Giuđa hôn Thầy
Giuđa hôn Thầy
|
Là một người Do Thái thuộc chi phái Bên-gia-min, nhưng Sau-lơ được sinh ra trong một gia đình trung lưu ở thành phố Tạt-sơ (ngày nay thuộc Thổ nhĩ kỳ). Đây là một thành phố thuộc đế quốc La Mã, vì vậy Sau-lơ có quốc tịch Rô-ma. Lớn lên Sau-lơ được gia đình gởi về Giê-ru-sa-lem và học tập với thầy tế lễ cả Ga-ma-li-ên. Tuy dáng người thấp bé nhưng Sau-lơ cực kỳ thông minh, chàng trai này nhanh chóng lĩnh hội tất cả những tinh hoa của Do Thái Giáo và trở thành một trong những hạt giống xuất sắc của phái Pha-ri-si. Ngoài ra Sau-lơ còn được trang bị những tri thức cao nhất của nền văn hóa Hy lạp và La tinh. Anh ta là một thanh niên sốt sắng và nóng cháy theo truyền thống của giáo hội đương thời, có khả năng đọc thuộc lòng bộ Kinh Thánh Cựu Ước, được xem như một ngôi sao đang lên của giáo hội truyền thống. Khi sứ đồ Ê-tiên bị ném đá, trở thành người tử đạo đầu tiên của hội thánh vào năm 34 thì Sau-lơ đứng ở phía sau hậu trường im lặng quan sát và khoan khoái mỉm cười, hài lòng về việc này. Khi theo dõi những hoạt động của Chúa Jesus và các sứ đồ trong hơn ba năm ở xứ Pha-lét-tin, Sau-lơ đã âm thầm lên một kế hoạch để chống lại Chúa Jesus và các môn đệ của Ngài. “Đây là một nhóm nguy hiểm cho nền tảng của Do Thái Giáo. Ta phải vận động các trưởng tế để xin một lệnh truy nã đối với bọn chúng”. Sau-lơ đã nghĩ về Chúa Jesus và những người theo Ngài theo cách đó. Năm 30 Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá. Sau-lơ nghĩ rằng đạo của Chúa rồi cũng sẽ lụi tàn theo năm tháng. Nhưng khác với mong đợi của Sau-lơ, từ tầng trên của một ngôi nhà tại Giê-ru-sa-lem, Phúc Âm của Chúa Jesus Christ đã bùng nổ ra khắp thế giới. Hội thánh trong những ngày đầu tiên đã lan ra nhanh chóng sau khi sứ đồ Phi-e-rơ giảng một sứ điệp nẩy lửa trong ngày lễ Ngũ tuần và sau đó Ê-tiên tuận đạo. Sau-lơ cùng với đám tùy tùng của mình đã đến một số ngôi nhà của những người qui đạo trấn áp và tống giam họ vào tù. Ông ta trở thành một trong những kẻ đầu tiên bắt bớ hội thánh thời các sứ đồ. Sau một hội nghị đặc biệt của các thầy tế lễ để tìm mọi cách tiêu diệt hội thánh đầu tiên từ trong trứng nước, Sau-lơ đã nhận được một chỉ thị qua một lá thư của thầy tế lễ thượng phẩm tại kinh thành Giê-ru-sa-lem: “Anh có toàn quyền để truy nã tất cả những kẻ nào tuyên xưng danh Jesus”. Bằng cách đó, các thầy tế lễ đầy quyền uy đã trao cho Sau-lơ một nhiệm vụ: Bắt và giải về Giê-ru-sa-lem tất cả những ai theo Jesus, người Na-xa-rét. Sau-lơ trở nên một kẻ bách hại đạo Chúa chuyên nghiệp được các quan chức tôn giáo hậu thuẫn! Sau-lơ lên đường đến Đa mách vào năm 35 để thực hiện sứ mạng được ủy thác. Ra đi với một quyết tâm nóng cháy là phải tiêu diệt cho kỳ được hội thánh trong thời kỳ sơ khai, Sau-lơ nói với nhóm tùy tùng: – Nếu ta không tiêu diệt những kẻ theo đạo của Jesus, bọn chúng sẽ lan ra như cỏ dại. Các thành viên trong nhóm phụ họa: – Xin Thiên Chúa ban sức mạnh cho ông để ông làm được điều lòng mình ao ước. Không ai có thể ngờ những gì xảy ra sau đó trên chuyến đi tới Đa-mách. Khi đang đi đường Sau-lơ bỗng ngã xuống và ông hoàn toàn không biết việc gì đang xảy ra. – Hỡi Sau-lơ, tại sao ngươi bách hại ta? Có một tiếng nói với âm giọng sang sảng uy nghiêm, chung quanh Sau-lơ là một luồng ánh sáng chói lòa từ trên cao như đèn pha công suất lớn. – Lạy Chúa, Ngài là ai? Sau-lơ hoảng hốt hỏi. – Ta chính là Jesus mà ngươi đang bắt bớ. Sau-lơ mắt vẫn mở nhưng trước mặt ông trời đất bỗng tối tăm mù mịt. Ông đã bị mù! Cả nhóm tùy tùng đi theo nghe tiếng nói nhưng không thấy gì cả. Mọi người bấn loạn tinh thần. Thủ lĩnh của họ đã bị đốn ngã một cách siêu tự nhiên! Đám tùy tùng miễn cưỡng nắm tay Sau-lơ dắt ông vào thành phố Đa-mách. Đức Chúa Trời đang hành động để bày tỏ uy quyền của Ngài trên một kẻ bách hại các cơ đốc nhân. Trong ba ngày tiếp theo sau, Sau-lơ nhận được một bài học lớn. Ông ta không ăn uống trong thời gian đó mặc cho đám tùy tùng ép ông phải ăn hoặc uống một chút gì. Sau-lơ bắt đầu cuộc hành trình tìm về cội nguồn của mình. Tâm thức ông vẫn hoạt động trong suốt ba ngày đặc biệt đó. Dường như ông bước vào trong sự kiêng ăn toàn phần để chuẩn bị cho những khải thị thiên thượng. Chỉ có cá nhân ông biết được điều gì đang xảy ra trong tâm trí làm đảo ngược những tri thức cũ kỹ của ông. Không ai phủ nhận Sau-lơ có một tấm lòng sốt sắng về Đức Chúa Trời, nhưng nhận thức của ông về Ngài cần phải được điều chỉnh. Là một con người đầy bản lĩnh, một thủ lĩnh xuất sắc của phái Pha-ri-si, có thể nào Sau-lơ bị khuất phục và từ bỏ con đường bắt bớ đạo Chúa? Đức Chúa Trời quyền năng làm những điều không thể trở thành có thể. Sau-lơ chính là tác phẩm trong bàn tay của Người Thợ Gốm vĩ đại. Trong ba ngày không ăn uống, tư tưởng Sau-lơ đã được thay đổi cách kỳ diệu. Những đồn lũy và thành trì trong tâm trí của ông bị đốn ngã bởi một quyền năng siêu nhiên! Sau-lơ nhớ lại tất cả những sự kiện về Chúa Jesus mà ông đã từng theo dõi trong hơn ba năm chức vụ của Chúa. Trong những năm ấy ông là một viên chức tôn giáo im lặng theo dõi những bước chân của Chúa với một tinh thần đố kỵ. Những gì không phù hợp với kiến thức của mình thì Sau-lơ xem đó là phản nghịch, chống lại Đức Chúa Trời và Giáo hội. Giờ đây ánh sáng thiên thượng đã làm cho ông thấy những quan điểm và hành động trước đây của mình thật sai lầm. Ông đã từng bách hại các Cơ đốc nhân trong những ngày đầu tiên. Khi làm như thế ông tưởng rằng mình đang hầu việc Chúa. Còn bây giờ Sau-lơ thấy những việc làm của mình là đáng hổ thẹn. Để khuất phục một con người cứng cỏi, luôn bảo thủ gìn giữ những giá trị truyền thống của dân tộc, Đức Chúa Trời đã hành động theo cách của Ngài. Không có một công thức nào là cố định được áp dụng cho từng cá nhân, Thiên Chúa đã bày tỏ sự thương xót của Ngài trên một người đứng đầu những kẻ bắt bớ các cơ đốc nhân. Khi Chúa hành động thì những hòn đá vô tri cũng trở thành con cháu của Áp-ra-ham! Sau-lơ là ai mà có thể chống lại Chúa? Từ một con sói có thể trở nên một con cừu trong bầy của Chúa. Đó chính là quyền năng của Phúc Âm trong trường hợp Sau-lơ. Sau-lơ đã được điều chỉnh trong nhận thức về Chúa Jesus Christ và thập tự giá của Ngài. Những năm trước đó ông phủ nhận chức vụ của Chúa Cứu Thế. Còn bây giờ, gió đã xoay chiều: Sau-lơ đã được Chúa Jesus mặc khải chính Ngài cho ông. Ông đã được gặp Chúa cách cá nhân! Những gì về Chúa Jesus mà ông chống đối trước đây lại trở thành ánh sáng chân lý cho cuộc đời ông. Ông đã được thay đổi để công bố Phúc Âm của Chúa Jesus. Cùng lúc đó, A-na-nia một môn đồ cư trú tại thành Đa mách được thần của Chúa mách bảo trong giấc chiêm bao: -Thức dậy đi. Hãy đến nhà Giu-đa tại đường phố Ngay Thẳng hỏi thăm về Sau-lơ, người Tạt-sơ. Anh ta đang cầu nguyện tại đó. Anh ta đã được thông báo từ trong dị tượng là sẽ có ngươi đến đặt tay trên anh ta hầu cho anh ta có thể sáng mắt lại. A-na-nia biện luận: – Chúa ôi, theo con biết, người này là một kẻ bắt bớ những ai kêu cầu danh Chúa Jesus. Có lẽ nào con lại đến giúp đỡ nó sao?
Nhưng Chúa phán với A-na-nia:
-Ngươi hãy đi, vì ta đã chọn Sau-lơ để thực thi một sứ mệnh quan trọng: anh ta sẽ trở nên một người rao giảng Phúc Âm cho mọi dân tộc, gồm cả các vua. A-na-nia vâng lời, đi đến đúng địa chỉ mà Chúa đã hướng dẫn. Ông đặt tay trên Sau-lơ và trịnh trọng tuyên bố: – Anh Sau-lơ thân yêu, Chúa Jesus đã sai tôi đến đây để anh được sáng mắt và nhận lãnh Đức Thánh Linh. Phép lạ xảy ra! Sau lơ cảm nhận một vật gì như vảy cá rơi ra khỏi đôi mắt mù lòa của ông. Sau- lơ đã được nhìn thấy trở lại. Ông nhìn A-na-nia và mọi người trong nhà Giu-đa qua một lăng kính hoàn toàn mới. Khi ánh sáng đến thì bóng tối lùi xa! Sau-lơ đứng dậy, ăn năn tội lỗi và nhận lãnh phép báp-tem. Một cuộc đời đã được thay đổi! Một kẻ bắt bớ hội thánh được biến đổi để chuẩn bị trở thành một sứ đồ trứ danh. Không bao lâu sau đó, người ta thấy Sau-lơ xuất hiện trong các nhà hội Do Thái tại Đa-mách. Sau-lơ đứng lên, công bố: -Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời. Mọi người đều sững sờ. Họ bị sốc! “Tên này đã từng bắt bớ những ai kêu cầu danh Jesus, mà tại sao hôm nay có cớ sự lạ lùng này?” Đám đông ồn ào hỏi nhau. Sau-lơ càng rao giảng về Chúa Jesus, ông ta càng trở nên mạnh mẽ, xác quyết, chứng tỏ Jesus là Đấng Mê-si làm cho nhiều người Do Thái không thể bẻ bác được. Sau-lơ đã khai hỏa cho những sứ điệp về Chúa Jesus bất chấp mọi nghi ngờ về tính chính danh của ông. Từ một người thuộc hàng ngũ Pha-ri-si bảo vệ truyền thống của Do Thái Giáo, Sau-lơ đã được Chúa kêu gọi và trở thành sứ đồ của Chúa Jesus Christ. Những lời giảng đầu tiên của Sau-lơ làm cho những người bảo thủ trong giáo hội ở Đa-mách vô cùng tức giận, và họ tìm cách giết ông. Sau-lơ biết được âm mưu đó, ông trốn thoát khỏi thành phố vào ban đêm nhờ sự trợ giúp của các tín hữu. Họ đã cho ông vào một cái thúng rồi thòng ông xuống qua lỗ hổng trong vách thành. Sau-lơ bắt đầu chức vụ của mình với nhiều khó khăn. Ông trở về Giê-ru-sa-lem gia nhập với cộng đồng hội thánh, nhưng hầu hết đều e ngại về tư cách của ông. Chuyện này cũng dễ hiểu, vì rõ ràng hồ sơ của ông có vấn đề. Một tên bắt bớ đạo Chúa trở nên môn đồ! Điều này rất khó thuyết phục các tín hữu khác.
Nhưng Ba-na-ba, một người đầy dẫy Thánh Linh và đức tin đứng ra bảo lãnh cho tư cách và mục vụ của Sau-lơ. Ba-na-ba bênh vực và làm chứng tốt về ông trong cuộc họp chung với các sứ đồ. Nhờ điều này Sau-lơ đi khắp hang cùng ngõ hẻm trong thành phố Giê-ru-sa-lem tiếp tục rao giảng về Chúa Jesus và tham gia tranh luận sôi nổi với những người Do Thái nói tiếng Hy Lạp. Họ thấy Sau-lơ thực sự nguy hiểm, có tiềm năng phá đổ nền tảng của Do Thái Giáo, nên những người này cũng tìm cách thủ tiêu ông. Các tín hữu thấy tình hình bất lợi cho Sau-lơ nên tìm cách đưa ông rời Giê-ru-sa-lem, trở về ẩn cư ở Tạt-sơ là quê nhà của ông một thời gian. Đạo Chúa tiếp tục lan rộng qua chức vụ của các sứ đồ và hội thánh đầu tiên. Sau khi Ê- tiên bị ném đá cho đến chết, hội thánh ở Giê-ru-sa-lem bị bắt bớ và một số thánh đồ chạy tới An-ti-ốt. Tại đây họ làm chứng về danh Jesus và Chúa đã làm cho nhiều người qui đạo. Hội thánh ở Giê-ru-sa-lem nghe tin bèn cử Ba-na-ba đến An-ti-ốt. Ba-na-ba đến nơi tận mắt chứng kiến một làn sóng Phúc Âm đang lan rộng, ông biết nơi này cần đến ân tứ của Sau-lơ. Vì vậy ông đến Tạt-sơ vào năm 43 để mời Sau-lơ đang ẩn cư về An-ti-ốt đồng công với ông cùng giảng dạy giúp đỡ cho các tín hữu mới tại An-ti-ốt. Chức vụ của Sau-lơ bắt đầu khởi sắc từ đây. Ông đã có đất để dụng võ! Ba-na-ba và Sau-lơ là hai sứ đồ đã có những đóng góp rất lớn cho việc hình thành nên hội thánh tại An-ti-ốt. Cũng chính từ thành phố này mà Sau-lơ và Ba-na-ba được Chúa kêu gọi ra đi truyền giáo. Từ khoảng năm 46 cho đến cuối đời vào năm 64 sau Công nguyên, Sau-lơ còn được gọi là Phao-lô đã rao giảng Phúc Âm trên khắp đế quốc La Mã rộng lớn từ Châu Á đến Châu Âu. Ông đã thực hiện ba chuyến hành trình truyền giáo đi vào lịch sử, khai sinh hàng loạt hội thánh và viết mười ba thư tín trong Tân Ước, đặt nền tảng căn bản cho thần học của Cơ Đốc Giáo. Trong các thư tín của ông bao gồm nhiều chủ đề về thần học, các vấn đề trong hội thánh cũng như bên ngoài xã hội. Có thể nói rằng nhờ sự soi dẫn của Chúa Thánh Linh ông trở thành trước giả chính của Tân Ước. Ông không chỉ là một sứ đồ in đậm dấu vết thập tự của Chúa Jesus Christ, nhưng đồng thời cũng là một giáo sư cơ đốc với khả năng văn chương uyên bác. Phao-lô đã góp phần làm cho bộ mặt văn hóa của đế quốc La Mã thay đổi qua công tác truyền giáo và các thư tín của ông trong Tân Ước. Ông đã đi qua nhiều thử thách khó khăn trong chức vụ như: bị giam cầm, roi vọt, ném đá, đói khát, lạnh, chìm tàu…và suýt thiệt mạng vì những âm mưu sát hại ông. Những sự khổ nạn vì danh Chúa là không kể xiết đối với vị sứ đồ trứ danh này. Đồng thời Chúa cũng đóng dấu ấn của Ngài trên chức vụ đầy dẫy quyền năng và phép lạ của ông. “Hãy bắt chước tôi như chính tôi đã bắt chước Đấng Christ vậy”. Phao-lô đã viết lời này trong thư tín 1 Cô-rinh-tô 11:1. Ông được nhiều học giả Kinh Thánh công nhận là một trong những người mà sau khi đã gặp Chúa Cứu Thế thì trở nên bản sao của Ngài. Theo truyền thuyết Phao-lô bị chém đầu vào năm 64 dưới thời hoàng đế Nê-rô vì rao giảng Phúc Âm. Chức vụ trên đất của ông kết thúc, nhưng tầm ảnh hưởng của ông thì vượt qua mọi thời đại và các nền văn hóa khác nhau. TƯỜNG VI |
| 458 lượt xem tại: |
http://songdaoonline.com/e2924-ke-bach-hai-hoi-thanh-tuong-vi-bai-chon-dang-132-.html
(Hình chỉ mang tính minh họa)
|
Bạn thân mến! Tôi nhận được tin bạn vừa trải qua một cú sốc lớn trong cuộc đời. Những lời chia buồn của tôi có lẽ cũng khó làm cho bạn vơi đi những nỗi nhớ thương đối với đứa con thân yêu của bạn vừa mới ra đi về nơi yên nghỉ vì bệnh ung thư. Những gì tôi viết ra sau đây hy vọng sẽ giúp đỡ bạn được phần nào trong một sự kiện không mong đợi của gia đình bạn. Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về câu hỏi này: Vì sao sự đau khổ lại xảy đến cho những con người chính trực và ngay thẳng như bạn? Có một sách trong Kinh Thánh đã trở thành niềm cảm hứng cho tôi khi suy ngẫm về nó. Bây giờ bạn có thể đọc tiếp những giòng tôi viết sau đây. Gióp không thiếu bất cứ thứ gì trong ngôi biệt thự cổ kính của mình. Toàn cả xứ Đông Phương không ai có thể sánh ngang bằng với ông về tư cách, đạo đức, tấm lòng kính sợ đối với Chúa cũng như về tài sản, vàng bạc của ông. Cơ nghiệp và uy tín của ông làm cho bất cứ ai cũng nghiêng mình thán phục. Các nhà quí tộc trong vùng cung kính mỗi khi gặp ông trong các buổi yến tiệc. Khi nói về ông, họ chỉ có một câu tóm lược: ông ấy vô địch về mọi phương diện, đơn giản vì ông ấy là GIÓP. Đời sống trên đất của Gióp quá đầy đủ và hạnh phúc khiến Sa-tan cũng phải ganh tị. Nó quyết định tấn công Gióp. Sa-tan đến diện kiến Đấng Toàn Năng và đưa ra một lời thách thức: -Gióp kính sợ Chúa vì Ngài đưa tay ra ban phước cho ông ấy về mọi phương diện. Nhưng nếu Ngài rút tay lại, ông ấy sẽ nguyền rủa Ngài cho xem. Sa-tan đã lên một quỉ kế với chiến thuật cướp phá và hủy diệt đời sống của Gióp. Nó trở thành địch thủ của Gióp. Trong bối cảnh này, nó làm mọi việc tùy theo sự chấp thuận của Chúa và không thể làm được điều gì nếu Chúa không cho phép. Đức Chúa Trời phán bảo Sa-tan: -Được rồi, tất cả những gì Gióp sở hữu đều nằm trong tay ngươi, nhưng ngươi không được đụng đến cá nhân Gióp. Sa-tan lui ra khỏi mặt Chúa. Nó chuẩn bị những ngón đòn đầu tiên trên cuộc đời Gióp. Trong một ngày đẹp trời, khi các con của Gióp đang ăn uống trong nhà của người anh cả, một gia nhân chạy đến báo tin cho Gióp: -Thưa ngài quí tộc, những con bò của ngài đang cày ruộng, lừa đang ăn cỏ thì quân cướp Xa-ba sống ở miền Nam sa mạc Á-rập tấn công, cướp lấy tất cả đàn súc vật và giết chết những gia nhân canh giữ. Nhờ ơn Chúa nên tôi thoát được chạy về đây báo tin cho ngài. Đang khi gia nhân này còn đang trình bày diễn tiến của sự việc với tâm trạng hãi hùng, thì gia nhân thứ hai chạy đến chỗ ngồi của Gióp mang theo lời tấu trình tệ hại khác: -Thưa ngài, sấm sét từ trên trời giáng xuống đốt cháy hết các bầy chiên và những người chăn. May mà tôi còn sống chạy về đây báo tin cho ngài. Tai họa dồn dập đến với Gióp, người này còn chưa nói hết thì gia nhân thứ ba chạy về thở hổn hển: -Quân Ba-by-lôn sống lưu động giữa sông Ơ-phơ-rát và Giô-đanh chia làm ba mũi tiến công cướp hết các lạc đà của ngài và giết chết các tôi tớ. Tôi nhanh chân bỏ của chạy lấy người về đây để báo hung tin cho ngài. Chưa dừng lại ở đó, một gia nhân thứ tư chạy thục mạng từ bên ngoài vào với giọng nói đầy hốt hoảng: -Các con trai và con gái của ngài (gồm bảy người con trai và ba cô con gái) đang ăn uống tại nhà người anh cả, thì một trận cuồng phong dữ dội từ sa mạc thổi đến như vòi rồng cuốn phăng đi mọi thứ làm ngôi nhà đổ sập, mọi người đều chết. Không hiểu sao tôi may mắn thoát được chạy đến đây báo tin cho ngài. Gióp không khỏi bàng hoàng sau khi nghe bốn bản tấu trình thảm hại từ đám gia nhân. Ông đứng dậy xé áo choàng bên ngoài, rồi cạo trọc đầu chứng tỏ tấm lòng ông đau khổ tột cùng. Ông quì sấp mặt xuống đất thưa cùng Chúa Toàn Năng: -Tôi chào đời trần truồng thế nào, đến khi chết tôi cũng trần truồng trở về. Chúa đã ban cho tôi mọi thứ, bây giờ Ngài lại cất đi. Đáng chúc tụng danh Chúa thay! Trong từ điển của Gióp không hề có từ “oán giận” hay “bất mãn” với Đấng Toàn Tri. Ông tin rằng Chúa kiểm soát mọi hoàn cảnh mặc dù ông không hiểu tại sao những tai họa kinh hoàng này lại đổ xuống gia đình ông. Thật đáng kinh ngạc cho một nhà quí tộc sau khi đã mất hết mọi thứ, trở về với con số không, ông vẫn tin cậy Chúa hằng hữu! Trên đây chỉ mới là khúc dạo đầu của Sa-tan trên cuộc đời Gióp. Nó dường như đã ghi được một điểm trong cuộc chiến chống lại tôi tớ của Đức Giê-hô-va. Sa-tan cũng đến cùng với các thiên sứ trước ngai của Chúa trong một lần khác. Chúa hỏi nó: -Ngươi từ đâu đến? -Tôi dạo chơi lang thang trên khắp thế giới. -Ngươi có nhìn thấy Gióp, tôi tớ của ta. Dù ngươi tấn công tài sản và con cái của nó, nó vẫn là một con người hoàn thiện, không có một lời bất mãn kêu ca. -Người ta bằng lòng làm mọi cách để tránh đau đớn. Gióp đã có một phản ứng thích hợp. Nhưng nếu Chúa giơ tay ra đụng đến xương thịt của ông ta, ông ta chắc sẽ nguyền rủa Ngài. Chúa bảo Sa-tan: -Được rồi, ngươi giỏi lý luận lắm. Gióp ở trong tay ngươi nhưng ngươi không được đụng đến mạng sống của người. Sa-tan đắc ý lui ra khỏi hiện diện của Chúa. Nó tấn công Gióp lần nữa trên mặt trận thứ hai. Lần này Sa-tan dùng bịnh phung với một hình thức khủng khiếp, cộng thêm biến chứng sùi da, là một chứng dơ dáy và nhức nhối ở Ðông phương lúc bấy giờ để hành hạ Gióp. Nó tạo ra vô số vết lở lói đau nhức trên toàn thân thể của Gióp. Từ bàn chân cho đến đỉnh đầu, Gióp chịu cảnh ngứa ngáy vô cùng khó chịu. Gióp ra khỏi thành phố, tự tách mình ra khỏi xã hội theo đúng nghi thức thời đó và ngồi trong đống rác. Ông dùng một miếng sành để gãi khắp người trông thật thảm thương. Cái dáng vẻ quí phái của Gióp không còn nữa. Ông như bị cùi hủi với những vết thương mưng mủ khắp người không giống ai. Sự đau đớn của Gióp lúc này là vô cùng. “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, Gióp đang trải qua những đau khổ tột cùng về mặt thể xác nhưng lạ thay ông vẫn kiểm soát tư tưởng của mình. Dường như sự đau đớn của cơ thể không khiến tâm trí ông nao sờn. Tinh thần ông vẫn vững vàng như một ngọn núi lớn giữa tiếng gào thét chung quanh của những trận cuồng phong ác liệt. Gióp ngồi trên đống tro trong dáng vẻ sầu khổ đau đớn. Ông không hiểu tại sao điều này xảy đến với mình. Mà tại sao phải tìm kiếm nguyên nhân của nó trong khi sự sống và cái chết của ông đã đặt trong vòng tay của Chúa hằng hữu? Lòng tin kính của ông đối với Chúa thật lạ lùng mặc dù ông không phải là người Do Thái. Lúc này người vợ thân yêu của ông buông ra một câu nói tiêu cực: -Tại sao ông cố chứng tỏ bản thân là một người hoàn thiện. Ông đã rơi vào tình huống này thì hãy rủa sả Đấng Toàn Năng và chết phứt đi cho rồi. Sống như ông thì chết là tốt hơn! Trong ý tưởng của vợ Gióp, bà cho rằng kết quả đời sống tin kính của Gióp là như thế này đây. Vậy thì tại sao không rủa sả Đấng Tối Cao? Gióp bình thản đáp: -Bà nói giống như một đứa ngu dốt. Chẳng lẽ điều chi tốt Chúa ban cho thì nhận, còn điều xấu thì không nhận sao? Thật lạ lùng, tư tưởng của Gióp trong sáng như pha lê. Ông không hề phạm tội trong ý tưởng vì vậy lời ông nói ra không xúc phạm đến Đấng Toàn Tri. Gióp có ba người bạn thân Ê-li-pha, Binh-đát và Xô-pha. Cả ba là những tiểu vương đương thời đến từ những vùng đất khác nhau. Khi nghe tin hoàn cảnh đau thương của Gióp, họ hẹn với nhau cùng đến thăm ông. Khi nhìn thấy tình cảnh của Gióp, họ sững sờ vì thấy ông đang ở trong sự đau khổ cùng tận. Những người bạn yên lặng cùng ngồi bên cạnh ông trong suốt bảy ngày đêm không thốt lên được lời nào. Sau bảy ngày yên lặng chia sẻ đau thương với Gióp, các bạn hữu vốn là những ông hoàng sa mạc với nền học vấn và triết lý đương thời bắt đầu lên tiếng. Cuộc hội ngộ không mong đợi của nhóm bốn người trở thành một hội nghị với chuyên đề về sự đau khổ. Ê-li-pha là người đọc diễn văn chia buồn an ủi Gióp đầu tiên. Những lời Ê-li-pha nói mang tính chất của thần học truyền thống: Chỉ cần kiên nhẫn rồi mọi việc sẽ tốt đẹp. Ê-li-pha nhấn mạnh chúng tôi biết anh là một người đạo cao đức trọng. Vì thế đừng có sờn lòng nhụt chí. Anh đang chịu khổ vì thực ra anh chưa trọn vẹn, hoàn hảo nên cần được xử lý kỷ luật. Nhưng mọi chuyện sẽ qua đi, anh hãy rán chờ đợi. Gióp phản biện trước bài diễn thuyết của Ê-li-pha. Ông không dễ dàng chấp nhận những lời an ủi theo cách đó. Binh-đát đưa ra một diễn văn tiếp theo: Nếu Gióp vô tội anh sẽ không chết, Đấng Toàn Năng sẽ binh vực duyên cớ của anh. Đồng thời Binh-đát cũng khẳng định quan điểm của mình: Con cái Gióp đã phạm tội cùng Chúa, nên Ngài trừng phạt chúng? Tới lượt Sô-pha kêu gọi Gióp: Hãy gỡ tội lỗi ra khỏi tay anh, đừng để điều ác nào còn lảng vảng trong nhà anh. Cả ba bạn hữu tới thăm an ủi Gióp, nhưng những gì họ nói chỉ là theo hiểu biết truyền thống. Có ích gì khi chỉ ở trong cái khuôn của những định kiến và giáo điều! Ba ông hoàng sa mạc này đại diện cho sự hiểu biết của con người trong mọi thời đại. Những lời an ủi từ các bạn hữu vô tình trở nên những mũi tên bắn vào vết thương đang đau đớn của Gióp. Vô hình trung họ đến để lên án Gióp nhiều hơn là chia sẻ nỗi đau với ông. Mỗi lần một người bạn phát biểu thì lập tức sau đó Gióp phản biện bằng một bài thuyết giảng dài dòng. Ai cũng có lập luận của mình, và mỗi người nói theo một cách, giống như bốn anh mù sờ voi, mỗi anh chỉ thấy một phương diện mà không thể thấy hết cả con voi. Mỗi người bạn thấy một phần của vấn đề nhưng họ không thể thấy hết được tất cả mọi thứ. Vấn nạn của sự đau khổ đến trên những con người mà lẽ ra họ được miễn trừ vẫn là một chủ đề hóc búa trong mọi thời đại. Gióp nói nhiều hơn tất cả mọi người cộng lại, ông đã phê phán các bạn hữu: “Còn các ngươi là kẻ đúc rèn lời dối trá, thảy đều là thầy thuốc không ra gì hết… Châm ngôn của các ngươi chỉ như châm ngôn tro bụi, những thành lũy của các ngươi thật là thành lũy bùn đất” (Gióp 13:4, 12). Và ông cũng tự binh vực mình: Chúa biết con đường tôi đi; Khi Ngài đã thử rèn tôi, tôi sẽ ra như vàng. Chân tôi bén theo bước Chúa; Tôi giữ đi theo đường Ngài, chẳng hề sai lệch. Tôi chẳng hề lìa bỏ các điều răn của môi Ngài, Vẫn vâng theo lời của miệng Ngài hơn là ý muốn lòng tôi. (Gióp 23:10-12) Sau các lời phát biểu của ba bạn hữu, Ê-li-hu một người trẻ tuổi xuất hiện. Ê-li-hu đưa ra một quan điểm trung dung giữa quan điểm của Gióp và nhóm ba bạn hữu. Thông điệp của Ê-li-hu nhấn mạnh khổ đau là hồi chuông cảnh báo từ Chúa dành cho con người. Ê-li-hu cho rằng Gióp đã sai lầm khi cáo buộc Chúa bất công. Ê-li-hu cũng ca ngợi quyền năng và sự khôn ngoan của Đấng cai trị trên mọi sự. Ông khuyên Gióp không nên ta thán mà hãy kêu cầu cùng Chúa về những khổ nạn của mình. Những gì Ê-li-hu thuyết giảng cũng mang trong đó một chút kiêu hãnh của tuổi trẻ. Gióp không thể thỏa lòng từ những gì bạn bè chia sẻ, ông phải đối diện với Đức Chúa Trời để nhận ra bài học Chúa muốn dạy. Không ai nghi ngờ thiện chí của các bạn hữu Gióp, nhưng rồi họ đã nói một cách không xứng đáng về Chúa là Đấng tối cao, và những bài diễn thuyết dài dòng của họ chỉ làm cho Gióp thêm đau khổ, khiến ông có lúc cũng đã sai sót trong những lời nói. Dĩ nhiên trong Gióp có hai con người: Gióp kiên nhẫn và Gióp thiếu kiên nhẫn. Gióp, tôi tớ của Đức Giê-hô-va là một người trọn vẹn, nhưng đồng thời cũng là một con người với những giới hạn thông thường khó vượt qua. Thế nhưng trong mọi suy tưởng và lời nói, Chúa đã nhìn nhận Gióp là luôn nói về Ngài một cách đúng đắn. Gióp đã có những tranh luận với Chúa, nhưng ông luôn tin cậy Ngài bất luận trong hoàn cảnh nào. Câu nói nổi tiếng của ông: “Dù Chúa giết tôi, tôi vẫn còn tin cậy nơi Ngài” (Gióp 13:15) Gióp là một người công nghĩa vào thời đó trong cái nhìn của Chúa. Nhưng người công nghĩa vẫn phải đi qua những mất mát, đau thương trong cuộc đời. Không có ai trên thế giới này được miễn trừ điều đó. Đau khổ là một phần tất yếu của cuộc sống! Gióp, hiện thân của con người công nghĩa chịu đau khổ. Nhưng đến cuối cùng qua cơn thử thách Chúa đã bù đắp cho ông. Gióp đã đối mặt cùng Chúa, khi Ngài hỏi ông những câu hỏi thì mọi lý luận trong tâm trí Gióp sụp đổ và ông ngộ ra một bài học lớn: “Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, Lòng ông tan chảy khi ông đối diện với những câu hỏi mang tính dạy dỗ của Đấng toàn năng. Nếu Gióp không trả lời được các câu hỏi của Đức Chúa Trời về vũ trụ, vạn vật, thì làm sao ông có thể hiểu nổi huyền nhiệm về sự đau khổ, đặc biệt là nó được dành cho những con người công bình chính trực? Gióp đã có những sai sót trong lời nói hướng về Chúa. Nhưng lạ thay Chúa vẫn đánh giá ông là một con người ngay thẳng. Sứ điệp của Ðức Chúa Trời từ trong gió lốc ở phần cuối của sách đã tỏ ra một phần ý chỉ của Ngài. Chúa cho biết con người hữu hạn không thể hiểu biết mọi sự huyền nhiệm vô hạn của Ngài trong công cuộc sáng tạo và cai trị vũ trụ. Bởi vì tâm trí loài người có giới hạn, và họ sống trong một thế giới mà mỗi ngày họ thấy những điều khó hiểu, hơn nữa họ ở dưới những quyền lực mà tự mình không thể chống lại được. Gióp đã đi qua những thử thách khó khăn và ông đã vượt qua bởi ân sủng của Chúa. Điều chắc chắn là bản thân Gióp đã được trang bị một tinh thần vững vàng trong nghịch cảnh, nên những gì ông nói phản ánh tính cách của một nhà quí tộc kính sợ và tin yêu Chúa. Và cuối cùng Chúa bù đắp cho Gióp gấp đôi những gì ông đã bị Sa-tan tước mất. Chúa biết con đường Gióp phải đi qua, và Ngài tạm thời cho phép Sa-tan tấn công khủng bố Gióp trong một giới hạn, nhưng chắc chắn Chúa luôn gìn giữ tôi tớ của Ngài. Sa-tan luôn luôn là một kẻ chiến bại! Bạn thân mến! Bạn đang trải qua những khổ nạn trong cuộc sống? Những gì bạn đối diện có so sánh được với Gióp? Hãy nhìn vào những hoàn cảnh đau thương chung quanh chúng ta. Mỗi ngày trôi qua trên thế giới này có rất nhiều cuộc đời đang sống trong những nỗi bất hạnh. Nguyên nhân nào? Tại sao phải tìm kiếm nguyên nhân trong khi cuộc đời của bạn và tôi đã đặt trong vòng tay của Chúa hằng hữu? Nguyên nhân của sự khổ đau vẫn còn là một huyền nhiệm với tâm trí con người. Phản ứng của chúng ta trong sự khổ nạn thì quan trọng hơn là tìm biết lý do của nó. Một ai đó đã nói: Tôi thà tiếp tục tin cậy Chúa thành tín, tốt lành còn hơn là tìm kiếm câu trả lời cho hoàn cảnh của tôi. “Tôi trần truồng lọt khỏi lòng mẹ, và tôi cũng sẽ trần truồng mà về; Đức Giê-hô-va đã ban cho, Đức Giê-hô-va lại cất đi; đáng ngợi khen danh Đức Giê-hô-va!” (Gióp 1:21). TƯỜNG VI |
| 467 lượt xem tại: http://songdaoonline.com/e2917-dau-kho-tan-cung-tuong-vi-bai-chon-dang-130-.html |
Romans 5
New International Version (NIV)
Peace and Hope
5 Therefore, since we have been justified through faith, we have peace with God through our Lord Jesus Christ, 2 through whom we have gained access by faith into this grace in which we now stand. And we boast in the hope of the glory of God. 3 Not only so, but we also glory in our sufferings, because we know that suffering produces perseverance; 4 perseverance, character; and character, hope. 5 And hope does not put us to shame, because God’s love has been poured out into our hearts through the Holy Spirit, who has been given to us.
6 You see, at just the right time, when we were still powerless, Christ died for the ungodly. 7 Very rarely will anyone die for a righteous person, though for a good person someone might possibly dare to die. 8 But God demonstrates his own love for us in this: While we were still sinners, Christ died for us.
9 Since we have now been justified by his blood
m, how much more shall we be saved from God’s wrath through him! 10 For if, while we were God’s enemies, we were reconciled to him through the death of his Son, how much more, having been reconciled, shall we be saved through his life! 11 Not only is this so, but we also boast in God through our Lord Jesus Christ, through whom we have now received reconciliation.
Death Through Adam, Life Through Christ
12 Therefore, just as sin entered the world through one man,and death through sin, and in this way death came to all people, because all sinned—
13 To be sure, sin was in the world before the law was given, but sin is not charged against anyone’s account where there is no law. 14 Nevertheless, death reigned from the time of Adam to the time of Moses, even over those who did not sin by breaking a command, as did Adam, who is a pattern of the one to come.
15 But the gift is not like the trespass. For if the many died by the trespass of the one man, how much more did God’s grace and the gift that came by the grace of the one man, Jesus Christ, overflow to the many! 16 Nor can the gift of God be compared with the result of one man’s sin: The judgment followed one sin and brought condemnation, but the gift followed many trespasses and brought justification. 17 For if, by the trespass of the one man, death reigned through that one man, how much more will those who receive God’s abundant provision of grace and of the gift of righteousness reign in life through the one man, Jesus Christ!
18 Consequently, just as one trespass resulted in condemnation for all people, so also one righteous act resulted in justification and life for all people. 19 For just as through the disobedience of the one man the many were made sinners, so also through the obedience of the one man the many will be made righteous.
20 The law was brought in so that the trespass might increase. But where sin increased, grace increased all the more, 21 so that, just as sin reigned in death, so also grace might reign through righteousness to bring.
Những điểm ngữ pháp cần nghiên cứu để hiểu rõ Lời Chúa:
1. THEREFORE : ( Adverb) for that reason.
Ex: “Therefore, since we have. been justified through faith, we have peace with God through our Lord Jesus Christ,” (v 1) câu này ý tưởng liên tục với câu 25 của Romans 4: “He was delivered over to death for our sins and was raised to life for our justification.”( Romans 4:25).
“Therefore, just as sin entered the world through one man,and death through sin, and in this way death came to all people, because all sinned.” (v 12).
THEREFORE thường được đặt ở giữa câu (ngoài ra cũng có thể đặt ở đầu hoặc cuối câu)
Ex:
– We feel, THEREFORE, that a decision must be made.
2. SINCE là liên từ (cọnjunction) chỉ lý do.
SINCE + clause tạo thành mệnh đề phụ chỉ lý do ( subordinate clause of reason). Nếu nó đứng trước mệnh đề chính thì phải có dấu phảy ( comma )
Ex:
– SINCE we arrived late, all the best seats had been taken.
“Since we have now been justified by his blood, how much more shall we be saved from God’s wrath through him!” (v 9)
3. However và Nevertheless là adverb
However và nevertheless – diễn đạt sự tương phản. Nevertheless trang trọng và nhấn mạnh hơn However. Cả 2 từ thường đứng đầu câu nhưng cũng có thể đứng giữa hoặc cuối câu.
Ex: I can understand everything you say about wanting to share a flat with Martha. However, I am totally against it.
“To be sure, sin was in the world before the law was given, but sin is not charged against anyone’s account where there is no law. Nevertheless, death reigned from the time of Adam to the time of Moses, even over those who did not sin by breaking a command, as did Adam, who is a pattern of the one to come.” (v 13-14).
4. HOW MUCH MORE
“For if, by the trespass of the one man, death reigned through that one man, how much more will those who receive God’s abundant provision of grace and of the gift of righteousness reign in life through the one man, Jesus Christ!” (v 17). Vả, nếu bởi tội một người mà sự chết đã cai trị bởi một người ấy, thì huống chi những kẻ nhận ân điển và sự ban cho của sự công bình cách dư dật, họ sẽ nhờ một mình Đức Chúa Jêsus Christ mà cai trị trong sự sống là dường nào!
“Since we have now been justified by his blood, how much more shall we be saved from God’s wrath through him” (v 9). Huống chi nay chúng ta đã nhờ huyết Ngài được xưng công bình, thì sẽ nhờ Ngài được cứu khỏi cơn thạnh nộ là dường nào
5. THROUGH: preposition ( giới từ ) có nhiều cách dùng và tuỳ mỗi trường hợp nó có nghĩa khác nhau.
a/ Trong Roman 5 các câu 1,2,9,10,11,12,17,19 va 21.
THROUGH được dùng để chỉ tác nhân hay phương tiện ( indecating the agent or means) : nhờ, bởi, vì
” Therefore, since we have been justified THROUGH faith, we have peace with God THROUGH our Lord Jesus Christ .” Roman 5:1
Roman 7:25 cũng được dùng với nghĩa này:
“I thank God THROUGH Jesus Christ our Lord.”
b/ THROUGH : qua ( through sb/ sth)
Hebrews 10:20
” by a new and living way opened for us THROUGH the curtain, that is, his body”
Matt 19:24
” Again I tell you it is easier for a camel to go THROUGH the eye of a needle for a rich man to enter the kingdom of God.”
Deuteronomy 2:27
” Let us pass THROUGH your country.We will stay on the main road; we will not turn aside to the right or to the left.”
Ngoài ra THROUGH cũng được dùng như một trạng từ ( adverb ) và được dùng trong kinh thánh nhiều lần.
Chúng ta sẽ khảo sát và nghiên cứu khi gặp từ nầy trong thời gian tiếp theo.
Lưu ý một điều là khi THROUGH được dùng như một giới từ thi nó phải có một túc từ ( object ) theo sau.
Nguyền xin Chúa ban ơn cho chúng ta trong khi nghiên cứu lời Ngài theo Ephrsians 1:17 “I keep asking that the God of our Lord Jesus Christ, the glorious Father, may give you the Spirit of wisdom and revelation, so that you may know him better.”
Emmanuel
Ban Biên tập.
Slow Erosion
Decline is everywhere in the church, but many don’t see it.
It is rare for a long-term church member to see erosion in his or her church. Growth may come rapidly, but decline is usually slow, imperceptibly slow. This slow erosion is the worst type of decline for churches, because the members have no sense of urgency to change. They see the church on a regular basis; they don’t see the gradual decline that is taking place before their eyes.
Often the decline is in the physical facilities, but it is much more than that. The decline is in the vibrant ministries that once existed. The decline is in the prayer lives of the members who remain. The decline is in the outward focus of the church. The decline is in the connection with the community. The decline is in the hopes and dreams of those who remain.
Tạm dịch:
Sự Xói Mòn Chậm Chạp
Sự sút giảm đang diễn ra khắp nơi trong Hội thánh, nhưng nhiều người không thấy.
Hiếm khi một tín hữu lâu năm nhìn thấy sự xói mòn trong Hội thánh. Sự tăng trưởng đến nhanh, nhưng sự sút giảm thường thì chậm, chậm đến mức không nhận ra. Sự xói mòn chậm chạp như thế là hình thức sút giảm tệ hại nhất của các Hội Thánh, bởi vì các thành viên không cảm nhận được sự cấp thiết phải thay đổi. Họ cứ nhìn xem Hội Thánh như bình thường; họ không thấy được sự sút giảm dần dần đang diễn ra trước mắt.
Thông thường thì sự sút giảm sẽ thấy trong cơ sở vật chất hữu hình, nhưng còn nhiều hơn thế. Sự sút giảm nằm trong các hoạt động mục vụ sinh động mà trước đây đã từng có. Sự sút giảm nằm trong đời sống cầu nguyện của các thành viên ngày nay còn sót lại. Sự sút giảm nằm trong các hoạt động hướng ngoại của Hội Thánh. Sự sút giảm nằm trong sự gắn kết giữa Hội Thánh với cộng đồng. Sự sút giảm nằm trong hy vọng và ước mơ của những người còn sót lại.
LMĐ.
|
Trong những năm người Pháp còn cai trị Việt Nam, ông nội của tôi đã tiếp nhận Chúa Jesus làm Cứu Chúa trong một chiến dịch truyền giảng Tin Lành tại Bình Định. Ngày đó ông tôi là một thầy thuốc Đông y nổi tiếng tại Đập Đá, An Nhơn. Quê hương của ông được nói đến trong câu ca dao này: Ai về Đập Đá Gò Găng Để em kéo sợi đêm trăng một mình? Ba tôi là đứa con thứ mười một (áp út) của ông bà tôi. Ba lớn lên trong một gia đình tương đối khá giả thời đó, nên được học hành đàng hoàng hơn hẳn những thanh niên cùng thời. Ba tôi còn là một người đàn ông với những sở thích rất nghệ sĩ như: chơi đàn Violin, Accordion, thổi kèn Harmonica… và lái xe ô tô. Khi ba tôi mười chín tuổi, ông nội dẫn ba ra Quảng Ngãi để coi mắt vợ tương lai. Má tôi lúc ấy là một thiếu nữ phơi phới đang lên với những ước mơ lấp lánh như hạt thủy tinh ngời sáng trong đôi mắt. Vào thời đó, dân gian thường nói về chuyện hôn nhân: Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Ba tôi háo hức lên tàu lửa đi cùng ông nội ra Tư Nghĩa, Quảng Ngãi để “diện kiến” người vợ tương lai. Khi đến nơi, mệt mỏi vì đường xa với đoàn tàu lửa chạy cà rịch cà tang trên suốt lộ trình, ba tôi nằm ngay trên bộ ván của bà ngoại (ông ngoại tôi đã ra đi khi má tôi lên tám tuổi) giữa phòng khách đánh một giấc ngon lành bất kể trời trăng mây gió. Mọi người trong nhà và hàng xóm hiếu kỳ đứng ngoài hè nhìn vô xem thử chàng trai này mặt mũi ra sao. Bà hàng xóm nhận xét: “Trông nó hiền hậu và sáng sủa đấy chứ. Nếu con bé Út Mai chịu ưng thằng này thì tuyệt lắm đây.” Má tôi lúc ấy đâu dám nói gì, nhưng nhất cử nhất động của ba tôi không thể nào qua khỏi con mắt “tinh tường” của bà. Bà ngoại đem bình trà ra mời khách, ông nội bắt đầu câu chuyện với bà ngoại và cậu Ba: -Chị biết đấy, chuyện tình duyên của con cái chúng ta phải theo nguyên tắc của Kinh Thánh. Áp-ra-ham đã cầu nguyện và tìm kiếm một cô dâu xứng đáng cho con trai của ông là Y-sác. Và rồi gia đình này đã tìm được một nàng Rê-be-ca có đầy đủ công, dung, ngôn, hạnh, xứng đáng là một người nữ tài đức theo Châm Ngôn chương 31. Tôi cũng theo nguyên tắc đó. Cậu con trai nhà tôi hôm nay đã đến đây không phải ngẫu nhiên, nhưng nó đến từ sự cầu nguyện của tôi và chị, nói rộng ra là lời cầu nguyện của cả hai gia đình chúng ta. Tôi và chị là những môn đồ của Chúa, thì việc dựng vợ gả chồng cho con dĩ nhiên phải đi theo hướng dẫn của Lời Chúa. Người Việt mình có câu ca dao này: Trai khôn tìm vợ chợ đông. Gái ngoan tìm chồng giữa chốn ba quân. Cái “chợ đông” hay “ba quân” của văn hóa Việt Nam phải được điều chỉnh lại trong ánh sáng của Kinh Thánh là trong vòng “cộng đồng cơ đốc”. Vì vậy tôi chỉ có thể tìm kiếm một cô dâu giữa vòng hội thánh mà thôi. Nếu Út Mai nhà chị không chê thằng con trai của tôi, thì chúng ta sẽ tiến hành lễ cưới cho chúng nó trong năm nay. Ông bà mình thường nói: Cưới vợ thì cưới liền tay. Chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha. Ý của chị như thế nào? Bà ngoại thong thả trả lời: -Anh nói cũng phải. Chúng ta là cơ đốc nhân, việc cưới xin phải được Thiên Chúa phù trợ, hướng dẫn, ban phước. Người tính không bằng Trời tính mà. Kinh Thánh cũng dạy: Nếu Đức Giê-hô-va không cất nhà, thì những thợ xây cất làm uổng công (Thi thiên 127:1). Chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời trả lời sự sự cầu nguyện của hai gia đình chúng ta. Con bé Út Mai của tôi rất ngoan và khéo léo trong mọi công việc, tôi nói gì nó nghe nấy. Nó giống như Rê-be-ca của Y-sác ngày xưa vậy. Tôi cũng tin anh mặc dù tôi không biết con trai của anh như thế nào, nhưng chắc là nó cũng giống anh thôi. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Hơn nữa nó được anh dạy dỗ, rồi lớn lên trong nhà thờ chắc chắn là có phẩm hạnh tốt rồi. Tôi còn nghe nói thằng này còn có tài sử dụng các loại nhạc khí, nếu đúng như vậy thì đây là ân tứ Chúa ban. Chiều nay anh phải bảo nó biểu diễn cho chúng tôi xem để “mục kích sở thị” mới được. Cậu Ba cũng góp thêm vài lời vào phần đối thoại giữa ông nội và bà ngoại: -Những lời của bác và má tôi nói quả không sai. Tôi là anh của Út Mai rất thích thú với câu chuyện của hai bậc cha mẹ. Dù sao thì chúng tôi cũng muốn nghe con trai bác biểu diễn âm nhạc để mở rộng tầm mắt. Ông nội lắng nghe chăm chú rồi đánh thức ba tôi đang chìm trong giấc mơ hoa: -Chiều nay con chuẩn bị để biểu diễn âm nhạc cho mọi người nghe nhé. Ba tôi lồm cồm ngồi dậy, lấy hai tay dụi vào mắt: -Biểu diễn cái gì, con không mang theo nhạc cụ nào cả. -Ồ, không có nhạc cụ thì con phải chế ra nhạc cụ mà biểu diễn. Có khó gì đâu trong khi mọi người đều biết con là một nhạc công tài năng mà. Thế là sau buổi cơm chiều đáng nhớ với thịt gà luộc, cá lóc nấu canh chua, mọi người trong gia đình bà ngoại và hàng xóm tập trung ở phòng khách nghe ba tôi biểu diễn âm nhạc. Rất đơn giản, ông ra vườn bứt một lá mận rồi đưa lên miệng thổi giống như người ta thổi kèn Harmonica. Hai bàn tay ông chụm lại với chiếc lá bẻ cong, và rồi những nốt nhạc với đầy đủ cung bậc vang lên bài Thánh Ca quen thuộc “Chúa thuộc về tôi, tôi nguyền tin sắt son…”. Những âm điệu thánh thót, trầm bổng du dương trong phòng khách làm mọi người há hốc mồm kinh ngạc. Khi ông thổi tới phần điệp khúc: Này là truyện ký tôi, bản ca của tôi. Ba tôi thêm phần hòa âm mà ông tự sáng tác với những âm thanh cao vút lên tới tận mây xanh… làm cho mọi người nín thở lắng nghe. “Đúng là một thiên tài!” Có tiếng khen ngợi của bác Tám hàng xóm. Má tôi không nói gì, bà chỉ cười tủm tỉm rồi quay mặt đi với vẻ mặt thẹn thùng…Tất cả những cử chỉ và phản ứng của má không làm sao qua khỏi đôi mắt của bà ngoại. Bà nhìn cô con gái đang tuổi dậy thì vừa mừng vừa lo, không biết nó có chấp nhận anh chồng tương lai nghệ sĩ này không! Vào lúc đó má hiền lành như một ma-sơ, cha mẹ đặt đâu chỉ biết ngồi đó chứ nào biết tình yêu đôi lứa là gì. Trong tự điển của má tôi không có từ “hẹn hò” mà chỉ có từ “trao duyên gởi phận”. Thôi thì cha mẹ hai bên gia đình đã cầu nguyện và sắp đặt như thế, thì bà cũng đành “nhắm mắt đưa chân” về nhà người ta chứ đâu có dám ý kiến gì. Đồng thời việc này vốn đã được cầu nguyện trình dâng lên Chúa từ rất lâu của cả hai bên gia đình. Và còn một điều nữa, ba tôi xuất hiện với một phong cách lịch lãm, hào hoa đã chinh phục má tôi từ lần đầu gặp gỡ, làm cho bà rơi vào tâm trạng “tình trong như đã mặt ngoài còn e”! Chỉ năm tháng sau đó má tôi lên xe hoa về nhà chồng. Đó là một ngày cuối Đông của năm 1957. Hôn lễ của ba má tôi được mục sư Lê Đình Tố làm chủ lễ tại nhà thờ Tin lành Qui Nhơn. Thầy cô truyền đạo Dương Thạnh song ca hát tặng cho đôi tân hôn trong ngày cưới. Chuyện tình yêu của bà chỉ đến sau hôn nhân. Bây giờ bà học tập thích nghi với hoàn cảnh mới trong gia đình nhà chồng và tình yêu đến tự nhiên với chồng con, mà không cần phải cố gắng gì. Má tôi đảm trách mọi việc trong nhà như một “nội tướng” kỳ cựu. Ngoài ra đời sống cầu nguyện bền bỉ của bà mỗi ngày đã ảnh hưởng rất nhiều trên cuộc đời của chúng tôi. Thế hệ của má và chúng tôi rất khác nhau trong chuyện yêu đương. Còn thế hệ các con của chúng tôi bây giờ dĩ nhiên lại khác nhiều hơn nữa. Mỗi một thời đại đều có những nét đặc trưng riêng của nó. Nhưng tình yêu và hôn nhân trong Chúa không bao giờ thay đổi bất luận với không gian và thời gian nào. Đất nước đang có chiến tranh, ba tôi vào quân ngũ rồi sau đó xin về vào học ở Thần học viện Nha Trang, má tôi tháp tùng cùng học với chồng. Nhiệm sở đầu tiên ông bà về công tác là hội thánh Bồng Sơn thuộc Bình Định. Tại nơi này tôi mở mắt chào đời vào năm 1961. Khi tôi lọt ra khỏi lòng mẹ, má đùm bọc tôi trên một cái giường mà phía dưới là nước lũ, còn bên ngoài mưa gió bão bùng. Tôi sinh ra trong mùa mưa lũ ở miền Trung (có lẽ vì lý do này mà cả đời tôi luôn sợ nước!), ba tôi lúc ấy bận rộn với các mục vụ, và ông phải nhờ một người bạn đồng công là thầy truyền đạo Nguyễn Ngọc Dư đi tới chính quyền sở tại làm giấy khai sinh cho tôi. Cuộc sống hôn nhân, gia đình của ba má tôi cũng giống như hầu hết các gia đình của những người hầu việc Chúa vào thời ấy. Ba má tôi bên nhau trên những bước đường công tác và nuôi dạy chúng tôi. Khi tôi bắt đầu vào học Tiểu học, ba má tôi chuyển về Qui Nhơn. Tuổi niên thiếu của chúng tôi đã lớn lên từ thành phố biển này với những kỷ niệm thật êm đềm. Chỉ trong vòng mười sáu năm sau ngày cưới má tôi sinh ra chín đứa con. Thật là một kỷ lục! (Thực ra thời đó việc này là bình thường). Tôi trở thành chị Ba cho các em của tôi gồm ba trai ba gái. Không cần phải nói nhiều, mọi người đều biết làm chị Ba phải vất vả như thế nào để cùng với má canh chừng đám em ngỗ nghịch. Nhưng má tôi vất vả vạn lần hơn. Qua bao nhiêu năm tình mẹ thương con vẫn như biển rộng sông dài. Khi các con trong gia đình gặp sự cố về hôn nhân, má tôi không tài nào ngủ được và nước mắt bà cứ như một dòng suối chảy mãi… Sau năm 1975 đời sống vật chất của gia đình tôi như một chiếc xe cứ tuột dốc không phanh. Lúc này ba má tôi chèo chống chiếc thuyền gia đình với bao nhiêu nhiêu vất vả. Thời gian này cũng là lúc má chứng tỏ khả năng của bà trong những năm tháng sóng gió. Má tôi làm nhiều việc khác nhau để có thể bảo đảm cho các anh chị em chúng tôi tiếp tục đến Trường. Nhờ ân điển Chúa, mọi thứ khó khăn rồi cũng đi qua. Vào năm 2002 ba tôi về nước Chúa sau một cơn bạo bệnh. Má thẫn thờ suốt cả tháng sau đó. Nhưng rồi thời gian cũng làm vơi đi nỗi buồn của bà. Từ đây cuộc hành trình còn lại trên đất bà đã mất đi “một nửa yêu thương”, nhưng bên cạnh bà đã có con cháu vây quanh và một người bạn lớn là Chúa Jesus mãi mãi là nguồn sống của bà. Cách đây 5 năm, má được vợ chồng cô con gái út bảo lãnh sang định cư ở Oregon. Bây giờ má đã có quốc tịch Mỹ. Thỉnh thoảng bà về thăm Việt Nam. Tháng rồi, má từ Hoa Kỳ về thăm quê hương, tôi mở máy tính bảng cho bà đọc câu chuyện tình yêu của một tác giả trên songdao.online. Đọc xong, má ngẫm nghĩ rồi nói: -Đây là chuyện tình của những lứa tuổi thời hiện đại, còn chuyện của má thì khác. Với má thì tình yêu chỉ đến sau hôn nhân, chứ không giống như người ta. Vào cái thời xa xưa ấy, có ai biết hẹn hò, yêu đương, nhớ nhung là gì. Việc hôn nhân là của người lớn. Cha mẹ bảo sao, má chỉ biết nghe vậy. Nhưng bây giờ nhìn lại má biết rằng việc hôn nhân là của Chúa. Ngài đã làm chủ trong hôn nhân của má và ban phước cho má và gia đình trong suốt nhiều năm qua. Dù ở thời đại nào, phước hạnh thực sự chỉ đến khi người ta có Chúa làm Chủ trong cuộc sống lứa đôi của mình. Hôn nhân cũng là một huyền nhiệm theo Kinh Thánh, khi mà hai vợ chồng trở nên một thân trong Chúa. Và mối liên kết đó, không gì phá vỡ được. Má còn nói thêm nhiều điều khác dặn dò chúng tôi phải trân trọng và giữ gìn đời sống hôn nhân của mỗi gia đình. Má đã già rồi, không còn can thiệp hay kiểm soát gì được chuyện của con cái, nhưng bà luôn cầu nguyện cho gia đình của từng đứa con với mong ước các con luôn có một đời sống hôn nhân hạnh phúc theo Kinh Thánh. DAVID LINH ÂN |
| 320 lượt xem |
| tại: http://songdaoonline.com/e2883-tinh-yeu-cua-ma-david-linh-an-bai-chon-dang-122-.html |
Trong 3 ngày 12, 13 và 14 tháng 5 năm 2014 Ban điều hành của Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam và Đoàn Công Tác Từ Thiện Giô-sép ( JCG-VN ) đã có chuyến muc vụ đến giáo khu Cần Thơ.
Buổi chiều ngày 12 mục sư Hội trưởng Nguyễn Đức Na đã chia xẻ sứ điệp Thánh Kinh HÃY CẢM TẠ CHÚA (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:18) trong buổi lễ cảm tạ nhà mới của thầy Trần văn Hoàng. Ngôi nhà này cũng là nơi nhóm lại của hội thánh TLLH Đông Bình 2 thuộc giáo khu Cần Thơ. Đoàn từ thiện Giô-sép đã hỗ trợ một phần tài chánh cho việc chỉnh trang lại ngôi nhà này. Cảm ơn Chúa sau khi xây dựng lại ngôi nhà mới, một phòng nhóm được dành riêng để thờ phượng Chúa.
Trong ngày tiếp theo, các hội thánh trong giáo khu Cần Thơ đã tổ chức hội đồng bồi linh tại HTTLLH Đông Thuận 1. Nội dung của kỳ hội đồng này là rao giảng các sứ điệp Kinh Thánh xoay quanh chủ đề: ĐẮC THẮNG SỰ SỢ HÃI và XÂY DỰNG HỘI THÁNH VỮNG MẠNH. cũng có sứ điệp khích lệ TINH THẦN HẦU VIỆC CHÚA. Các mục sư trong Ban điều hành đã chia xẻ các sứ điệp này. Bên cạnh đó các quản nhiệm cũng đã lần lượt làm chứng về ơn phước Chúa trên chức vụ của chính mình.
Mục sư nhiệm chức Nguyễn Thanh Hồng, quản nhiệm HTTLLH Đông Thuận 1 làm chứng về những ơn phước Chúa dành cho gia đình và chức vụ của ông, đồng thời ông cũng hứa nguyện trung thành với Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam, không chạy đi đâu nữa như những năm tháng trước đây khi chưa hiểu Hội thánh Chúa được mua bằng chính huyết Ngài . Ông cũng đại diện Giáo Khu Cần thơ cảm ơn GH đã chăm lo cho đời sống thuộc linh , thường xuyên giảng dạy lời Chúa và huấn luyện Kinh thánh cho các quản nhiệm cũng như cho các Hội thánh. Vợ của MSNC Nguyễn Thanh Hồng cũng lên làm chứng rằng Chứa đã thương xót Bà.” Những năm trước kia tôi thường đau phải thường xuyên nhập viện, mỗi làn kéo dài hơn 2 tháng. Nhưng từ hôm MSHT cầu nguyện cho tôi từ xa qua đt di động khi tôi nằm tại bênh viện, tôi được Chúa chữa lành và khỏi phải đi xe lăn tay nữa như quý vị thấy hôm nay.”
Thầy Giáo, quản nhiệm của HTTLLH Đông Bình 1 cũng đã nói lên tấm lòng biết ơn của mình đối với Chúa, vì Chúa đã cứu ông ra khỏi vũng bùn lấm của thế gian và ” dựng nên mới” ông trong nhà của Ngài. Các thầy quản nhiệm khác như Thầy Chánh (HTTLLH Trường Xuân 1), thầy Tình (HTTLLH Đông Thắng 1), thầy Hoàng (HTTLLH Đông Bình 2), thầy Hồng cũng bày tỏ tấm lòng biết ơn đối với Chúa và cảm ơn Giáo Hội đã giúp đỡ cho các quản nhiệm trong công tác huấn luyện Kinh Thánh và những nhu cầu khác để xây dựng Hội Thánh.
Trước khi chia tay tất cả đều giơ tay lên hứa nguyện cùng nhau cầu nguyện cho các HT thuộc Giáo khu Cần thơ được phục hưng đứng dậy hầu việc Chúa trước khi MS Hội trưởng chúc phước.
Sau ngày hội đồng bồi linh, Đoàn Công Tác Từ Thiện Giô-sép cũng đã hỗ trợ cho cô truyền đạo Nguyễn Hoa Tươi những vật liệu xây dựng như cát, gạch, xi măng để tu sửa lại phòng nhóm của hội thánh TLLH Thới Tân 1.
Các hình ảnh được ghi nhận sau đây:

MS nhiệm chức Nguyễn Thanh Hồng hướng dẫn Lễ cảm tạ dâng nhà mới.
|
Thùy Dương nhìn hai đứa con đang ngủ mà lòng dạ ngổn ngang trăm mối. Làm thế nào để nuôi con và tiếp tục đưa chúng đến trường? Thằng cu Tín 8 tuổi đang học lớp 2. Bé Ti 6 tuổi lớp 1. Ba của chúng nó ra biển trên một chiếc ca-nô ba lốc máy đánh bắt cá xa bờ đã hơn một tháng nay không trở về. Đồn biên phòng Cổ Lũy cho biết chiếc thuyền đánh cá mà chồng của Thùy Dương là thuyền viên gắn bó sáu năm nay mang số hiệu QN 38597-ST xem như mất tích sau bốn tuần tìm kiếm. Cơn bão số 12 đi qua đã làm cho ba chiếc thuyền đánh cá ra đi từ Bình Châu, Quảng Ngãi biến mất không dấu vết. Thùy Dương lập lên một bàn thờ với tấm ảnh chân dung của chồng, và khấn vái: Anh Trung ơi, nếu anh có linh thiêng thì phù hộ cho mẹ con em. Em muốn có việc làm và thu nhập tốt để nuôi cu Tín, bé Ti khôn lớn thành người. Gạt đi những giọt nước mắt buồn, Thùy Dương đi vào nhà bếp ngồi xuống và hy vọng. Biết đâu anh ấy còn sống và trở về thì sao? Chắc mình mừng chết mất! Nhìn vào thùng gạo. Ấy chết, hết trơn rồi. Bây giờ thì lấy tiền ở đâu ra để mua gạo? Đã ba ngày nay chị và hai đứa bé chỉ ăn cơm với nước tương, rau muống cầm hơi qua ngày. Liệu mình có vượt qua được cửa ải này không? Thùy Dương miên man suy nghĩ. Có tiếng gõ cửa bên ngoài, Thùy Dương nhìn ra, đó là bà Tư hàng xóm qua thăm và biếu cho ba gói mì tôm. “Nè, ăn đỡ gói mì. Còn nước còn tát mà. Biết đâu ngày mai thằng chồng mày nó trở về.” Tiếng bà Tư bùi ngùi. “Cám ơn bà, thiệt tình cháu không biết ngày mai sẽ ra sao. Liệu có hy vọng gì không, khi mà mỗi ngày trôi khả năng chồng con trở về càng mỏng manh.” Thùy Dương nói trong dòng nước mắt. Thùy Dương trở thành đá vọng phu, cứ mỗi hoàng hôn, nàng ra biển nhìn về hướng chân trời xa nói chuyện với gió biển và những con sóng bạc đầu qua bao năm dường như vẫn vô tình lẳng lơ cùng bãi cát với hàng dương liễu lưa thưa. Trung ra đi vĩnh viễn không về. Có lẽ bây giờ chiếc thuyền và anh đã tan xác pháo chìm xuống một nơi nào đó dưới lòng đại dương mênh mông. “Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ, nhưng biển cũng là nghĩa trang chôn lấp biết bao người…”. Thùy Dương thầm nghĩ. Mình sẽ làm gì trong những tháng ngày sắp tới để nuôi con? Đối với nàng đó là một câu hỏi lớn. Cơn bão số 12 khủng khiếp trong năm nay gieo tang tóc cho mười sáu gia đình ở Bình Châu, Quảng Ngãi. Người chồng, cột trụ của gia đình ngã xuống, còn lại những góa phụ với đàn con nheo nhóc. Cuộc sống đôi khi thật nghiệt ngã, dường như không có gì hợp lý cả trong trường hợp của Thùy Dương. “Đời là bể khổ, mình sẽ còn khổ đến bao giờ?” Thùy Dương nói với chính mình. Thùy Dương tìm kiếm một việc làm phù hợp để có thể nuôi con. Những năm qua người phụ nữ này chỉ biết việc nhà, nội trợ và… nuôi con. Bây giờ cuộc sống trở nên khó khăn trăm bề. Gia đình nội ngoại của Thùy Dương cũng nghèo lắm. Nếu có giúp đỡ được gì thì cũng chỉ mang tính tượng trưng thôi. Thùy Dương phải xoay xở mọi cách để có thể tồn tại…. Không lâu sau đó trên con đường làng xuất hiện một phụ nữ với gánh đậu hũ. Mọi người đều biết đó là Thùy Dương. Chưa vượt qua tuổi ba mươi nên vóc dáng của nàng còn rất xinh xắn. Khi cô ấy đi qua với gánh đậu hũ trên đôi vai gầy, mọi người đều thương và gọi lại mua ủng hộ. Năm ngàn một chén đậu hũ với nước đường đen trông thật hấp dẫn. “Chị Dương cho em hai chén.” Tiếng của một cô gái trẻ gọi í ới. “Ồ, anh Trung ra đi, bây giờ chị phải gánh đậu hũ đi bán sao?” Thùy Dương mỉm cười mà như mếu: “Biết làm thế nào được, chị phải làm một cái gì để kiếm sống chứ!” Dưới cái nắng tháng sáu như đổ lửa trên những con đường làng ở huyện Bình Sơn, Thùy Dương sớm tối đi về, một mình một bóng với gánh hàng rong trên vai. Cuộc sống ơi, ta chào mi. Bạn thân ơi, hãy vui lên vì cuộc đời còn nhiều lý do để sống. Thùy Dương tự động viên mình. Vâng, mình phải sống vì tương lai của cu Tín và bé Ti. Đôi vai này gánh nặng hai con, trái tim yêu thương này dành cho chúng nó. Người ta nói gà trống nuôi con, còn mình gà mái nuôi con là đúng rồi. Trời sinh voi sinh cỏ, tại sao phải lo sợ cái ăn cái mặc và chuyện học hành của các con. Ta phải sống vì nắng ấm vẫn còn gọi mùa Xuân đến với đời. “Nè, cô em kia cho tôi một chén đậu hũ.” Một tiếng gọi của ai đó từ dưới bờ kênh vang lên. Thùy Dương dừng lại, trước mặt chị là một người đàn ông. “Vâng, có ngay, anh chờ một chút.” Thùy Dương múc đậu hũ vào chén trong khi người đàn ông nhìn chằm chằm vào khuôn mặt đẫm mồ hôi của chị với một tâm trạng phấn chấn khó tả. Người góa phụ trẻ vẫn đẹp lạ lùng dưới cái nắng mùa Hè gay gắt. Đôi má chị dường như ửng đỏ làm tăng thêm nét quyến rũ mà dịu dàng của một phụ nữ miền duyên hải không cần trang điểm. “Cô em ơi, tôi muốn mua luôn hết cái gánh đậu hũ này”. Rồi, vậy là hôm nay mình gặp quí nhân. Coi chừng, ta phải cẩn thận thôi. Thùy Dương cảnh giác: “Ồ không, tôi chỉ bán lẻ từng chén chứ không bán nguyên gánh”. “Cô này lạ nhỉ tôi muốn mua hết gánh cơ, tôi sẽ trả tiền sòng phẳng mà!” Người đàn ông biện luận. “Thôi đi anh Hai, để em còn đi buôn bán nữa, đừng có giỏi mà chọc ghẹo người ta”. Lời qua tiếng lại, câu chuyện đã bắt đầu và người đàn ông dường như không muốn kết thúc, còn Thùy Dương thì rất muốn đi nhưng không dễ dàng để dứt ra được trong tình cảnh này. Sự đời là thế. Đã có hai đứa con rồi vẫn còn có người nói chuyện bướm hoa. Mình phải làm sao đây? …. Người đàn ông tự giới thiệu anh ta tên Hiệp, còn gọi là Hiệp Cút vì đang có một trại chăn nuôi chim cút ở Bình Hiệp. Anh ta góa vợ và tình cờ biết Thùy Dương là một góa phụ xinh đẹp nên rất muốn tiến tới… góp gạo nấu cơm chung. Thùy Dương vẫn còn ôm trong lòng nỗi nhớ thương chồng da diết, nàng chưa nghĩ đến chuyện bước thêm bước nữa cho dù cuộc sống của ba mẹ con nàng có lẽ cũng cần một đôi vai lực lưỡng nào đó để dựa vào. Thôi ta đành xếp chuyện này lại vậy. Thời gian thư thả rồi sẽ tính sau. Những suy nghĩ miên man tự động đến trong lòng người góa phụ trẻ. Hiệp Cút dù rất muốn bước vào cuộc sống của người phụ nữ kia, nhưng nàng đã đóng cửa lại rồi, thôi mình sẽ chờ một cơ hội khác. Mới gặp lần đầu tiên đâu có dễ gì chinh phục được đối phương. Có thể sau dăm ba tháng nữa khi mà tình thế đã chín mùi cho một cuộc tấn công, ta sẽ nắm lấy cơ hội. Hai người theo đuổi hai hướng suy nghĩ khác nhau, tạm thời họ vẫn là hai cánh chim bay lệch hướng, không biết ngày mai tình thế có cải thiện được không? Thùy Dương sáng đi chiều về với gánh đậu hũ trên vai. Hai đứa con nhỏ tạm thời gởi cho ông bà nội trông coi. Cuộc đời góa phụ bán gánh hàng rong cũng vừa đủ tiền cho hai đứa con ăn học. Mỗi ngày nàng thức dậy từ 3 giờ sáng để chuẩn bị, 6 giờ là ra khỏi nhà. Với gánh đậu hũ trên vai, nàng sải bước chân trên hai mươi cây số qua những con đường làng quen thuộc để mưu sinh. Những buổi trưa Thùy Dương dừng lại dưới một gốc cây ven đường nghỉ ngơi, ăn cơm mang theo từ trong một hộp nhựa, rồi lại tiếp tục hành trình. Năm giờ chiều về đến nhà, đón hai đứa nhỏ từ nhà ông bà nội gần đó. Cuộc sống cứ thế xoay vần, những ngày mưa gió thì tạm nghỉ. Vào một ngày kia khi Thùy Dương đi ngang qua một ngôi nhà ở Bình Hiệp, nàng nghe một giọng phụ nữ từ bên trong sân vườn: -Chị ơi dừng lại, tôi mua đậu hũ. -Cô mua bao nhiêu chén? -Tôi mua 15 chén, à không 17 chén. -Cô mua cho ai mà nhiều vậy? -Tôi mua cho các em sinh viên đang học Lời Chúa trên gác kia. Thùy Dương múc 17 chén đậu hũ cho người phụ nữ. Chỉ 5 phút sau đó một nhóm sinh viên cả nam lẫn nữ từ trên gác kéo xuống sân vườn trong giờ nghỉ giải lao giữa buổi. -Cám ơn cô Sa-ra đã mua đậu hũ cho chúng em. Một giọng nữ sinh trong trẻo vang lên -Các em cũng nên cám ơn người bán nữa chứ. Thùy Dương mỉm cười, vậy là mình biết tên người phụ nữ kia rồi. Sa-ra, cái tên gì lạ quá, chưa nghe bao giờ. Đám thanh niên vây quanh lấy gánh hàng rong: -Đậu hũ này ngon quá, chị cho em một chén nữa. Sa-ra can thiệp: -Mỗi người chỉ có một chén theo tiêu chuẩn, ai muốn ăn thêm phải trả tiền. -Không thành vấn đề, hôm nay em sẽ trả hết cho cả lớp. Lớp trưởng Ngọc Bích lên tiếng. Hôm đó Thùy Dương múc ra 34 chén đậu hũ. Ít khi nàng bán được nhiều như thế này chỉ trong một ngôi nhà. Nhưng lần đó Thùy Dương còn được nhiều hơn. Đang khi ăn, nhóm sinh viên hỏi thăm gia đình của Thùy Dương và các em làm chứng về Chúa Jesus Christ cho nàng: -Chị Dương nè, Chúa Jesus Christ yêu thương chị và Ngài đã chết thay cho chị trên thập tự giá. Ngày hôm nay Chúa đang mời gọi chị hãy đến với Ngài: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.” (Ma-thi-ơ 11:28). Khi chị đến cùng Chúa, chị sẽ nhận được sự cứu rỗi. “Kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu.” (Giăng 6:37). Cuộc đời chị sẽ thay đổi khi chị có Chúa Jesus làm chủ. Trước khi rời khỏi căn nhà đặc biệt đó Thùy Dương còn được tặng một cuốn Tân Ước và vài quyển sách nhỏ giới thiệu về cuộc đời Chúa Jesus. -Ngày mai chị nhớ ghé tới đây. Chúng em sẽ mua ủng hộ. Một nữ sinh nói. -Vâng nếu các em nói như thế, chị sẽ ghé. Một em nữ sinh rất chân tình tiễn chân Thùy Dương ra khỏi cổng, và nói: -Em sẽ cầu nguyện cho linh hồn của chị. Xin Chúa ban phước cho chị và hai con của chị. Rời khỏi ngôi nhà của ông truyền đạo Phi-líp Tráng, Thùy Dương thong thả ra về. Gánh đậu hũ cũng vừa hết. Đâu đó trên ngọn tre dọc bờ kênh những con chim sẻ kêu ríu rít như chúc mừng Thùy Dương hôm nay bán hàng hết sớm hơn mọi hôm. Trên đường về Thùy Dương suy nghĩ mông lung về những gì cô đã nghe được từ đám sinh viên trẻ tuổi kia. Trong đêm đó Thùy Dương không ngủ được sau khi đọc xong quyển sách nhỏ giới thiệu về cuộc đời Chúa Jesus. Đó là lần đầu tiên trong cuộc đời, cô đọc một quyển sách như vậy. Có một điều gì đó trong quyển sách làm tâm hồn cô bừng tỉnh. Sáng hôm sau cô thức dậy với một tâm trạng háo hức. Thùy Dương tự nói với chính mình: Hôm nay mình sẽ đến ngôi nhà hôm qua. Với gánh hàng trên vai, Thùy Dương tiếp tục ra đi đơn độc trên con đường làng quen thuộc, bóng nàng phủ xuống bờ kênh với đòn gánh trên vai, hai đầu gánh lủng lẳng vò đậu hũ và ly chén. Nàng lại đến ngôi nhà hôm qua vào lúc 3 giờ chiều, vừa đúng lúc nhóm sinh viên nghỉ giải lao giữa buổi trong giờ học Kinh Thánh. -Ồ, chào chị Dương, chị đến vừa lúc chúng em được nghỉ giải lao. Một em sinh viên cao giọng. -Đến hẹn lại lên. Thùy Dương đáp lại với một nụ cười. Các em sinh viên ở đây đang theo học một chương trình Kinh Thánh vào mùa Hè tại một hội thánh tư gia. Môn học các em đang học và thực hành là Môn Đồ Hóa. Thùy Dương đã đến trong hoàn cảnh đó và ngẫu nhiên cô ấy trở thành đối tượng thực tập cho nhóm sinh viên. Vừa ăn đậu hũ, vừa trò chuyện, Thùy Dương bị cuốn vào những câu hỏi và giải thích của các em sinh viên về Phúc Âm của Chúa Jesus Christ. Trong lòng Thùy Dương bỗng dưng cảm nhận ra sự chân tình và yêu thương của mọi người, cô ấy hỏi: -Tôi phải làm gì để được sự cứu rỗi? Cả lớp học Kinh Thánh chờ đợi câu hỏi ấy từ lâu, và lớp trưởng Ngọc Bích trả lời: -Hãy tin Chúa Jesus, thì chị và cả nhà chị sẽ được cứu. -Tôi tin. Các em hãy hướng dẫn tôi. Thùy Dương cầu nguyện tiếp nhận Chúa Jesus Christ làm Cứu Chúa theo lời hướng dẫn của Ngọc Bích. Cuộc đời của góa phụ trẻ tuổi thay đổi từ đây. *** Hai năm sau. Thùy Dương đi cùng với Hiệp Cút đến nhà ông truyền đạo Phi-líp Tráng. Lần này trên vai người góa phụ không còn gánh hàng rong. Ông truyền đạo mở cửa: -Xin chào hai người, mời vào nhà. Thùy Dương trình bày câu chuyện của mình: “Tôi đã làm chứng về Chúa Jesus Christ cho anh này, và anh ấy bằng lòng tin Chúa. Chúng tôi đến đây để nhờ thầy truyền đạo hướng dẫn anh ấy hội nhập với hội thánh”. Thật tuyệt vời! Hiệp Cút học giáo lý báp tem và trở thành thành viên chính thức của hội thánh chỉ ba tuần sau đó. Ông truyền đạo quản nhiệm trắc nghiệm những câu hỏi liên quan đến đức tin cá nhân của Hiệp Cút. Anh tân tín hữu này trả lời chân thành và trôi chảy. Hiệp Cút cũng đã từ bỏ được hình tượng, thuốc lá và rượu đế, vốn là những món không thể bỏ được trước đây của anh ta. Đáng mừng hơn, anh này còn quyết định dâng mình hầu việc Chúa. Một cuộc hôn nhân lần thứ hai dường như đã sẵn sàng chờ đợi Thùy Dương. Không bao lâu sau đó, Hiệp Cút và Thùy Dương trở thành một cặp đôi hoàn hảo trong Chúa. Bây giờ Hiệp là nhân sự truyền giáo của hội thánh, còn Thùy Dương cảm nhận là cuộc đời nàng còn nhiều lý do để sống và phấn đấu trong ơn Chúa. Hai vợ chồng này dự phần hầu việc Chúa với hội thánh địa phương tại Bình Hiệp. Cuộc sống của họ thật ý nghĩa biết bao! MỸ LOAN
|
| 74 lượt xem tại: http://songdaoonline.com/e2876-trai-tim-goa-phu-my-loan-bai-chon-dang-120-.html |
Con nhớ Mẹ nhiều lắm Mẹ ơi,
Bốn mùa Lễ Mẹ đã qua rồi,
Và con vẫn tạ ơn Thiên Chúa.
Vì Mẹ ở trong Nước Chúa Trời.
***
Cuộc đời khổ hạnh trường chay đó,
Mười chín năm khẩn thiết kêu cầu,
Chúa đã nghe lời con khấn nguyện,
Đường Trời con – Mẹ: Bước chung nhau.
***
Một ngày sau thì giờ lao nhọc,
Con về nhà, Mẹ trông rất vui,
“Mẹ đã biết vì sao Cứu Chúa,
Chịu hy sinh giáng thế làm người”.
***
Lần đầu Mẹ giở trang Kinh Thánh,
Nước mắt con rơi suốt cả ngày,
Tám mươi hai tuổi tìm Chân Lý,
Và chẳn mười năm cánh hạc bay!
***
Mỗi lần nhớ Mẹ con thầm nghĩ:
Tạm biệt thôi mà! Tạm biệt thôi!
Khi Chúa Tái Lâm Ngài tiếp rước,
Cõi đời đời sum họp quá vui.
***
Mẹ ơi! Hoa nở tưng bừng lắm,
Cho những người con hiếu thuận nào,
Biết ơn Chúa khi còn Cha Mẹ,
Sống không làm cha mẹ xót đau.
***
Nhân ngày Từ Mẫu thành tâm chúc,
Cho những ai còn có mẹ già,
Hãy hết lòng quan tâm, phụng dưỡng,
Vì cuộc đời nầy vốn chóng qua.
Hoàng Yến.
Nguồn: vietchristian.com
Lượt ghi bài giảng của Ms Hội trưởng Nguyễn Đức Na cho Hội thánh Tin lành Liên hiệp Thới Tân 1, Cần thơ.
ĐỨC GIÊ-HÔ-VA LÀ ĐẤNG CHĂN GIỮ TÁC GIẢ
Thơ Đa-vít làm
1 Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi; tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì.
2 Ngài khiến tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi
Dẫn tôi đến mé nước bình tịnh.
3 Ngài bổ lại linh hồn tôi,
Dẫn tôi vào các lối công bình, vì cớ danh Ngài.
4 Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết,
Tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng tôi:
Cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi.
5 Chúa dọn bàn cho tôi
Trước mặt kẻ thù nghịch tôi;
Chúa xức dầu cho đầu tôi,
Chén tôi đầy tràn.
6 Quả thật, trọn đời tôi
Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi;
Tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va
Cho đến lâu dài.
Đoạn Thi Thiên này chỉ có 6 câu của tác giả Đa-vit mà hầu hết con cái Chúa đã được nghe giảng nhiều lần, thậm chí còn đọc được thuộc lòng nữa.
Dầu vậy tôi được Chúa thúc dục chia xẻ lời Chúa TT 23 này cho anh chị em với 3 ý chính sau đây:
1. NGÀI BỔ LẠI LINH HỒN TÔI
Trước hết tác giả khẳng định mình là chiên của Chúa và chính Chúa là Đấng chăn giữ mình . Chúa dùng hình ảnh con chiên để gọi một con dân của Ngài. Hình ảnh bầy chiên để gọi hội thánh Ngài. “Hãy chăn Hội thánh của Đức-Chúa-Trời mà Ngài đã mua bằng chính huyết của mình.” Công vụ 20: 28 ( Be shepherds of the church of God which he bought with his own blood ). Bản chất của con chiên là hiền lành, bản năng tự vệ của nó là chạy tránh các thú dữ. Bản chất phục vụ cho nhân quần xã hội rất cao. Chiên sẳn sàng để cho người ta hớt lông của nó theo định kỳ để chế tạo ra y phục ấm cho con người.
Chúa Jesus cũng đã xác định “Ta là Đấng chăn chiên hiền lành, ta biết chiên ta và chiên ta biết ta.” ( lu-ca 10:14) ” I am the good shepherd, I know my sheep and my sheep know me “
Chúa bảo chiên của Ngài “Ai vả ngươi má bên này thì đưa luôn ma bên kía. Ai lột áo ngoài của ngươi thì cũng đừng ngăn họ lấy luôn áo trong.( Lu-ca 6:29 ) .” If soneone strikes you on one cheek, turn to him the other also. If some one takes your cloak, do not stop him from taking your tunic ” ( NIV). Điều này nhắc nhở chiên của Chúa không gây gỗ, không xung đột với ai, nhường nhịn không hơn thua. Vì bản tính hiền lành nên Chính Chúa là Đấng chăn giữ bầy của Ngài.
Thức ăn của Chiên là cỏ xanh, vậy thức ăn của anh chị em là gì? – là lời Chúa. Sáng hôm nay chúng ta đang ăn trên một bải cỏ xanh tươi là Thi Thiên 23.
Ăn cỏ no nê, chiên phải uống nước trong. Ngài dẫn bầy chiên Ngài đến mé nước bình tịnh, tức là nước trong, lắng đọng, không vẫn đục. Nước mà chúng ta uống vơi tư cách là chiên là nước nào?- Đức Thánh Linh . Khi chúng ta ăn nuốt lời Chúa , chúng ta cầu xin và để cho Đức Thánh Linh dạy dỗ, an ủi và thậm chí cáo trách để cho đời sống tâm linh của chúng ta trở nên tươi mới gắn kết bền chặc với Đấng chăn dắt chúng ta.
Khi chúng ta, chiên của Chúa, no nê sung mãn trong đời sống tâm linh với sự chăm sóc của Ngài thi dù cho chúng ta có đi trong trủng bóng chết, chúng ta cũng chẳng sợ tai hoạ nào. Và cho dù chúng ta đi trong trủng khóc lóc thì mưa sớm cũng phủ phước cho chúng ta ( TT 84:6 ).” As they pass through the Valley of Baca, they make it a place of springs; the autumn rains also cover it with pools ” ( NIV)
2. CHÉN TÔI ĐẦY TRÀN
Chúa không chỉ ” bổ lại linh hồn tôi.” tức là Chúa lo cho đời sống tâm linh của chúng ta mà Ngài cũng lo cho “chén” của chúng ta nữa. Chén ở đây tượng trưng cho cơm, áo, gao, tiền, tức là những nhu cầu vật chất cho đời sống thuôc thể nữa. Lời Chúa khẳng định với chúng ta rằng khi chúng ta nhận biết Đấng lấy vinh hiển và lòng nhơn đức kêu gọi chúng ta thì Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi nhu cầu về đời sống thuôc linh và đời sống thuộc thể. “His devine power has given us everything we need for life and godliness through our knowledge of him who called us by his own glory and goodness”. ( NIV II Peter 1:3)
Có một điều vô cùng quan trọng mà tôi muốn bày tỏ cho anh chị em.
Thứ tự mà anh chị em tìm kiếm mà phù hợp với sự dạy dỗ của kinh thánh thi anh chị em se đạt được: Đó là tìm kiếm điều thuộc linh trước, điều thuộc thể sau. Chính Chúa Jesus phán dạy chúng ta rằng trươc hết hãy tìm kiêm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, rồi thì Ngài sẽ ban cho anh chị em mọi điều ấy nữa. “But seek first his kingdom and his righteousness, and all these things will be given to you as well.” (Luke 6:33 )
Tôi lấy đức tin và từng trải cuộc sống bảo đãm với anh chi em rằng anh chị em tìm kiếm theo thứ tự Chúa dạy thì chắc chắn sẽ được như vậy.
Nếu làm ngược lại, tức là tìm kiếm cho thuộc thể trước rồi thuộc linh sau thì chắc chắn không bao giờ thoả mãn được. Cụ thể làp ngày nghỉ Chúa bảo làm ngày thánh để lo cho đời sống tâm linh trước , nhưng có người đi tìm vật chất trong ngày thánh rồi chuyện tâm linh sẽ tính sau, thì không bao giờ no đủ cho cả đời sống tâm linh và vật chất được.
Còn ai theo Chúa mà chỉ tìm kiếm và trông cậy về đời này mà thôi, thì trong cả mọi người, thì chúng ta là kẻ đáng thương hại hơn hết.
” If only for this life we have hope in Christ, we are to be pittied more than all men.” Đáng thương, tội nghiệp cho hạng người như thế vì họ nhầm lẫn sự cứu chuộc và sự chăm sóc của Chúa đối với bầy chiên của Ngài.
3. CHÚA XỨC DẦU CHO ĐẦU TÔI
Khi một đời sống sung mãn cả về tâm linh lẫn thể xác,Chúa sẽ xức dầu để phuc sự Ngài. Xức dầu là dấu chỉ được Đức Chúa Trời sử dụng. Lu- ca khẳng định rằng Thần của Chúa ngự trên ta. Ngài xức dầu cho ta để giảng Tin lành cho người nghèo ” The Spirit of the Lord is on me, because he has anointed me to preach good news to the poor.” ( Luke 4:18 )
Quả thật một đời sống được sự chăn dắt của Chúa, được Chúa sử dụng cho công việc thánh của Ngài thì không có gì phước hạnh cho bằng. Và chắc chắn sẽ ở trong nhà Chúa ngay ở trần thế nầy và trong nước đời đời của Ngài.
TTV Hướng Dương