuôc linh, những người thuộc về Đức Chúa Trời thì Đức Thánh Linh là Đấng sẽ hành động trong chúng ta để ký ức của chúng ta tái xuất hiện với mục đích làm cho chúng ta ăn năng, nóng cháy và đứng dậy Phuc sự Ngài.

” But the Councellor,  the Holy Spirit, whom the Father will send in my name, will teach you all things and will remind you of everything.”

III/ NHỮNG YẾU TỐ GIÚP KÝ ỨC HỒI SINH:

  (Elements to support the resurrection of memory)

1/ Hành Động. (Action).

 Đang khi ngồi ăn cùng 2 môn đồ, thì Chúa hành động với tư cách là Chúa của họ chứ không phải là khách mời. Ngài chủ động lấy bánh, cảm tạ, bẻ ra và phân phát cho họ. Ngài biết rằng hành động của Ngài sẽ tái hiện ký ức về Chúa của họ vì nhiều lần các môn đồ này đã ghi nhận hình ảnh Chúa lấy bánh , tạ ơn rồi bẻ ra và phân phát cho môn đồ. Thay vì Chúa nói với họ Ta là Chúa phục sinh đây, Ngài cho họ  một hành động , tức thì mắt họ mở ra và nhận biết Ngài.

” When he was at the table with them, he took bread, gave thanks, broke it and began to give it to them. Then their eyes were opened and they recognized  him, and he disappeared from their sight.”

  2/ Âm Thanh. (Sound)

 Phi-e-rơ trong khi đứng trước uy quyền đã để cho tâm thần mình yếu đuối cho nên đã chối Chúa đến 3 lần.Tức thì gà gáy, một âm thanh vang lên trong khoản không gian tỉnh mịnh va lạnh lẻo “tiếng gà gáy “. Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa phán “Trước khi gà gáy,  ngươi sẽ chối ta 3 lần.”  Mặc dù trước đó Phi-e-rơ đang nói những lời mạnh mẽ, quyết chí theo Chúa tưởng chừng không ai bằng.

“Immediately a cock crowed . Then Peter remembered the words Jesus had spoken: Before the cock crows, you will disown me three times.”

Âm vang tiếng gà gáy đã hồi sinh ký ức của Phi-e-rơ. Ông đã đi ra ngoài và khóc lóc đắng cay.

” And he went outside and wept bitterly.”

3/ Hình ảnh. (Image)

Khi tiên tri Giô-na đã theo ý mình, không vâng lời Chúa đến cảnh cáo thành Ni-ni-ve mà đi Ta-rê-si, bảo tố nổi lên và người ta trên thuyền phát hiện lý do bảo tố là vì Giô-na.

Giô-na bằng lòng để người ta liệng mình xuống biển để sóng yên gió lặng.

Chúa đã dự bị một con cá lớn nuốt Giô na vào bụng.

Trong bung cá, Giô-na để cho ký ức mình hồi sinh. Ông thấy đền thánh mà Ông đã từng ở trong đó nguyện cầu.

Giô na nói rằng tôi đã bị ném khỏi trước mặt Ngài; dầu vậy tôi còn nhìn lên đền thánh của Ngài.

“I have been banished from your sight; yet I will look again towards your holy temple.” ( Jonah 2:4) 

Giô-na đã cầu nguyện với ký ức là mình đang ở trong đền thánh và đã cầu nguyện rằng khi linh hồn tôi mòn mõi trong tôi, thì tôi nhớ đến Đức Giê Hô Va, và lời cầu nguyện của tôi đạt đến Ngài, vào đền thánh Ngài.

 “When my life was ebbing away, I remember you, Lord, and my prayer rose to you, to your holy temple.”

LỜI KẾT:

Mong rằng khi đọc những giòng chữ này, lòng của quý vị hãy rộng mở với lòng vị tha, nhân ái, mọi tự ái , tị hiềm nhỏ nhen nhường chỗ cho tình yêu của Chúa Phục sinh để những ký ức đáng trân quý trong mỗi chúng ta được Đức Thánh Linh làm cho sống lại . Khi đó chúng ta cũng sẽ nói như các môn đồ có ký ức về Chúa phục sinh rằng : “Lòng chúng ta há chẳng nóng nảy sao? Nội giờ đó họ liền đứng dậy, trở về thành Giê ru sa lem gặp mười một sứ đồ cùng các môn đồ khác đương nhóm lại nói với họ rằng: Chúa thật đã sống lại, và hiện ra với Si môn”.( Luca 24: 32-34). 

Và nếu có ai hỏi bằng cớ Chúa sống đâu nào, “rằng Chúa sống trong lòng này” một cách chân thành không hề dối trá, hay tô vẻ cho mình một hình thức “Phục sinh” bên ngoài với đủ mọi nhản mác (lables) để tự đánh lừa mình và đánh lừa người khác.

Một đời sống thực sự Phục sinh là một đời sống nóng cháy phục vụ tha nhân theo gương “Chúa Jesus Phục Sinh.”, là một đời sống đích thực phước hạnh.

 

Amen.

Mục sư JosephNa.

 

[CHÙM THƠ PHỤC SINH]

TRÊN ĐỒI GÔ-GÔ-THA

Jesus-golgotha

Trên đỉnh đồi thương khó, 
Chúa phán lời sau cùng: 
“Mọi sự đã được trọn”. 
Rồi Ngài trút linh hồn. 
*** 
Chiều thứ sáu Người chết, 
Chúa Nhật sống lại rồi, 
Nọc sự chết bị diệt, 
Mở toang cổng Nước Trời. 
*** 
Sự cứu rỗi chắc chắn, 
Dành cho ai tin Ngài, 
Mọi tội lỗi xưng nhận, 
Chúa sẽ thứ tha ngay. 
*** 
Anh chưa bao giờ hỏi, 
Chết rồi về đâu sao? 
Thể xác trong mộ tối, 
Linh hồn đến phương nào? 
*** 

Trên đỉnh đồi thương khó, 
Chúa chết vì tội tôi, 
Cũng vì tội anh đó, 
Mau quay về đi thôi! 
*** 
Chúa ân cần kêu gọi, 
Ngươi hãy đến cùng Ta, 
Đức Chúa Trời mãi mãi, 
Yêu thương và thứ tha. 

Hoàng Yến. 

*********

 GIỌT NƯỚC MẮT PHỤC SINH

easter7

Bên mộ đá, Mari đang ngồi khóc 1 
Gữa bầu trời đen tối phủ màn sương
Chúa đã chết, ôi đau buồn tang tóc
Ba ngày qua mắt lệ nhỏ đêm trường.

Ôn ký ức, ba ngày dài vô tận 
Nhìn thầy yêu trong tủi nhục đau buồn
Sao Chúa để tình yêu thua oán hận ?
Để nỗi niềm thương tiếc cứ tràn tuôn.

Tiếng êm diu: “Mari, sao con khóc? 2 
Sao đi tìm người sống giữa mồ chôn?” 
3 
Ta đã sống, con không còn cô độc
Nhìn bình minh nắng sưởi ấm linh hồn.

Con từng khóc vì tình đời đen bạc? 
Em từng buồn vì đổ vỡ phân ly?
Chị khổ đau vì gia đình tan nát?
Anh tiếc thương cho sự nghiệp phân kỳ?

Lắng lòng lại, nghe nhạc trời trỗi khúc 
Nắng phục sinh đã tỏa khắp dương trần
Để gió thổi, lau lệ buồn ô nhục 
4 
Để Linh Ngài hà sức sống hồng ân

Hãy đứng đậy trong niềm tin đắc thắng 
Chân bước đi với Chúa trong vui mừng
Sống với Chúa không bao giờ hổ thẹn
Sống với Ngài lời cảm tạ tràn tuôn.

THANH HỮU 
Phục sinh 2014 

1. Giăng 20:11
2. Giăng 20:15
3. Luca 24:5
4. Khai huyền 21:4

 *******
CHÚA ĐI TRƯỚC
ascension2
Em run sợ cho ngày dài trước mặt? 
Cho cho tương lai, cho năm tháng mịt mùng? 
Cho mưa chiều nắng sớm nhịp gió rung? 
Cho bão tố, cho sóng thần, động đất? 

Chị lo lắng cho tình đời muôn mặt ? 
Cho lòng người đen trắng khó cảm thông 
Cho suối khô, cho sông nước đổi dòng 
Cho biển động, cho núi rừng thay lá? 

Anh e ngại dấn thân vùng xa lạ 
Sợ hiểm nghèo, sợ thất bại khổ đau 
Hãy vững tin tình yêu Chúa nhiệm mầu 
Sẽ dẫn lối và dìu anh từng bước 

Chúa đã hứa Ngài sẵn sàng đi trước 1 
Như lửa hừng như trụ lửa trụ mây, 2 
Ngài bao che, ngài bảo vệ đêm ngày 
Cho anh thoát khỏi đường đời sa mạc. 

Dù bóng tối, dù Satan dối gạt 
Đem hãi hùng đem bão tố phủ vây 
Ngài nâng anh trên sóng gió phủ đầy 3 
Để anh bước trong niềm tin đắc thắng. 

Chúa đi trước trên đường về thiên quốc 4 
Ngài dẫn đường cho ta đến thiên cung 
Cùng vui lên ta hát khúc tương phùng 
Với sứ thánh trời vinh quang vạn đại. 

THANH HỮU 
Tháng 4 năm 2014 

1. Phục truyền 9:3
2. Xuất Êdiptô ký 13:21
3. Mathiơ 14:30-31
4. Giăng 14: 2-3

Kinh Thánh Chứng Cứ Khoa Học

Kinh Thánh Chứng Cứ Khoa Học

Nghiên cứu quỹ đạo vệ tinh nhân tạo, tìm lại 23 giờ 20 phút và 40 phút bị mất

Việc xảy ra cách đây mấy năm về trước. Tại trạm nghiên cứu vũ trụ ở Crimpelth thuộc tiểu bang Meryland nước Mỹ, các nhà khoa học hàng ngày dùng máy tính làm việc đã truy ngược lại một triệu năm về trước để điều tra lại quỹ đạo của mặt trăng và mặt trời. Không thể phóng được vệ tinh nhân tạo nếu không biết cặn kẽ quỹ đạo của mặt trăng và mặt trời. Chỉ sau khi kết thúc việc điều tra quỹ đạo của mặt trăng, mặt trời, và cả các hành tinh xung quanh, thì mới có thể vẽ được quỹ đạo của vệ tinh nhân tạo sẽ phóng lên. Nhưng khi đang tiến hành công việc điều tra đó bỗng nhiên máy tính dừng lại đột ngột và trên máy tính chỉ báo có tính hiệu lạ. Kết quả điều tra tỉ mỉ, họ hiểu ra một sự thực là: một ngày trên các quỹ đạo đã biến mất, trong khi trên máy tính không có trục trặc nào. Các nhà khoa học vũ trụ giỏi nhất nghiên cứu kỹ, không thế nào giải quyết được vấn đề này. Nếu việc này không cứu vãn, thì không thể phóng vệ tinh nhân tạo lên, đó là vấn đề rất nghiêm trọng đến mức gần như bất khả kháng.

Mấy ngày sau có một thanh niên đã từng đi nhà thờ Tin Lành lên tiếng : “Thưa quý vị, đây là câu chuyện tôi nghe hồi nhỏ ở trường học. Ông Giô-suê đã cầu nguyện để mặt trời ngửng lại trong một ngày đấy.” Khi nghe thấy lời này tất cả mọi người đều cười phá lên. Nhưng không còn cách nào khác, một nhà khoa học lớn tuổi đã đề nghị : “Không biết có như vậy không, ta thử tìm hiểu qua Kinh Thánh xem sao.” Sau đó, họ đã đọc Giô-suê một cách kỹ lưỡng. “Mặt trời bèn dừng, mặt trăng liền ngừng, cho đến chừng dân sự đã báo thù quân địch mình… Mặt trời dừng lại giữa trời và không vội lặn ước một ngày trọn” (Giô-suê 10:13). Các nhà khoa học đã dùng máy tính xem xét lại thời gian lúc đó và vô cùng ngạc nhiên. Họ đã phát hiện ở đấy thiếu mất 23 giờ 20 phút.

Vì sự thực này, các nhà khoa học vô cùng phấn khởi với suy nghĩ: “Không chừng 40 phút còn lại cũng có thể tìm thấy trong Kinh Thánh”, họ đã nhiệt tình đọc và điều tra Kinh Thánh. Cuối cùng, đến tận chương 20 của sách 2 Các Vua. Ở đây có câu chuyện thực được ghi : Ê-xê-chia vua Giu-đa bị bệnh nặng gần chết đã khẩn thiết cầu nguyện Đức Chúa Trời nên đã được kéo dài cuộc sống thêm 15 năm, và lúc đó, vua Ê-xê-chia đã cầu xin Đức Chúa Trời cho một dấu để làm chứng về việc Ngài sẽ làm. Lúc đó, Đức Chúa Trời đã quay ngược lại 10 độ bóng của năm. Mắt các nhà khoa học đã dừng lại ở đoạn này. Đồng hồ năm, lấy vòng tròn làm trung tâm chia 24 giờ. Trong đó có 10 độ có nghĩa chính xác là 40 phút. Họ lặng lẽ quỳ xuống và cầu nguyện “Lạy Đức Chúa Trời, chúng con đã quên lời dạy chính xác của Ngài.”

Kinh Thánh không phải là một cuốn sách giáo khoa. Vì vậy, không nói nhiều về khoa học và cũng không dùng nhiều từ chuyên môn mà các nhà khoa học hiện đại thường dùng. Nhưng khi nói về khoa học thì Kinh Thánh nói rất chính xác : Tri thức khoa học mà các nhà khoa học hiện đại có, thì người thời xưa làm sao mà có được. Thậm chí lúc đó còn là thời điểm mà thế giới quan bị tính thần thoại và phi khoa học thống trị. Bất chấp điều đó, Kinh Thánh diễn tả rất chính xác về sự thực khoa học.

Xin lấy ví dụ sau đây : Gióp 26:7 có chép : “Chúa trải Bắc cực ra trên vùng trống, treo trái đất trong khoảng không” – Gióp là người sống ở khoảng năm 2000 TC và ông nói rõ rằng trái đất đứng ở trong không trung. Khi đó tuyệt đối không có người nào có tư duy như vậy. Người Ai Cập cổ đại đều cho rằng trái đất được đặt lên một chiếc cột lớn, còn người Hy Lạp thì cho rằng thần Atlas cõng trái đấ trên lưng. Song Kinh Thánh miêu tả giống như sự thực khoa học hiện đại.

Trường hợp trong sách I Cô-rinh-tô 15:39 cũng vậy : “Mọi xác thịt chẳng phải là đồng một xác thịt; nhưng xác thịt của loài người khác, xác thịt của loài thú khác, loài chim khác, loài cá khác.” Trong thời gian dài, câu Kinh Thánh này đã bị phê phán là phi khoa học. Họ cho rằng tất cả xác thịt đều được cấu tạo bởi cùng một chất nên giữa các loại xác thịt không có gì khác nhau. Nhưng ngày nay các nhà khoa học đều công nhận một sự thực là có 4 loại xác thịt thực hữu tùy theo cách kết cấu của chất và của nhân tế bào.

Sự kiện công ty dầu lửa Standart của Mỹ phát hiện ra dầu lửa ở Ai Cập là một câu chuyện nổi tiếng. Một nhân viên cao cấp của công ty này đang đọc Cựu Ưóc sách Xuất Ê-díp-tô-Ký thì bị thu hút vào chương 2 câu 3 : “(mẹ của Môi-se) biết là không thể giấu lâu hơn nữa, nàng bèn lầy một cái rương mây, trét hắc ín và nhựa cây vào, đặt đứa trẻ vào trong đó rồi mang thả trong đám sậy dựa mé sông Nin.” Vị nhân viên đó nghĩ ngay rằng nếu có hắc ín thì phải có dầu mỏ, thời của Môi-se có vậy thì bây giờ vẫn thế, bèn gửi Charles Whitshott, là nhà địa chất học, chuyên gia về dầu lửa tới thăm dò quanh vùng sông Nin, và đúng như dự đoán ở trên, kết quả là thành công lớn.

Kinh Thánh không phải là quyển sách dạy về khoa học. Nhưng khi khoa học được đề cập đến trong kinh thánh, đều được chứng cứ rõ ràng như khoa học hiện đại.

Chang Doo Man

(Nguyễn Sĩ Phú dịch, theo Trước Khi Bạn Nói Không Có Đức Chúa Trời)

RA KHỎI XIỀNG XÍCH

 -Anh cần mấy tép?

-Tôi cần một tép xài đỡ.

-Đưa tiền đây, giá mỗi “cuốc” là 300 lít (300 nghìn đồng), miễn phí kim tiêm, rồi đi bộ đến gốc cây trước mặt, lật chiếc dép rách lên mà lấy.

-OK.

Nó đưa tiền rồi đi theo hướng dẫn của đứa con gái lấy một tép “hàng trắng” trên một con đường ở Quận 1, Sài Gòn. Mục sư Kiển hỏi nó:

-Tại sao em biết đứa con gái đó bán ma túy?

081014095954-317-998 Read more…

Post Navigation