Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

ĐI VÀO NƠI CHẾT

2014_08_03_sq65h5o5nww

 

Chiếc phi cơ Boeing 747 cất cánh từ phi trường Incheon, Hàn Quốc vào lúc hai mươi ba giờ trong một ngày của tháng bảy năm 2007, sau ba tiếng đồng hồ bay nó đáp xuống sân bay Dubai. Tại đây các hành khách trên chuyến bay được chuyển sang một phi cơ khác của hãng hàng không UAE (các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất) tiếp tục bay đến Kabul, Afghanistan. Trên chuyến bay đó có một nhóm người đặc biệt: Đoàn Cứu Trợ của Mục sư Bae-Hyung-kyun thuộc hội thánh Saemmut tại Bundang, tỉnh Gyeonggi gồm mười sáu người nữ và bảy nam. Họ chính thức đi vào một vùng đất nguy hiểm kể từ đây. Read more…

CẦU NGUYỆN PHỤC HƯNG BUỔI SÁNG – bài 1

CẦU NGUYỆN PHỤC HƯNG BUỔI SÁNG là chương trình cầu nguyện hằng ngày vào mỗi buổi sáng cho các nhân sự của Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam, và mở rộng ra cho tất cả mọi cơ đốc nhân được Ban Điều Hành thống nhất thông qua vào ngày 27 tháng 8 năm 2014.

10015050_846224925396910_3731446693567792237_n

(Hình mang tính biểu tượng)

– PHỤC HƯNG LÀ GÌ?

– Là Trở Về Với Lời Chúa- theo định nghĩa của một nhà truyền đạo.

KINH THÁNH NỀN TẢNG:

Phải ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, hầu cho họ, là kẻ vẫn gièm chê anh em như người gian ác, đã thấy việc lành anh em, thì đến ngày Chúa thăm viếng, họ ngợi khen Đức Chúa Trời. (1 Phi-e-rơ 2:12)

NHÌN RA THẾ GIỚI: Nhà báo James Foley đã bị bắt cóc khi đang tác nghiệp tại Syria hồi năm 2012.
Phiến quân Nhà nước Hồi giáo (IS) đã đăng video ghi lại cảnh hành hình nhà báo Mỹ James Foley trên youtube trong tuần qua.
Công ty của Foley trước đó cho biết các tay súng đã đòi 132 triệu đôla tiền chuộc để đổi lấy sự tự do của ông.
Giám đốc điều hành của tờ Global Post, ông Philip Balboni, nói yêu cầu tiền chuộc được phiến quân Islamic State (IS) đưa ra lần đầu tiên hồi năm ngoái.
Foley bị bắt cóc hồi tháng 11 năm 2012 và đoạn video ghi lại cảnh hành hình ông vừa được IS công bố. Đó là đoạn video clip làm chấn động những người yêu tự do trên khắp thế giới.

Là cơ đốc nhân bạn suy nghĩ gì về dòng tin trên đây?

——–
DƯỠNG LINH BUỔI SÁNG:

Trong quyển The Hobbit của J. R. R. Tolkien, thuật sĩ Gandalf giải thích lý do chọn Bilbo để cùng những người lùn khác chống kẻ thù. Ông nói “Samuran tin chỉ có một sức mạnh to lớn mới có thể chống lại cái xấu, nhưng tôi nhận thấy những hành động nhỏ bé mỗi ngày của người bình thường mới khiến điều xấu phải lánh xa. Những hành động nhỏ bé của  lòng tử tế và tình yêu.”
Đó cũng là điều Chúa dạy. Cảnh báo về thời kỳ đen tối, Ngài nhắc rằng bởi chính Ngài chúng ta là “ánh sáng cho thế gian” (Mat. 5:14) và những việc tốt của chúng ta sẽ là sức mạnh chống lại cái xấu để Đức Chúa Trời vinh hiển (c.16). Và Phi-e-rơ viết cho những Cơ Đốc nhân đang dối diện với bắt bớ dữ dội, bảo họ phải sống để những người cáo buộc họ “thấy được việc lành của anh em và tôn vinh Đức Chúa Trời” (I Phi. 2:12).
Đây là lực lượng không thể bị bóng tối khuất phục–lực lượng của những hành động yêu thương và nhân từ được làm trong danh Chúa Giê-xu. Đó là con cái của Đức Chúa Trời, là người đưa luôn má bên kia, đi thêm vài dặm đường, tha thứ và thậm chí yêu thương kẻ thù nghịch, là người có sức mạnh chống lại cái xấu. Vậy, hãy tìm kiếm cơ hội đặc ân để bày tỏ những hành động yêu thương ngay hôm nay để đem ánh sáng của Đấng Chirst cho người khác.

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết sự ngu muội của việc lấy ác trả ác. Nguyện con thật biết ơn Ngài về những hành động yêu thương và nhân ái mà Ngài đã tỏ cho con hầu cho con cũng tìm cách để chia sẻ những việc lành với những người khác trong tinh thần vui mừng!

Hãy thắp sáng thế giới của bạn bằng một hành động nhân từ.

 

Nguồn: vietnamese-odb.org

 

KHẢI THỊ và KHẢI TƯỢNG.

joseph
KHẢI THỊ và KHẢI TƯỢNG. 
( Revelation and Vision)

 Khải thị cũng còn gọi là khải huyền đồng nghĩa với mặc khải,  nhưng khác nghĩa với khải tượng (tầm nhìn, sự hiện thấy). Khải thị ra từ động tiếng Anh “reveal” có nghĩa là bởi quyền năng thiên thượng tiết lộ điều bí mật, kín dấu ; truyền đạt một ý tưởng ( mặc khải). Trong Kinh thánh dùng rất nhiều lần  từ này để chỉ các tiên tri của Đức Chúa Trời bày tỏ ý muốn của Ngài cho  cá nhân như Áp-ra-ham, cho Y-sơ- ra-ê dân sự Ngài, cho chính tiên tri của Ngài như trong trường hợp tiên tri Ê-li.

Ngoài mặc khải, Đức Chúa Trời còn dùng những khải tượng (vision), sự hiện thấy có thể là một dị tượng ẩn chứa một sự huyền bí trong đó như trường hợp những con thú trong chiêm bao của Đa-ni-ên.
Châm Ngôn 29:18 chép,” Where there is no REVELATION, the people cast off restraint; but blessed is he who keeps the law”. Câu nầy có ý là   khải thị và luật pháp  chi phối đời sống người tín đồ. “nơi nào không có lời Chúa thì dân chúng đâm ra phóng túng, nhưng ai vâng lời dạy dỗ sẽ đượ tôn trọng” ( bản dịch phổ thông).

 

Mặc khải trong tâm linh, khải tượng trong tâm trí, trong tâm hồn. Trong sách Mathio 16 và 17 Chúa Jesus phân biệt mặc khải và khải tượng như sau- Chúa nói cùng Phi-e-rơ : “Si-môn, con Giô-na ơi, ngươi có phước đó, vì chẳng phải thịt và huyết bày tỏ điều ấy cho ngươi đâu; bèn là Cha ta ở trên trời vậy”.

      ” blessed are you, Simon son of Jonah, for this was not REVEALED to you by man, but by my Father in heaven”.
      Sáu ngày sau đó, Chúa đem ba môn đồ, trong đó có Phiero lên núi cao. Ngài hoá hinh  trước mặt họ, và có Môi-se và Ê-li hiện ra nói chuyện với Ngài. Cả cảnh tượng đó là khải tượng cho Phi-r-rơ. Đang khi xuống núi, Chúa dặn họ, “Chớ thuật lại dị tượng ấy cho ai cả, cho đến khi Con người từ kẻ chết sống lại.”  Danh từ “dị tượng đây là “khải tượng, là sự hiện thấy” trong tâm trí.

 

  • Những người chấp hành mặc khải của Đức Chúa Trời:

 Vào thời Nô-ê chưa có mưa, dân chúng chưa biết mưa là gì cả ( Sáng  2). Nhưng khi Đức Chúa Trời ban khải thị cho Nô-ê về mưa gió, lũ lụt sẽ đến trên địa cầu, ông tin. Thơ Hê-bơ-rơ 11:7 chép, “Bởi đức tin Nô-ê được Chúa mách bảo về những điều chưa thấy, động lòng kính sợ mà sắm sửa một chiếc tàu để cứu nhà mình; bởi đó người định tội cho thế giới, và trở nên kẻ thừa kế sự công nghĩa theo đức tin”. “Những điều chưa thấy” đây là mưa gió, bão lụt. Nhưng Nô-ê đã nhìn thấy mưa, lũ lụt . Nô-ê còn rao giảng về cơn lũ lụt sẽ là sự phán xét của Đức Chúa Trời cho dân chúng thời đại ông, có lẽ suốt gần 120 năm. Phi-e-rơ gọi ông là Thầy giảng đạo sự công bình (2 Phiero 2:5).

Vì Nô ê tin vào khải thi Chúa cho nên Ngài cho Ông một khải tượng về một con tàu để được cứu trong trận đại hồng thuỷ sẽ xảy ra mặc dù chưa biết vào lúc nào.

Sáng thế ký 6:22; 7:5, 9, 16, tất cả bốn lần chép, “Nô ê làm các điều nầy y như lời Đức Chúa Trời đã phán dặn”. Bốn câu nầy  nói lên rằng Nô-ê tuân theo một cách trọn vẹn trong viêc thực  hiện khải tượng Chúa ban cho mình .

Sách Xuất hành 24 đến 32 chép việc Đức Chúa Trời kêu Môi-se lên núi Sinai sống trước mặt Ngài trong 40 ngày đêm. Ngài ban khải tượng cho ông mọi chi tiết về sự xây đựng đền tạm trong đồng văng. 

. Cụm từ “y như Đức Giê-hô-va đã truyền lịnh” xuất hiện 19 lần trong các chương 38, 29 và 40 sách Xuất  cũng nói lên rằng  chính Ông là người lảnh đạo đã hướng dẫn mọi người cùng thực hiện khải tượng một cách nghiêm túc.

 

  • Những người ngăn trở hoặc thưc hiện khải tượng theo ý riêng.

 Đức Chúa Trời nhiều lần hiện ra cùng Abraham, ban cho ông nhiều mặc khải về dòng dõi của ông. Sáng thế ký 13: 15 và 17: 8 chép, “Vì cả xứ nào ngươi thấy, ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi đời đời.–Ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ Ca-na-an, làm cơ nghiệp đời đời”. Dòng dõi nầy, trước nhất  là Y-sác, để sinh ra dân tộc Israel. Ý nghĩa thứ hai là Đấng Christ (Galati 3:16), dòng dõi Abraham vì Mathio 1:1 chép, “Gia phổ của Jêsus Christ, con Đa-vít và con Áp-ra-ham”.

 Sau khi vào ở trong xứ 10 năm, Abraham không thấy Sara sinh con, nên ông đã thuc hiện mặc khải theo ý riêng. Ông đã chấp nhận Aga là giải pháp của vợ ông làm cho mặc khải sớm ứng nghiệm.Kết quả Abraham rơi vào tình trạng tối tăm. Đức Chúa Trời ẩn mặt với ông trải 13 năm, không khải thị cho ông gì cả. Đó là hậu quả của những người muốn thưc hiện khải thị của Đức Chúa Trời bằng phương cách của con người.

Đang khi mang thai, Rê-be-ca cầu hỏi Chúa. Chúa ban cho bà sự khải thị. Kinh thánh chép, “Nhưng vì thai đôi làm cho đụng nhau trong bụng, thì nàng nói rằng: Nếu quả thật vậy, cớ sao điều nầy xảy đến làm chi? Đoạn, nàng đi hỏi Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va phán rằng: Hai nước hiện ở trong bụng ngươi, và hai thứ dân sẽ do lòng ngươi mà ra; dân nầy mạnh hơn dân kia, và đứa lớn phải phục đứa nhỏ” (Sáng 25: 22-13). Rê- bê-ca giữ trong lòng mãi 15 hay 20 năm sau, khi Gia-cốp khôn lớn bà mới kể lại cho Gia-cốp biết. Nhưng hai mẹ con không tin cậy lời Chúa nói, không chờ đợi mặc khải ứng nghiệm mà lại đồng lõa, âm mưu bảo vệ quyền thừa kế của Gia cốp mà Đức Chúa Trời thiết lập, theo cách gian xảo, quỉ quyệt của mình.

Đó là vết xe đổ của rất nhiều tôi tớ, con dân Chúa. Họ được ban cho mặc khải thiên thượng như tiên tri Balaam, vua Sau-lơ, như Gia cơ , em Chúa, như Đê ma v..v.. Rất tiếc họ đưa bàn tay xác thịt thưc hiện khải tượng của Đức Chúa Trời. Họ dùng các phương pháp gian ác, bất nghĩa, quỉ quyệt để thực hiện mặc khải của Đức Chúa Trời cho dù có gây tổn hại hay giày đạp bất cứ ai trên đường đi tới của họ. Cuối cùng mặc khải của Đức Chúa Trời phải ứng nghiệm, nhưng các “tôi tớ”  bất nghĩa, bất pháp đó không thoát khỏi sự hình phạt đích đáng của Chúa.

 Về Giô-sép Cựu ước, Kinh thánh chép, “Giô-sép có nằm chiêm bao, thuật lại cho các anh mình nghe; họ càng thêm ganh ghét nữa.  Người nói rằng: Tôi có điềm chiêm bao, xin các anh hãy nghe tôi thuật:  Chúng ta đương ở ngoài đồng bó lúa, nầy bó lúa tôi đứng dựng lên, còn bó lúa của các anh đều đến ở chung quanh, sấp mình xuống trước bó lúa tôi. 8 Các anh người bèn đáp rằng: Vậy, mầy sẽ cai trị chúng ta sao? mầy sẽ hành quyền trên chúng ta sao? Họ càng ganh ghét hơn nữa, vì điềm chiêm bao và lời nói của chàng”.

 Giô-sép lại nằm chiêm bao nữa, thuật cùng các anh mình rằng: Tôi còn có một điềm chiêm bao nữa: Nầy mặt trời, mặt trăng, và mười một ngôi sao đều sấp mình xuống trước mặt tôi!  Chàng thuật chiêm bao đó lại cho cha và các anh mình nghe; nhưng cha chàng quở mà hỏi rằng: Điềm chiêm bao của mầy đó có nghĩa chi? Có phải tao, mẹ, và các anh mầy đều phải đến sấp mình xuống đất trước mặt mầy chăng?  Các anh lấy làm ganh ghét chàng; còn cha lại ghi nhớ lấy điều đó” (Sáng 37: 5-11). 

Giô-sép là người có tính thật thà, mà cả cuộc đời của Ông đã nói lên điều đó, đã chân thành thuật lại những mặc khải mà Chúa đã ban cho mình. 

 Những gian truân vô cùng khốc liệt  trong cuộc đời Joseph do lòng ganh tỵ của người ruột thịt hay do sự thù hằng vu oan vì không cãm dỗ được Joseph từ người đàn bà tà dâm tưởng chừng như phá đổ khải tượng mà ông đã nhận được đích thực từ Chúa. Joseph một lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời mình và khải tượng đã hoàn thành một cách thần thượng.

Joseph chắc chắn biết được mặc khải của Đức-Chúa-Trời cho tổ phụ mình ( Sáng 15).

Trước khi qua đời, Đức Chúa Trời đã khải thị cho Giô-sép về cuộc xuất hành sau nầy của Israel ra khỏi Ê-díp-tô để trở về đất hứa.  Giô sép nói, “Kế, Giô-sép nói cùng các anh em rằng: Em sẽ chết, nhưng Đức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em thật; đem các anh em về xứ mà Ngài đã thề hứa cùng Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Giô-sép biểu các con trai của Y-sơ-ra-ên thề mà rằng: Quả thật, Đức Chúa Trời sẽ đến viếng các anh em; anh em hãy dời hài cốt tôi ra khỏi xứ nầy (Sáng 50:24,25)

Những người nhận lảnh Khải thị và thực hiện khải tượng một cách trung thành và hết lòng thì có đời sống tươi mới và sung mãn trong sự thờ phượng và hầu việc Ngài.

Đó là lý do mà tất cả chúng ta đều ước ao được sự mặc khải và có khải tượng từ thiên thượng.

 Đặc biệt là những người hầu viêc  Chúa thì phải có khải tượng, nếu không thi như Phao lô đã nói chẳng qua là ” chạy bá vơ hoặc đánh gió” mà thôi.

 I Corinhto 14:26 chép, “Anh em ơi, vậy, phải thể nào? Khi nhóm lại, thì mỗi người trong anh em, ai có thi thiên,  ai có sự dạy dỗ, ai có sự khải thị, ai có tiếng lạ, ai có thông dịch: hãy làm mọi sự cho được gây dựng” (theo bản Hi lạp).

 Động từ “có” xuất hiện 5 lần trong câu nầy. Động từ nầy ở thì hiện tại năng động. Người tham gia nhóm họp có thể hoặc phải có một trong 5 điều đó theo cách cá nhân. Rồi câu 30 nói thêm, “Song nếu có kẻ khác ngồi đó được sự khải thị thì người đương nói trước phải nín lặng”. Con dân Chúa nhóm với tính cách hỗ tương san sẽ lời Chúa. Một số người nào đó có thể góp phần điều tươi mới trong lòng mình cho buổi nhóm.

Ngay trong bài cầu nguyện chung ,sự mặc khải ” Nước cha được đên ” chúng ta đọc một cách vô hồn như con vẹt. Nếu đọc ê a như để tụng kinh hạy đọc gấp rút như thi ăn nhanh cả hai đều vô nghĩa. Vậy chúng ta nên đọc bài cầu nguyên chung như thế nào để Lời  và những mặc khải  đi vào tâm linh của chúng ta.

Nói chung mọi sinh hoạt hội thánh phải thực hiện cho mọi người với tư cách là một người sẳn sàng để nhận một khải thị hay một khải tượng cho riêng mình qua lời Chúa, qua lời cầu nguyện và lời ca ngợi.Tránh những hình thức phô trương khoe khoan, những công thức khô khan làm khô cằng tâm linh của con cái Chúa.

 Sứ đồ Phao-lô muốn dân Chúa đem sự mặc khải trực tiếp, sự khải thị tươi mới vào buổi nhóm hội thánh. Đừng đem mặc khải quá hạn như ma na đã qua đêm vào trong buổi thờ phượng Chúa.

 

 Nguyện xin Chúa cho mỗi con dân, tôi tớ Chúa “có lòng đơn sơ như trẻ thơ” để nhận được khải thị mới và một khải tượng kèm theo những ân tứ để sống cho Ngài. Theo Lu ca 10:21

 ” At that time Jesus, full of joy through the Holy Spirit, said ” Praise you, Father, Lord of heaven and earth, because you have hidden these things from the wise and learned, and REVEALED them to little children. Yes, Father, for this was your good pleasure”( NIV).

” Bấy giờ Chúa Jesus mừng rở trong Thánh Linh. Ngài nói,” Thưa cha, con ca ngợi Cha là Chúa của trời đất, vì Cha đã giấu những điều nầy khỏi những người khôn ngoan thông sáng mà bày tỏ cho những người có lòng đơn sơ như trẻ thơ. Vâng, thưa Cha vì đó là điều Ngài muốn” ( Bản phổ thông).

 

Mục sư Nguyễn Đức Na

 

 

GẶP CHÚA TRONG ĐÊM

2014_08_21_oyumdrbju2s

 

 

-Bà lấy giùm tôi cái áo choàng, tôi sẽ ra ngoài để tìm gặp một con người đặc biệt.

-Tại sao ông phải đi vào ban đêm?

-Ồ, tôi có một lý do riêng, bà sẽ biết nhanh thôi.

Ni-cô-đem khoác vội chiếc áo choàng từ tay của người vợ, ông đến để gặp một con người đã làm ông ngưỡng mộ trong những ngày gần đây.

Đó là một đêm tối trời của năm 30. Giê-xu, người Na-xa-rét đang ở trong ngôi nhà của một bạn hữu trên bước đường lưu hành giảng đạo xuyên qua vùng Ga-li-lê, Ngài đã bắt đầu chức vụ từ sáu tháng trước đó.  Có tiếng gõ cửa bên ngoài:

-Tôi muốn tìm gặp một người đàn ông tên là Giê-xu.

-Chính là ta.

Ni-cô-đem được mời vào nhà, ngồi đối diện với Chúa Giê-xu, ông bắt đầu câu chuyện:

-Thưa Ra-bi, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến; vì nếu không có Đức Chúa Trời ở cùng, thì chẳng ai có thể làm được những dấu lạ mà thầy đã làm đó. Cá nhân tôi muốn được thầy chỉ giáo thêm.

Mặc dù Ni-cô-đem  là giáo sư thuộc hệ thống hàng giáo phẩm Pha-ri-si dạy về luật pháp cho dân Do Thái nhưng ông là một con người khiêm nhường hiếm có giữa vòng sáu ngàn người Pha-ri-si vào lúc đó. Ni-cô-đem cũng là thành viên của một tổ chức gồm bảy mươi người lãnh đạo tuyển dân có tên San-he-rin (Tòa Công Luận), và sứ đồ Giăng viết về họ là “những người cai trị  dân Giu-đa”. Tổ chức San-he-rin này tương đương với Tối Cao Pháp Viện và Thượng Viện Hoa Kỳ. Ni-cô-đem thuộc về ê-kíp lãnh đạo cả Do Thái Giáo và tuyển dân. Chức vụ của ông ngang bằng với một thượng nghị sĩ kiêm thẩm phán tối cao của chính phủ liên bang hiện nay. Như vậy Ni-cô-đem là quan chức với phẩm hàm lớn, được kính trọng và hưởng nhiều đặc quyền trong vòng dân sự lúc bấy giờ. Ông đã âm thầm quan sát các phép lạ, lắng nghe các bài giảng của Chúa Giê-xu và ông biết mình đang nói chuyện với một bậc thầy có uy quyền. Ông chọn một đêm tối trời, kín đáo đến với Chúa để “tầm sư học đạo”. Ông không muốn bị người khác theo dõi, vì có thể họ sẽ tố cáo ông giao thiệp với Chúa Giê-xu – đây lại là điều không nên có với một người lãnh đạo như ông. Nếu chuyện này bị đồn ra ngoài, sinh mạng chính trị của ông có thể bị nguy hiểm. Người ta thường nói rằng khi hai thầy thuốc ở cùng trong một khu vực thì không có ông nào thích ông nào. Về một phương diện Chúa Giê-xu cũng là một giáo sư giống như Ni-cô-đem, nhưng lời Ngài dạy có uy quyền mà một giáo sư bình thường trong tuyển dân không hề có. Hơn nữa Chúa Giê-xu còn thực hiện các phép lạ đồng thời với công tác giảng dạy của Ngài, chính điều này đã làm cho Ni-cô-đem trở nên hiếu kỳ xen lẫn ngạc nhiên. Ông tìm đến với Chúa Giê-xu để hỏi Ngài những điều mà trong lòng ông chưa có câu trả lời. Ni-cô-đem cũng biết bản thân ông không thể nào có một phong cách giảng dạy đầy quyền uy và các dấu lạ giống như Chúa Giê-xu đã thực hiện. Những gì ông truyền đạt cho tuyển dân chỉ là những bài học luật pháp khô khan mà chính trong lòng ông cũng không được thuyết phục về nội dung của nó. Bi kịch của nền giáo dục Do Thái Giáo thời bấy giờ chắc vẫn còn tái diễn trong mọi thời đại!

Chúa Giê-xu biết câu hỏi trong lòng Ni-cô-đem. Ngài bắt đầu khai sáng tâm trí ông:

-Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu người nào chưa được tái sanh, thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời.

“Tái sanh”, lần đầu tiên trong cuộc đời Ni-cô-đem nghe từ này. Chúa Giê-xu nói đến ý nghĩa thuộc linh của từ “tái sanh”, nhưng vị giáo sư của dân Do Thái lại hiểu theo một ý nghĩa vật lý. Ông hỏi lại Chúa Giê-xu:

-Người đã già thì làm sao tái sanh  được? Có thể nào vào lòng mẹ lần thứ hai mà sanh ra nữa sao?

Một tâm trí tự nhiên chưa nhận được ánh sáng thiên thượng thì không thể nào hiểu được những điều thuộc linh. Ni-cô-đem đã từng là một sinh viên xuất sắc khi còn trong chủng viện thần học. Tốt nghiệp ra trường ông là một trong những giáo sư ưu tú của người  Pha-ri-si, rồi được tiến cử trở nên thành viên của tòa án tối cao Do Thái. Ông hẳn là người có kiến thức uyên bác so với những người cùng thời. Nhưng khi Chúa Giê-xu nói đến sự tái sinh, ông ngẩn người ra, ú ớ không hiểu gì cả.

Chúa Giê-xu  tiếp tục giải thích cho Ni-cô-đem những điều thuộc linh:

-Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh Linh mà sanh, thì không thể vào nước Đức Chúa Trời được.  Hễ chi sanh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sanh bởi Linh là linh.  Chớ lấy làm lạ vì cớ ta đã nói với ngươi: ‘Các ngươi cần phải tái sanh.’  Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng nó, nhưng chẳng biết nó đến từ đâu và đi đâu. Hễ người nào sanh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy.”

Ni-cô-đem vẫn chưa thể hiểu được bài học Chúa dạy vượt quá tâm trí khôn ngoan của ông. Một giáo sư giữa vòng dân Do Thái lại không thể hiểu những điều Chúa phán! Chúa có ý gì khi thông điệp của Ngài dường như vẫn còn bị niêm phong với Ni-cô-đem? Chúa Giê-xu biết cách để trao khải tượng cho từng môn đệ, Ngài biết lúc này Ni-cô-đem chưa ngộ ra những gì ông ta nghe được từ Ngài, nhưng trong tương lai ông ta chắc sẽ nắm bắt được.

Cuộc viếng thăm bí mật của Ni-cô-đem với Chúa Giê-xu  chỉ diễn ra trong vòng một tiếng đồng hồ. Ni-cô-đem hỏi, Chúa trả lời, nhưng trong lòng ông vẫn còn trĩu nặng với những nghi vấn. Ông chưa thể hiểu được sự tái sanh vào lúc này, nhưng dù sao ông cũng đã được tiếp xúc với một con người mà từ lần diện kiến đó cuộc đời ông bắt đầu có sự chuyển hướng. Lịch sử ghi lại nhiều sự kiện là có vô số người đã thay đổi khi họ gặp được Chúa Giê-xu.

Ni-cô-đem yên lặng trở về nhà sau chuyến viếng thăm trong đêm. Chúa Giê-xu tiếp tục cuộc hành trình của Ngài đến Giu-đê. Ni-cô-đem không ngừng theo dõi những bước chân của Chúa và suy gẫm những gì mà ông đã nghe Chúa phán dạy.

Tái sanh là gì? Ta không thể hiểu được điều này. Ni-cô-đem tự nói với chính mình. Ông bắt đầu suy tư và đi vào sự cầu nguyện tìm kiếm một lời giải từ thiên thượng. Lời dạy của Chúa Giê-xu dành cho ông là một thách thức lớn: “Nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh Linh mà sanh, thì không thể vào nước Đức Chúa Trời được”. Trong suy nghĩ miên man, những ý tưởng của ông vụt lóe sáng thành lời cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin cho con hiểu được nước và Thánh Linh có ý nghĩa gì? Con muốn được vào nước Đức Chúa Trời.

Đôi khi lời cầu nguyện chân thành cũng cần có thời gian nhất định để nhận được câu  trả lời từ Chúa.

Vào lúc này Ni-cô-đem cũng chỉ dừng lại trong một nhận thức: Chúa Giê-xu là giáo sư vĩ đại đến từ Đức Chúa Trời. Tâm trí của ông chưa vượt xa hơn về thân vị và chức vụ của Chúa Giê-xu trên đất. Điều này là lẽ tự nhiên, vì lúc này ngay cả các sứ đồ cũng chưa thể có một nhận thức rõ ràng về người thầy siêu việt của họ.

Dù sao thì Ni-cô-đem cũng đã có một khởi đầu tốt với Chúa Giê-Xu. Ai tìm kiếm Chúa hết lòng, người đó sẽ gặp được Ngài. Nhưng sau khi tiếp xúc cá nhân với Chúa Giê-xu, ông cũng chỉ mới biết Ngài theo cách bề ngoài thông thường.

Chức vụ của Chúa Giê-xu bị chống đối liên tục từ những người Pha-ri-si trong những năm sau đó. Họ không thể nào chấp nhận lời giảng của Ngài đối kháng với truyền thống của Giáo Hội đương thời. Vào năm 32  khi Lễ Lều Tạm diễn ra các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si đã sai quân lính đi bắt Chúa Giê-xu vì những gì Ngài dạy gây chia rẽ giữa vòng tuyển dân. Bọn lính ra đi rồi trở về thưa rằng: “Chẳng hề có người nào đã nói như người nầy”. Các người Pha-ri-si tỏ thái độ khinh miệt họ: “Các ngươi cũng đã bị phỉnh dỗ sao? Có một người nào trong các quan hay là trong những người Pha-ri-si tin đến người đó chăng? Song lũ dân nầy không biết luật chi cả, thật là một dân đáng rủa!” Lúc này Ni-cô-đem ra mặt bênh vực Chúa Giê-xu: “Luật chúng ta há bắt tội một người nào chưa tra hỏi đến, và chưa biết điều người ấy đã làm, hay sao?”

Trong lòng Ni-cô-đem đã có cảm tình đặc biệt với Chúa Giê-xu, ông vượt qua sự sợ hãi khi công khai bênh vực chức vụ của Ngài giữa vòng những bạn đồng liêu. Ông đã có một cảm nhận từ trái tim là cuộc đời ông sẽ trở nên hụt hẫng nếu không có Ngài.

Tạm thời Chúa chưa bị bắt vì mục vụ của Ngài trên đất vẫn còn, và giờ G định mệnh chưa đến.

Cho đến một ngày kia…

Chức vụ của Chúa Giê-xu bước qua năm thứ ba. Sự chống đối của những người lãnh đạo Do Thái Giáo đối với Ngài đã lên tới đỉnh điểm. Chúa Giê-xu lên Giê-ru-sa-lem chuẩn bị hoàn tất chương trình cứu chuộc. Kẻ thù đã chuẩn bị một kế hoạch để bắt Chúa. Và rồi điều tệ hại nhất đã đến, Ni-cô-đem bàng hoàng khi nghe tin Chúa Giê-Xu bị bắt và kẻ thù chuẩn bị đóng đinh Ngài trên cây thập tự. Bỗng dưng ông nhớ lại những gì Chúa dạy trong đêm đặc biệt đó: “Xưa Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên dường ấy, hầu cho hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời.  Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”

– Đúng rồi, “Con Người” mà giáo sư Giê-xu nói ở đây chính là Ngài. Ngài phải bị treo trên cây gỗ. Ngài là Con Một của Đức Chúa Trời. Ta  đã tìm thấy rồi, Ni-cô-đem tự nói lớn với chính mình trong phòng riêng đến nỗi bà vợ ông phải ngạc nhiên:

– Ông vừa nói cái gì thế?

– Bà ơi, hãy nghe đây: Giê-xu – người Na-xa-rét chính là Con Một của Đức Chúa Trời. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời. Ni-cô-đem nói lại với vợ mình nguyên văn lời Chúa Giê-xu đã nói với ông trước đây. Ánh sáng thiên thượng đã đến và ông hiểu ra những gì Chúa phán dạy trước đó.

“Lạy Chúa con muốn được sanh lại bởi quyền năng Thánh Linh”. Ni-cô-đem thốt lên lời cầu nguyện.

Ni-cô-đem lập tức đến hiện trường – nơi Chúa Giê-Xu bị đóng đinh trên thập tự giá. Tự nhiên ông có một linh cảm: Không dễ gì Chúa Giê-xu, Con Một của Đức Chúa Trời lại phải trải qua một cái chết thông thường.

Ni-cô-đem lên đồi Gô-gô-tha vào buổi chiều lịch sử sau khi Chúa trút hơi thở cuối cùng. Từng cơn gió hiu hắt trên đồi hoang như một khúc nhạc bi tráng đi vào tâm hồn người nghị viên của Tòa Công Luận. Ni-cô-đem đứng đó nhìn vào ba thi thể trên thập tự giá, ông nhận ra khuôn mặt của Chúa Giê-xu giữa hai khuôn mặt khác. Ni-cô-đem muốn bật khóc nhưng lạ chưa khóe mắt ông vẫn ráo hoảnh – những giòng lệ đã khô cạn tự bao giờ. Tâm hồn ông chùng xuống giữa đất trời một màu tang tóc thê lương! Tuy nhiên tận sâu thẳm trong cõi lòng Ni-cô-đem cảm biết điều ngoạn mục sẽ xảy ra sau sự chết của Chúa.

Ni-cô-đem biết điều ông phải làm vào lúc này.

Lúc bấy giờ Giô-sép người A-ri-ma-thê, môn đồ Đức Chúa Giê-xu một cách kín giấu là một người giàu có và cũng là nghị viên của Tòa Công Luận đến gặp quan tổng đốc Phi-lát xin phép lấy xác Chúa Giê-xu để chuẩn bị thủ tục mai táng. Quan tổng đốc chấp thuận lời thỉnh cầu của Giô-sép. Điều này trái với lẽ thường là các thi hài của những kẻ chết vì tội dấy loạn sẽ bị quăng vào một ngôi mộ tầm thường nào đó. Nhưng ngôi mộ mà Giô-sép dùng để chuẩn bị mai táng xác Chúa là một ngôi mộ sang trọng dành cho người giàu có gần nơi Chúa bị đóng đinh. Khi Giô-sép chuyển thi hài của Chúa xuống khỏi thập tự giá thì Ni-cô-đem cũng đến đem theo một trăm cân một dược (đơn vị đo lường của La Mã lúc đó tương đương 33kg) hòa với lư hội.  Cả hai người Giô-sép và Ni-cô-đem lấy xác Đức Chúa Jêsus, dùng vải gai và thuốc thơm gói lại, theo đúng thủ  tục khâm liệm của dân Do Thái.

Giô-sép và Ni-cô-đem đã thắng hơn sự sợ hãi, hai ông đã dũng cảm công khai niềm tin vào Chúa Giê-xu với công chúng khi hành động mai táng xác Chúa với sự trân trọng hiếm thấy. Đáng lý ra công việc này phải thuộc về nhóm mười hai sứ đồ. Các sứ đồ đi đâu vào lúc này?  Có thể họ bấn loạn tinh thần nên đã bỏ của chạy lấy người! Và trong hoàn cảnh đặc biệt đó hai nghị viên của Tòa Công Luận đã thực hiện sứ mạng đặc biệt của mình.

Sau ba ngày nằm trong mộ địa, Chúa Giê-xu đã sống lại từ cõi  chết một cách khải hoàn.

Điều trông đợi của Ni-cô-đem đã thành hiện thực: Giê-xu, người Na-xa-rét không thể chết theo cách bình thường, Ngài đã sống lại!

Ni-cô-đem nhận ra ánh sáng chân lý sau khi Chúa phục sinh. Cuộc đời ông thay đổi từ đây. “Lạy Chúa Giê-xu con tin Ngài là Con của Đức Chúa Trời, đã đến thế gian để chết đền tội cho con và Ngài đã sống lại”. Ni-cô-đem tuôn ra lời cầu nguyện tự nhiên như một dòng suối được khai thông.

Sự sống mới tràn vào tâm hồn Ni-cô-đem. Ông bước ra khỏi Do Thái Giáo với những giáo điều khô cứng để trở nên một môn đệ công khai, can đảm của Chúa Giê-xu. Hành động đức tin của ông đã làm cho các thành viên còn lại của Tòa Công Luận sửng sốt. Nhưng trường hợp của ông cũng tạo niềm cảm hứng Tiếp Nhận Chúa Giê-xu cho những người khác còn ở trong vòng trói buộc của những quyền lợi đời này. Trong bất kỳ thời đại nào thì Phúc Âm của Chúa luôn có quyền năng vô đối để giải phóng con người ra khỏi những rào cản, cho dù họ thuộc tầng lớp nào của xã hội.

Không bao lâu sau đó, Ni-cô-đem đã đến với các sứ đồ Phi-e-rơ và Giăng nhận lãnh phép báp-tem. Chấp nhận bị cách chức nghị viên của Tòa Công Luận và bị trục xuất ra khỏi Giê-ru-sa-lem vì tin Chúa Giê-xu, Ni-cô-đem cũng cởi bỏ chiếc áo Pha-ri-si để trung tín phục vụ Chúa Giê-xu và Phúc Âm của Ngài cho đến cuối đời. Danh vọng, địa vị, quyền lợi của ông trong Giáo Hội không là gì cả vì ông đã tìm gặp được Cứu Chúa của mình.

TƯỜNG VI

 Nguồn: http://songdaoonline.com/e3101-gap-chua-trong-dem-tuong-vi-bai-chon-dang-191-.html

KHẢI TƯỢNG VỀ ĐẤNG THƯỢNG CỔ, CON LOÀI NGƯỜI, VÀ CÁC THÁNH ĐỒ SỞ HỮU VƯƠNG QUỐC (Đa-ni-ên 8)

Nguyện Chúa ban cho chúng ta linh của sự khôn ngoan và khải thị một lần nữa. Chúa muốn chúng ta đạt đến mức trưởng thành, vì vậy trong tất cả các hội thánh, chúng ta phải tăng trưởng. Ngài không thể trở lại nếu chúng ta không trưởng thành. Trong Matthew 13, Chúa là người gieo giống, nhưng trong Khải Thị 14 thì Ngài là thợ gặt. Người nào gieo thì cũng mong đợi mùa gặt. Khi Chúa đến lần thứ nhất, Ngài đã gieo ra.

Trong 2000 năm qua, hội thánh đã trải qua một diễn trình dài; sự bội đạo đã bắt đầu vào thế kỷ thứ nhất. Đến thế kỷ thứ sáu thì Công Giáo La Mã đã phát triển đầy đủ, và mãi sau 1000 năm tăm tối, vào lúc bắt đầu phong trào Cải Chánh, mọi sự mới dần dần tốt đẹp trở lại. Bây giờ, sau 500 năm nữa, thời kỳ chin muồi đã đến. Chúng ta đừng quên rằng hội thánh không chỉ là một nơi chúng ta đến với nhau vào các ngày Chủ Nhật để “dự lễ”, nhưng hội thánh là dân Đức Chúa Trời, có sứ mạng đoạt vương quốc và sự cai trị khỏi tay Satan, các quyền lực và chấp chánh. Đức Chúa Trời muốn vương quốc của Ngài đến trên trái đất. Vì vậy, Chúa đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Cha ơi, xin vương quốc Ngài đến.”
Ngay từ ban đầu Đức Chúa Trời đã muốn con người cai trị trên đất (Sáng 1:26). Sau sự sa ngã của con người, Đức Chúa Trời đã có thể dễ dàng đánh bại Satan, tuy nhiên kế hoạch của Ngài vĩ đại hơn thế – Ngài muốn xây dựng vương quốc của Ngài trên đất, không phải một mình Ngài nhưng với chúng ta. Thật là một đặc ân khi được làm một người ở trong kế hoạch của Đức Chúa Trời! Vì điều đó, Ngài đã tạo dựng chúng ta trong hình ảnh Ngài và muốn ban cho chúng ta sự sống Ngài hầu cho chúng ta có thể cai trị với Ngài.
Dân Israel đã thật sự là tuyển dân của Đức Chúa Trời, và như vậy họ là quốc gia thánh đầu tiên, tuy nhiên họ cũng đã sa ngã; vào thời Samuel, họ đã từ chối Đức Chúa Trời là Vua của họ; họ đã muốn có một vua giống như các dân và trở nên ngày càng sa ngã hơn, cho đến khi họ thật sự giống như các dân, đến nỗi cuối cùng Đức Chúa Trời đã từ bỏ dân Ngài và để cho họ bị đem đến Babylon làm phu tù. Với sự cai trị của Nebuchadnezzar ở Babylon, các thời kỳ của các quốc gia đã bắt đầu (606 TCN), và chỉ kết thúc vào năm 1967 với sự chiếm lại Jerusalem (Luke 21:24). Sau khi những người La Mã phá hủy Jerusalem lần cuối cùng (70 TCN), Chúa đã bắt đầu sửa soạn cho Sự Đến Lần Thứ Hai của Ngài vào năm 1948: Israel một lần nữa trở thành một quốc gia và với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời hằng sống họ đã có thể chiếm lại Miền Đông Jerusalem vào tháng sáu năm 1967 trong “Cuộc Chiến Sáu Ngày”, khi đó toàn bộ thành phố Jerusalem đã được Israel chiếm lại (Luke 21:24). Tuy nhiên, Chúa vẫn chưa thể trở lại. Vào lúc đó, sự khôi phục và tái thiết nếp sống hội thánh vẫn chưa hoàn tất. Trước khi hội thánh được hoàn tất và đạt đến mức trưởng thành, Chúa không thể trở lại. Làm thế nào Vua có thể đến nếu không có vương quốc? Và làm thế nào Chúa có thể đến như Tân Lang khi hội thánh, cô dâu của Ngài, chưa sẵn sàng cho tiệc cưới (Khải 19:7-8)?
Sau hai dấu hiệu (vào năm 1948 và 1967), dấu hiệu thứ ba từ Daniel 9 vẫn phải được hoàn thành. Khi dấu hiệu thứ ba (dấu hiệu về hiệp ước hòa bình) đến, đó sẽ là khởi đầu của bảy năm cuối cùng của thời đại này. Cả thế giới đang chờ đợi hiệp ước hòa bình này giữa Israel và người Palestine.
Ngoài ra, chúng ta không được quên pho tượng từ giấc chiêm bao của Nebuchadnezzar trong Daniel 2. Thời kỳ hai bàn chân của pho tượng đã bắt đầu với thời kỳ Cách Mạng Pháp (năm 1789) và việc giành được độc lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (1776). Cùng với điều đó, nền móng cho hình thức chính quyền tự do và dân chủ đã được lập. Bằng cách so sánh với bức tượng này chúng ta thấy ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại của hai bàn chân, và điều này đồng nghĩa với sự kết thúc của các thời kỳ. Chỉ Đức Chúa Trời mới có sự khôn ngoan để mô tả toàn bộ sự phát triển của nhiều ngàn năm trong một bức tranh duy nhất, pho tượng trong Daniel 2. Từ cái đầu bằng vàng bên trên đôi vai bằng bạc, bụng và bắp vế bằng đồng, hai ống chân bằng sắt cho đến hai bàn chân bằng đất sét và sắt, lịch sử cũng cho chúng ta thấy rằng nhân loại ngày một tệ hơn. Từ vàng tới sắt, chất liệu trở nên cứng hơn và ít quý báu hơn. Cho đến ngày nay, chúng ta thấy rằng con người đã trở nên ngày càng cứng cỏi đối với Đức Chúa Trời. Bất chấp các thành tựu văn hóa vĩ đại trong các thời đại khác nhau, toàn bộ lịch sử nhân loại trên hết vẫn là một lịch sử của chiến tranh. Dù một số thành tựu có vẻ rất rực rỡ bề ngoài, nhưng bản chất thật của con người và các vương quốc loài người vẫn có thể ví như con thú hoang, như khải tượng trong Daniel 7 khải thị cho chúng ta.
Các Vương Quốc của Thế Giới
Được Ví Như Những Con Thú Hoang
“Vào năm thứ nhất đời vua Belshazzar của Babylon, trong khi nằm trên giường, Daniel có một giấc chiêm bao và các khải tượng trong đầu mình. Ông ghi chép lại giấc chiêm bao, kể lại các sự kiện chính. Daniel nói: “Trong khải tượng vào ban đêm, tôi đang nhìn xem thì có bốn cơn gió từ trời khuấy động Biển Lớn” (Dan. 7:1-2). Tất cả các vương quốc được đề cập ở đây phải có liên quan đến khu vực Địa Trung Hải, nơi có quốc gia Israel. Dù chúng ta muốn thừa nhận hay không thì Israelvẫn là trung tâm của thế giới này. Theo Zechariah, khi Chúa thiết lập vương quốc Thiên hi niên của Ngài, vương quốc này cũng sẽ ở tại Jerusalem. Do đó, Jerusalem là một nơi bị tranh đoạt nhiều như vậy, vì kẻ thù cũng muốn chiếm giữ Jerusalem và không hoàn trả. Thành phố nhỏ bé này rất quan trọng đối với Đức Chúa Trời. Trong mắt người ta, Jerusalem như không là gì cả (“Zion” nghĩa là “miền đất bị thiêu rụi”). Tuy nhiên lại có rất nhiều cuộc chiến tranh vì thành phố này.
Đã có nhiều cuộc chiến tranh ở vùng Địa Trung Hải. Trận chiến cuối cùng sẽ xảy ra ở phần này của trái đất khi các quân đội của thế giới này tập hợp tại Armageddon cho cuộc chiến cuối cùng chống lại Đấng Christ (Khài 16:14-16). Đây thật sự là một khu vực đặc biệt.
“Đoạn, bốn con thú lớn từ biển lên; con nọ khác con kia.  Con thứ nhứt giống như sư tử, và có cánh chim ưng (đó là Nebuchadnezzar); Ta nhìn xem cho đến khi những cánh nó bị nhổ, nó bị cất lên khỏi đất, đứng hai chân như người ta, và nó được ban cho lòng loài người.  Nầy, một con thú thứ hai, y như con gấu; nó đứng nghiêng nửa mình, có ba cái xương sườn trong miệng, giữa những răng; và người ta bảo nó rằng: Hãy chỗi dậy, hãy cắn nuốt nhiều thịt” (cc. 3-5). Con gấu có hai mặt này tương ứng với đội vai của pho tượng trong Daniel 2; người Mede và người Ba Tư đã trở nên vương quốc Ba Tư. Ba vương quốc của Asia minor, Ai Cập và Babylon, tức là ba chiếc xương sườn trong miệng con gấu, đã bị vua Ba Tư là Cyrus tiếp quản.
“Và họ nói với nó: ‘Hãy trỗi dậy, ăn nuốt nhiều thịt vào!’”(c.5). Đây là một bức tranh cho thấy vương quốc Ba Tư chiến thắng trong các cuộc chiến tranh không phải nhờ chiến lược nhưng nhờ quân số đông. Họ đã chinh phục các vương quốc nhờ có quân đội rất lớn, tương phản với Alexander Đại Đế là người đã chinh phục nhiều nước chỉ với quân đội nhỏ bé.
“Sau điều này, tôi nhìn xem, và có một con thú khác giống như con báo, trên lưng có bốn cánh của loài chim. Con thú này cũng có bốn đầu, và quyền thống trị được ban cho nó” (c.6). Đây là một bức tranh về Alexander Đại Đế (nhanh như báo), người đã chinh phục nhiều quốc gia chỉ trong vài năm, không mất bao nhiêu thời gian. Sau khi ông chết trẻ, vương quốc của ông đã bị chia thành bốn phần: Hy Lạp, Asia Minor, Syria và Ai Cập (bốn cái đầu).
“Sau điều này, tôi nhìn xem trong các khải tượng vào ban đêm, có con thú thứ tư, đáng sợ và kinh khủng, mạnh mẽ vô cùng. Nó có những chiếc răng lớn bằng sắt; nó ăn ngấu nghiến, cấu xé và giày đạp phần còn lại dưới chân; nó khác với tất cả những con thú trước nó; và nó có mười sừng” (c.7). Daniel đã không thể mô tả chính xác con thú thứ tư. Ông chỉ có thể nói: “Nó rất khủng khiếp, mạnh mẽ, đáng sợ và lạ thường.” Đó là Đế Quốc La Mã mà đã thay đổi qua các thế kỷ đến thời của chúng ta (tương ứng với hai ống chân và hai bàn chân trong Daniel 2). Cuối cùng, chúng ta không còn có thể nhận ra Đế Quốc La Mã nguyên thủy vào các thời xưa nữa. Ngày nay chúng ta có “Các Hiệp Ước La Mã” (1957/1958), tiến trình liên hiệp của các nhà nước Châu Âu dựa trên các “hiệp ước” này.
Mười chiếc sừng trong câu 7 tương ứng với mười ngón chân trong Daniel 2. Trong mắt Đức Chúa Trời, con người sa ngã chẳng khác gì loài thú bốn chân không tinh sạch (Công 10:12). Có điều gì mà con người chưa nghĩ ra để hành hạ và giết chóc lẫn nhau! Hãy nhớ lại thời Trung Cổ và các loại vũ khí hủy diệt trong hai cuộc thế chiến.
Chiếc Sừng Nhỏ Đặc Biệt –
Con Thú của Mọi Con Thú
(Dan. 7:8; Khài 13:1-10)
 
“Tôi đang xem xét những chiếc sừng thì có một chiếc sừng khác, một chiếc sừng nhỏ, xuất hiện từ giữa chúng; ba trong số những chiếc sừng đầu tiên bị bẻ gãy tận gốc trước mặt nó. Và tại đó, trong chiếc sừng này có những con mắt giống như mắt người, và một cái miệng thốt ra những lời lộng ngôn” (Dan. 7:8).
Khải Thi 13 cũng nói về mười chiếc sừng. John đã nhìn thấy con thú của mọi con thú mà sẽ xuất hiện. Trong con thú này, tất cả các con thú từ Daniel chương 7 sẽ được nhìn thấy một lần nữa. Giống như Chúa là Vua của mọi vua, cũng có con thú của mọi con thú: “Và tôi nhìn thấy một con thú đi lên từ biển, có bảy đầu và mười sừng, và trên các sừng nó có mười vương miện; trên các đầu nó có một danh hiệu phạm thượng. Bấy giờ con thú mà tôi nhìn thấy giống như con báo, các bàn chân của nó giống như bàn chân gấu, và miệng nó giống miệng sư tử. Con rồng ban cho nó quyền năng, ngai và quyền bính lớn của mình” (Khải 13:1-2). Ở đây chúng ta thấy rằng phía sau mọi con thú này và sự quỷ quái của chúng là satan, con rồng xưa. Các vương quốc của thế giới này đều nối kết với con rồng. Ngày nay nhiều điều vẫn còn ẩn giấu, nhưng trong thời kỳ cuối cùng mọi điều ác sẽ bị lộ ra.
“Và tôi  nhìn thấy một trong các đầu của nó dường như đã bị thương đến chết, và vết thương trí mạng của nó đã được chữa lành. Cả thế giới đều kinh ngạc và đi theo con thú” (Khải 13:3). Khi nào thi điều đó xảy ra? Khi ba năm rưỡi cuối cùng bắt đầu.
Tất cả các vương quốc của thế giới này đều được so sánh với các con thú nào đó. Chúng hư hoại, khủng khiếp, hủy diệt, đem đến chiến tranh và sự hủy diệt, rồi bị tiền định chịu cảnh hoang tàn, như được mô tả ở cuối Daniel 7. Tuy nhiên, vương quốc thiên thượng thì hoàn toàn khác! Do đó, đừng đầu tư vào thế giới này, hãy chỉ sử dụng nó để sống. Ngày nay chúng ta phải hoàn toàn thuộc về vương quốc thiên thượng. Trong Daniel 7 chúng ta vẫn nhìn thấy một bức tranh “loài người” về các vương quốc của thế giới; trong Daniel 7, chúng đã trở nên các con thú, trong đó có một con thú khủng khiếp đến nỗi không thể mô tả chính xác. Đó là sự phát triển của thế giới này. Khi nhìn thấy khải tượng này, anh em sẽ không đấu tư vào thế giới này hoặc thậm chí để mình bị nó bắt làm phu tù nữa.
Bảy cái đầu của mười chiếc sừng trong Khải Thị 13:1 được mô tả chính xác hơn trong chương 17: “Đây là tâm trí khôn ngoan. Bảy đầu tức là bảy hòn núi mà người đàn bà ngồi trên; cũng là bảy vua, năm đã đổ, một còn đây, một chưa đến; khi vị ấy đến, thì cần phải ở lại ít lâu thôi.” (Khải 17:9-10). La Mã được biết đến như một thành phố có bảy ngọn đồi. Bảy vua đến từ đó được nhắc đến, năm đã ngã xuống, nghĩa là đã chết cách bất thường. Cho đến thời của John đã có hơn năm vua, nhưng chúng ta phải biết rằng Đức Chúa Trời không đề cập đến tất cả các tên của họ. Đối với Đức Chúa Trời, chỉ những điều quan trọng mới được kể đến. Vua đầu tiên trong năm vua này là Julius Caesar, Tiberius là vua thứ hai (Augustus không bị giết, hoặc “ngã xuống”, và do đó không được đề cập đến), các vua còn lại là Caligula, Claudius và Nero, kế đến là Domitian (“một còn đây”, là vua vào thời của John), và vua thứ bảy chưa đến. Năm đã ngã xuống, một còn đây, và một chưa đến. Có thể ngày nay vua này đã ở đây rồi, chúng ta không biết chắc. Vua thứ bảy chỉ sống “một thời gian ngắn”.
“Con thú trước có, rày không đó, chính là vị thứ tám, cũng thuộc trong bảy vị kia, và đi đến chốn hư mất” (Khải 17:11). Con thú này đã có rồi, đã sống rồi, nhưng không còn  vào thời của John, đó cũng là vua thứ tám. Nhưng chỉ có bảy vua- vậy vua thứ tám đến từ đâu? Khi vua thứ bảy đến “thì phải sống chỉ trong một thời gian ngắn”rồi bị giết vào giữa bảy năm. Sau khi vua này chết, một trong năm vua đã có trước kia, sẽ đến. Khi ấy vua thứ bảy sẽ hồi sinh và trở nên vua thứ tám. Điều này nghĩa là vua thứ tám là sự kết hợp giữa thi thể của vua thứ bảy đã bị giết và thân vị của một trong năm vua trước. Vì vua này có con số là 666, nên rõ ràng đó là Nero. Đó là con thú lên từ vực sâu.
“Mười sừng mà ngươi đã nhìn thấy là mười vua…” (Khải 17:121). Mười quốc gia này sẽ đến. Điều đó nghĩa là vào cuối thời đại nầy sẽ có mười quốc gia, mười vua, mười vương quốc hùng mạnh. “…Là những kẻ chưa nhận được vương quốc nhưng nhận được quyền bính để làm vua cùng với con thú trong một giờ. Những kẻ này có cùng một tâm trí, và chúng sẽ dâng quyền lực và quyền bính của mình cho con thú. Chúng sẽ gây chiến với Chiên con, và Chiên con sẽ đắc thắng chúng, vì Ngài là Chúa của các chúa và còn những kẻ ở với Ngài, là những  kẻ được kêu gọi, lựa chọn và trung tín, cũng đều đắc thắng” (Khải 17:12-14).
Vào thời Daniel, cả dân Israel đều không trung tín. Họ đã đồng hóa với thế giới và thậm chí nhận lấy sự thờ phượng thần tượng.
Tuy nhiên, có một phần dân của Đức Chúa Trời vẫn còn trung tín. Ngày nay có nhiều Cơ Đốc nhân, nhưng có bao nhiêu người thật sự trung tín với Chúa? Có bao nhiêu người bước đi theo lời Ngài và có một mối liên hệ sống động với Ngài? Có bao nhiêu người vâng phục và làm những gì Ngài muốn?
Khải Tượng Về Đấng Thượng Cổ và Con Loài Người
(Dan. 7:9-10; 13-14)
Cảm tạ Đức Chúa Trời vì ngài đã bày tỏ cho Daniel một điều thêm nữa ngoài các con thú. “Tôi nhìn xem cho đến khi các ngai được lập, và Đấng Thượng Cổ ngồi trên đó; áo Ngài trắng như tuyết, tóc trên đầu Ngài giống như lông chiên thuần khiết. Ngôi Ngài là những ngọn lửa, các bánh xe của ngai là một đám lửa đang cháy; một dòng song lửa lưu xuất từ trước mặt Ngài. Hàng ngàn ngàn người cung phụng Ngài, và hàng muôn muôn người đứng trước mặt Ngài. Phiên tòa thẩm phán đã ổn định, và các quyển sách được mở ra. Tôi xem tiếp vì cớ âm thanh của những lời lộng ngôn mà chiếc sừng đang phát ra; tôi nhìn xem đến khi con thú bị giết, và xác nó bị hủy diệt và quăng vào trong lửa cháy rực” (Dan. 7:9-11). Con thú sẽ bị hủy diệt hoàn toàn và bị ném vào trong hồ lửa. Rồi Chúa sẽ tiếp quản trái đất để trị vì. Chúng ta phải nhìn thấy ngai này.
“Còn về những con thú còn lại, quyền thống trị của chúng bị cất khỏi, tuy nhiên mạng sống của chúng được kéo dài một mùa và một kỳ” (c.12). Điều này nghĩa là tất cả những điều đó sẽ tiếp tục tồn tại. Nhưng cuối cùng, như chúng ta nhìn thấy trong pho tượng này (Dan. 2), khi nó bị hủy diệt thì mọi vương quốc này cũng sẽ bị hủy diệt. Chúng ta phải đặt hai khải tượng này lại với nhau để hiểu cách chính xác.“Tôi đang nhìn xem các khải tượng vào ban đêm, kìa, một Đấng giống như Con Loài Người đang đến”. Con Loài Người, là Jesus Đấng Christ. Ở đây Ngài hiện ra để tiếp nhận vương quốc.– “Ngài đến với Đấng Thượng Cổ, và họ đã đem Ngài đến gần trước mặt Đấng ấy. Quyền thống trị, vinh hiển và một vương quốc đã được ban cho Ngài, để mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ phải phục vụ Ngài. Quyền thống trị của Ngài là quyền thống trị đời đời, là điều sẽ không qua đi; và vương quốc của Ngài là một vương quốc sẽ không bị hủy diệt. Về phần tôi, Daniel, linh tôi buồn rầu bên trong tôi, và các khải tượng trong đầu tôi đã khiến tôi bối rối. Tôi đến gần một trong những người đang đứng nơi đó và hỏi người ấy ý nghĩa thật sự của mọi điều này. Người ấy cho tôi biết và giải thích những điều đó cho tôi: ‘Các con thú lớn đó, gồm bốn con, là bốn vua sẽ dấy lên từ đất’” (c. 13-17).
Các Thánh Đồ Thừa Hưởng Vương Quốc
Bây giờ câu này liên quan đến chúng ta: “Nhưng các thánh đồ của Đấng Chí Cao sẽ nhận được vương quốc và sở hữu vương quốc mãi mãi vô cùng” (c. 18). Đó là một sự huyền nhiệm kỳ diệu! Chúng ta không nhìn thấy điều này trong khải tượng đầu tiên, trong giấc chiêm bao của Nebuchadnezzar. Đức Chúa Trời đã chỉ ban khải tượng này cho Daniel. Tuy  nhiên, Chúa vẫn chưa đến vì vương quốc của Ngài vẫn chưa được sửa soạn đầy đủ. Chúng ta có sẵn sàng để cai trị nếu Chúa đến hôm nay không? Nếu Ngài vẫn chưa có thể cai trị trong anh em thì làm thế nào Ngài có thể cai trị qua anh em khi Ngài trở lại? Vương quốc của Ngài thì đầy dẫy hòa bình, sự công nghĩa và vinh hiển; vương quốc ấy là đời đời. Nếu ngày nay chúng ta không hợp tác với Ngài trong mọi sự mà thay vì vậy lại sống như những người vô tín thì làm thế nào Chúa có thể cai trị qua chúng ta? Chúng ta có đủ tiêu chuẫn để nhận được vương quốc không? Ở đây nói rằng các thánh đồ sẽ nhận được vương quốc, đó là điều quan trọng nhất trong chương 7, chứ không phải là những con thú.
“Tôi nhìn xem; chiếc sừng đó gây chiến với các thánh đồ và thắng hơn họ”(c.21). Chúng ta phải giữ câu này trong lòng mình vì nó sẽ lại xuất hiện sau này trong Khải Thị chương 12 và 13. Điều đó có nghĩa là nếu chúng ta không được cất lên trước ba năm rưỡi sau cùng, thì chúng ta sẽ kinh nghiệm việc con thú gây chiến với các thánh đồ và thắng hơn họ: “Điều đó được ban cho nó để nó gây chiến với các thánh đồ và đắc thắng họ”  (Khải 13:7). Điều Daniel đã nhìn thấy cũng chính là điều John nhìn thấy.
Anh em hãy tự hỏi mình là anh em có sẵn sàng cho sự cất lên chưa? Lời cho chúng ta biết rằng sẽ có những thánh đồ vẫn còn ở lại đây: “Con rồng nổi giận với người đàn bà, và nó đi ra gây chiến với phần còn lại của dòng dõi nàng, là những người giữ các điều răn của  Đức Chúa Trời và có chứng cớ của Jesus” (Khải 12:17). Đây là những người Do Thái và các Cơ Đốc nhân.
Cho đến khi Đấng Thượng Cổ đến; và sự thẩm phán được ban cho các thánh đồ của Đấng Chí Cao; và đã  đến kỳ để các thánh đồ sở hữu vương quốc” (Dan. 7:22). Amen. Các vương quốc của thế giới này chỉ tạm thời được ban cho các dân tộc; thậm chí thời kỳ của họ đã hết. Tuy nhiên, Chúa vẫn phải chờ đợi cho đến khi các thánh đồ sẵn sàng để tiếp nhận vương quốc.
“Khi ấy vương quốc và quyền thống trị, và sự vĩ đại của các vương quốc dưới khắp trời, sẽ được ban cho dân, các thánh đồ của Đấng Chí Cao; vương quốc của Ngài là một vương quốc đời đời, và mọi quyền thống trị sẽ phục vụ và vâng phục Ngài” (Dan. 7.27). Thật tốt đẹp vì có một kết thúc như vậy. Trong chương 2, vương quốc của Chúa trở nên như ngọn núi lớn và làm đầy dẫy khắp đất, nhưng ở đây trong chương 7 có nói rõ rằng chúng ta, các thánh đồ, cũng sẽ thừa hưởng vương quốc này từ Ngài!
Chúng ta cũng hãy đọc Khải Thị 11. Điều gì sẽ xảy ra vào cuối cơn đại nạn? “Thiên sứ thứ bảy trổi tiếng kèn; và có những tiếng lớn trời nói: ‘ Vương quốc của thế giới đã trở nên vương của Chúa chúng ta và của Đấng Christ của Ngài, và Ngài sẽ trị vì mãi mãi vô cùng”” (Khải 11:15).

 

Trong Khải Thị, John cũng nhìn thấy ngai của “Đấng Thượng Cổ” giống như Daniel đã nhìn thấy. Và trong Khải Thị 5 chúng ta nhìn thấy Chiên Con ở trên ngai là Đấng có đủ tư cách để mở quyển sách và các ấn và có được quyền thống trị.
Nguồn: Thế hệ mới.

CHÚA VẪN BÊN CON

CHÚA vẫn bên con, mắt hằng quan sát 
Mỗi bước con đi giữa cõi hồng trần 
Như lính thức canh ngày đêm cảnh giác 
Phù hộ con trong nghịch cảnh nguy nan. 

CHÚA vẫn bên con, bàn tay nắm chặt 
Dìu con trên đường khổ nạn, gai chông 
NGÀI cứu độ như khi NGÀI sữa phạt 
Lượng nhơn từ thương xót quá mênh mông. 

CHÚA vẫn bên con, tiếng NGÀI êm dịu 
Răn dạy con, cảnh tĩnh tránh đường sai 
Nâng đức tin lúc mỏi mòn suy yếu 
An ủi con khi thử thách, lạc loài. 

CHÚA vẫn bên con, chân NGÀI mạnh bước 
Đạp đầu sóng quỉ, lướt gió bão ma 
Ban hy vọng, bình an hồi khốn cực 
Cho hồn con mạnh trổi khúc tôn ca. 

CHÚA vẫn bên con, tai NGÀI lắng rõ 
Tâm sự sầu thương của kẻ lưu đày 
NGÀI trấn an : Con hãy chờ, đừng sợ 
Sắp đến rồi ngày Ác quỉ tan thây. 

CHÚA vẫn bên con, tim NGÀI vẫn đập 
Nhịp tình thương nồng thắm ấp yêu con 
Tình giữa người dù lắm khi bầm dập 
Nhưng tình NGÀI muôn thuở vững hơn non. 

Đêm đen xuống, bên con NGÀI đứng đó 
Quyền tối tăm không hãm được hồn con 
Linh lực mới mỗi ngày NGÀI tiếp trợ 
Cuộc viễn trình lại nối chẳng chồn chơn. 

Linh Cương 

THEO CHÚA

iwillfollowhim

Một đời theo CHÚA trọn đời
Ngày trời trên đất sáng ngời thủy tinh
Đức tin thấy cõi vô hình
Dứt căn trần lụy, mộng lành siêu nhiên
Mắt thôi nhìn cuộc đảo điên
Cảm hiện diện CHÚA đôi miền tử sinh
Thuyền hồn đâu nữa lênh đênh
Cưỡi trên đầu sóng, thác ghềnh đều qua
Ân sủng CHÚA quá bao la
Yêu thương CHÚA ngọt trầm ca diệu kỳ
Jêsus ! Tôi kẻ tình si
Đam mê quyến luyến từ khi gặp NGÀI
Bước theo CHÚA, quyết theo hoài
Tâm linh vui thỏa, nhẹ vơi nỗi niềm.

 

Linh Cương

Công tác từ thiện tại Giáo khu Cần Thơ (từ 8 đến 11/8/2014)

Phương châm hoạt động của đoàn từ thiện:

Bày tỏ tình yêu thương bằng việc làm và lẽ thật. (I Giăng 3:18 _ Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật.)

A. ĐỐI TƯỢNG PHỤC VỤ:

1.   Những người cùng khổ: góa bụa, neo đơn, già yếu, không người phụng dưỡng, khuyết tật, bị bỏ rơi.

2.   Những người bị bệnh phong cùi mất sức lao động.

3.   Các nạn nhân bị thiên tai như bão lụt, động đất, tai nạn bất ngờ…

4.   Các học sinh nghèo hiếu học, nhưng gia đình không đủ khả năng tài chính để đóng học phí hoặc tiền trường.

B.  PHƯƠNG CÁCH HOẠT ĐỘNG: 

 Trao quà, thực phẩm, quần áo, tiền bạc, vật liệu xây dựng … trực tiếp tận tay những người đang cần cứu giúp không qua trung gian. Hạn chế trao tặng tiền bạc, ngoại trừ học bỗng và viện phí cho người đang nằm viện cấp cứu.

 

C.  MỤC ĐÍCH: 

Bày tỏ tình yêu thương bằng việc làm theo Lời Chúa dạy, đối với những đối tượng cần cứu giúp không phân biệt Tín ngưỡng, Giáo phái hay Chính trị.

Sáng lập viên và Trưởng Nhóm Công Tác từ Thiện Joseph Việt Nam (Founder/Head of The Joseph Charity Group in Vietnam (JCG-VN)): Mục sư Nguyễn Đức Na (0918116844)

Trợ lý cộng tác viên: Mục sư Phạm Hơn (0989249554)

Văn phòng đại diện: 69/40/15 Lê Hồng Phong, Vũng Tàu. Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

Email:[email protected]

 

JOSEPH CHARITY WORK GROUP (JCG)

Joseph, a charity work group, has practiced charity activities in Vietnam for nearly 20 years. What features is Joseph’s group?

A. SUBJECTS FOR:

1. People of the same size: widowed, solitary, old age, people who not be taken care, disabled, abandoned.

2. The leper who loses their labor.

3. The victims of natural disasters such as floods, earthquakes,  accidents …

4. The poor studious students, but their families can not afford  school fees.

B. HOW TO METHOD OF OPERATION:

Giving gifts, food, clothing, money, building materials … directly into the hands of those who need to help (not mediated). Limiting to give money, except scholarships and hospital charges for emergency cases.

C. PURPOSE:

Expressing love by practicing the Word of God, for those who need to help regardless of their beliefs, or political, denomination.

 

(Founder / Head of The Joseph Charity Group in Vietnam (JCG-VN)): Rev. Nguyen Duc Na (0918116844)

Assistant: Rev. Pham Hon (0989249554)

Representative Office: 69/40/15 Le Hong Phong, Vung Tau. Ba Ria Vung Tau Province.

Any support, please send to: Rev. Nguyen Duc Na (0918116844)

Representative Office: 69/40/15 Le Hong Phong, Vung Tau. Ba Ria Vung Tau Province.

PS: We hope that you will be a regular member of The Joseph Charity Group in Vietnam (JCG-VN)).

Blessings.

 Điểm đến cuối cùng trong mùa hè 2014 này để phát tâp vở và học bổng cho các con em gia đình mồ côi, khó khăn là Giáo khu Cần Thơ, sau khi đã đến các khu vực miền cao nguyên Sơn Hà, Sơn Tây, Quãng Ngãi, Kon Rẫy, Kon Tum, Di Linh, Lâm Đồng, Đắc Nông, Phú Quốc (đã có các bản tin trước đây trên website này).

Đoàn từ thiện Joseph kết hợp với giáo hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu-Việt Nam thực hiện công tác từ thiện trong nội bộ các Hội Thánh và các trường tiểu học địa phương.

Sau đây là các hình ảnh ghi lại trong chuyến đi cuối cùng tại Giáo khu Cần Thơ.

 

 

Trao học bổng tại địa điểm 1 (HTTL Liên Hiệp Đông Thuận 1)

Trao học bổng tại địa điểm 1 (HTTL Liên Hiệp Đông Thuận 1)

 

Phát tập vở cho các em học sinh nghèo.

Phát tập vở cho các em học sinh nghèo.

Mục sư Hội trưởng cầu nguyện chúc phước cho các em.

Mục sư Hội trưởng cầu nguyện chúc phước cho các em.

Thi hát Thánh ca tại địa điểm 2 (HTTL Liên Hiệp Thới Tân 1)

Thi hát Thánh ca tại địa điểm 2 (HTTL Liên Hiệp Thới Tân 1)

Phát học bổng tại địa điểm 2.

Phát học bổng tại địa điểm 2.

Phát tập vở tại địa điểm 2.

Phát tập vở tại địa điểm 2.

Tặng quà cho cháu gái bị tật bẩm sinh ở địa điểm 3 (HTTL Liên Hiệp Trung Hưng 1)

Tặng quà cho cháu gái bị tật bẩm sinh ở địa điểm 3 (HTTL Liên Hiệp Trung Hưng 1)

Cháu gái bị tật bẩm sinh.

Cháu gái bị tật bẩm sinh.

Phát vở và học bổng tại địa điểm 3.

Phát vở và học bổng tại địa điểm 3.

Lễ công nhận Hội thánh mới: HTTL Liên Hiệp Trung Hưng 1.

Lễ công nhận Hội thánh mới: HTTL Liên Hiệp Trung Hưng 1.

Mục sư Hội trưởng đặt tay cầu nguyện cho Quản nhiệm HT mới trước khi trao giấy công nhận.

Mục sư Hội trưởng đặt tay cầu nguyện cho Quản nhiệm HT mới trước khi trao giấy công nhận.

Lễ cảm tạ và dâng phòng nhóm mới tu sửa.

Lễ cảm tạ và dâng phòng nhóm mới tu sửa.

Mục sư Phó hội trưởng nội vụ Lương Thời chia xẻ lời Chúa cho lễ cảm tạ.

Mục sư Phó hội trưởng nội vụ Lương Thời chia xẻ lời Chúa cho lễ cảm tạ.

Mục sư Hội trưởng cầu nguyện dâng HT mới.

Mục sư Hội trưởng cầu nguyện dâng phòng nhóm mới.

100 tập vở gửi lại cho Giáo khu để tặng cho 10 em học sinh nghèo ở trường tiểu học Đông Thuận, 200 tập vở gửi tặng cho 20 em học sinh nghèo của trường tiểu học Đông Bình và trường tiểu học Thới Tân 3.

100 tập vở gửi lại cho Giáo khu để tặng cho 10 em học sinh nghèo ở trường tiểu học Đông Thuận, 200 tập vở gửi tặng cho 20 em học sinh nghèo của trường tiểu học Đông Bình và trường tiểu học Thới Tân 3.

Nhân dịp này, giáo hội tổ chức kiểm tra môn học Cựu Ướt Lượt Khảo. Mục sư giảng viên bộ môn hướng dẫn cách thức thực hiện và cầu nguyện trước khi các quản nhiệm làm bài.

Nhân dịp này, giáo hội tổ chức kiểm tra môn học Cựu Ước Lượt Khảo. Mục sư giảng viên bộ môn hướng dẫn cách thức thực hiện và cầu nguyện trước khi các quản nhiệm làm bài.

Giáo hội trao giấy công nhận MSNC cho Mục sư Nguyễn Thanh Hồng và giấy công nhận TĐ cho nữ TĐ Nguyễn Hoa Tươi.

Giáo hội trao giấy công nhận MSNC cho Mục sư Nguyễn Thanh Hồng và giấy công nhận TĐ cho nữ TĐ Nguyễn Hoa Tươi.

 

 

 Cảm tạ Chúa, đoàn từ thiện Joseph đã thực hiện được những công tác từ thiện cho người cùi, cho những nạn nhân lũ lụt, thiên tai, cho các em học sinh nghèo trong những năm vừa qua theo sự dạy dỗ của lời Chúa trong Hê-bơ-rơ 13:16 _ “Chớ quên việc lành và lòng bố thí, vì sự tế lễ dường ấy đẹp lòng Đức Chúa Trời.”

Nguyện xin Chúa ban phước cho các tôi con của Chúa đã góp phần vào quỹ từ thiện này.

 

Mục sư Nguyễn Đức Na 

Giáo hội trưởng kiêm trưởng Đoàn Từ Thiện Joseph.

 

 

 

 

 

 

 

CHÚA Ở ĐÂU

CHÚA ở đâu? Anh vẫn thường tự vấn 
Khi niềm tin chưa mọc rễ tâm hồn 
Hãy đưa mắt nhìn trời xanh mây trắng 
Xanh núi rừng hùng vĩ, mạ xanh non 

Trăm hoa ửng khoe muôn hồng nghìn tía 
Xuân tươi cười với dáng dấp yêu kiều 
Thác ngàn đổ ngày đêm không ngừng nghỉ 
Tơ nắng vàng, ráng đỏ, tím mây chiều 

Cây úa sắc giữa trời thu vắng lặng 
Sầu lên men trong lá rụng dặm mòn 
Ôi tiêu sơ đất phủ trùm tuyết trắng 
Khẳng khiu cành run rẩy lạnh cô đơn 

Róc rách vòng quanh chân đèo heo hút 
Giòng suối trong tận đáy cá lượn lờ 
Nối biển rộng con sông dài xa mút 
Sóng vật mình biển thét gọi hư vô. 

Hãy nhìn tận thiên nhiên , bao cảnh sắc 
Cảm nhận ngay Đấng tạo dựng vạn loài 
Và nhìn kỹ con người đang sinh hoạt 
Óc thông minh xây phúc lợi cuộc đời. 

Ô kỳ diệu bao công trình Thượng Đế 
Đã dựng nên vũ trụ với loài người 
Nếu chưa thấy Đức Toàn Năng ngự trị 
Thì lương tri tắc nghẽn tận lâu rồi. 

Linh Cương 

Nguồn Vietchristian.com

Lời than khóc của Sứ đồ Phao-lô

Tôi tâm đắc với lời tâm tình và chia xẻ của mục sư Lê Minh Đạt. Xin chuyển tiếp đến tôi con của Chúa để suy gẫm.
MS JosephNa Nguyễn
Sáng cuối tuần, mình chở Gấu và con trai (7 tuổi) đi ăn sáng.
 
Đang ăn sáng, thì con trai đòi mẹ mua cá trứng về chiên ăn. Mẹ hẹn chiều sẽ mua. Con trai nằng nặc đòi, vừa đòi vừa khóc, nói bằng giọng nhão nhẹt, sao hôm bữa mẹ hứa sẽ mua. Mẹ giải thích rằng đang bận công việc, chưa mua được, chiều mua đồ siêu thị nhiều thứ sẽ mua cá trứng luôn. Thế nhưng con trai vẫn tiếp tục khóc, nước mắt chảy thành dòng, nhắc đi nhắc lại rằng mẹ đã hứa với con sao mẹ chưa mua cá trứng, con thèm ăn cá trứng, con muốn ăn cá trứng. Mình bực quá nạt mấy tiếng thì con trai mới thôi.
 
Mình vừa tiếp tục bữa sáng, vừa suy nghĩ. Hình ảnh của con trai giống như nhiều Cơ đốc nhân ngày nay. Họ nằng nặc đòi Chúa thực hiện những gì Chúa đã hứa, nằng nặc đòi như một đứa trẻ, nhưng không xem lại mình đã sống đẹp lòng Chúa chưa. Họ vin vào những lời hứa trong Kinh Thánh như thể buộc Chúa phải có trách nhiệm đáp ứng những đòi hỏi của họ. Họ quên rằng những lời hứa của Chúa trong Kinh Thánh đều có những điều kiện. Họ không thực hiện những nghĩa vụ về phía họ, nhưng lại muốn (và mè nheo!) Chúa phải thực hiện lời hứa của Ngài. Họ cho rằng khi họ lấy đức tin công bố ra thành lời những gì họ muốn, thì Chúa sẽ đáp ứng lời công bố đó, vì đó là lời Ngài đã hứa. Đối với họ, Chúa trở thành ông Bụt, hoặc là ông thần đèn, có nghĩa vụ phải đáp ứng những yêu cầu, những đòi hỏi, những mong muốn của họ. Họ chỉ cần “lấy đức tin công bố.”
 
Nếu sứ đồ Phao-lô sống lại ngày nay và dạy những gì ông đã dạy trong Tân Ước, có lẽ nhiều người sẽ cho rằng ông lạc hậu. Ông dạy rằng Cơ đốc nhân phải thờ phượng Chúa bằng cả cuộc sống mình, đừng bắt chước thói đời thế gian, đổi mới nếp sống và giá trị sống như là biểu hiện của đổi mới con người bề trong, thì lúc đó mới kinh nghiệm sự tốt lành của Chúa (Rô-ma 12:1-2). Ngày nay thì người ta quá chú trọng rằng thờ phượng là hát, hát là thờ phượng. Vì thế có cảnh một người khi hát thì phiêu phiêu, ngất ngây như thể đang đắm chìm trong sự thăm viếng của Chúa, nhưng khi hết giờ hát đến giờ giảng luận thì cũng chính người đó lấy điện thoại ra nhắn tin hoặc lướt Facebook. Ngay ở trong Hội Thánh, thì đối với họ Lời Chúa vẫn không hấp dẫn bằng Facebook.
 
Ngày nay, nếu sứ đồ Phao-lô giảng dạy, những người theo phong trào Lời Đức Tin (Word of Faith movement) sẽ cười nhạo rằng ông là văn tự, là truyền thống. Phao-lô dạy rằng khi con cái Chúa gặp nan đề thì cầu nguyện.
 
“Hãy nhờ Đức Thánh Linh, thường thường làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin. Hãy dùng sự bền đỗ trọn vẹn mà tỉnh thức về điều đó, và cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ.” (Ê-phê-sô 6:18).
 
“Chớ lo phiền chi hết, nhưng trong mọi sự hãy dùng lời cầu nguyện, nài xin, và sự tạ ơn mà trình các sự cầu xin của mình cho Đức Chúa Trời.” (Phi-líp 4:6).
 
Phong trào Lời Đức Tin thì chủ trương rằng phải công bố ra thành lời những điều mình muốn, rồi Chúa sẽ làm thành những điều ấy. Họ trưng ra những lời hứa của Chúa như một đứa trẻ con ăn vạ cha mẹ mình, bắt cha mẹ phải đáp ứng những điều nó muốn. Như một đứa trẻ không giữ những “điều kiện” về phía mình, như chăm ngoan, học giỏi, vệ sinh, siêng năng, lễ phép, hiếu thảo, nhưng nó nhất mực nằng nì cha mẹ thực hiện lời hứa với nó.
 
Cách đây 30 năm, Cơ đốc nhân tại Việt Nam lo ngại với sự bắt bớ, nhưng cũng có người đã thấy trước rằng, khi sự bắt bớ dịu đi thì cũng đáng lo không kém. Bởi khi đó, những sự dạy dỗ lệch lạc, những tà giáo sẽ du nhập vào Việt Nam cách dễ dàng. Nó sẽ làm cho Cơ đốc giáo bị vẩn đục, và Hội Thánh mất quyền phép. Nỗi lo đó ngày nay đã trở thành sự thật.
 
Hội Thánh ngày nay giàu hơn, đủ phương tiện hơn, nhiều chương trình và tiết mục hơn, nhưng lại ít đi những tấm lòng, những cuộc đời được thay đổi. Hội Thánh ít quyền phép hơn. Nhưng không sao. Đội ngũ lãnh đạo trong Hội Thánh có thể tự tạo được không khí thuộc linh, thiêng liêng trong buổi nhóm bằng âm nhạc và đèn chiếu như vũ trường, cộng với diễn giả khoa tay múa chân nói về sự chữa lành và thịnh vượng. Khi sự kích thích cảm xúc lan truyền từ người này sang người khác trong buổi nhóm, họ gọi đó là “Chúa thăm viếng.” Hội Thánh trong thời Công vụ các sứ đồ đã thay đổi được thế giới vô tín vì đặc tính yêu thương, ban cho. Hội Thánh ngày nay thì chỉ có “quyền phép” trong buổi nhóm – tôi đóng ngoặc kép chữ quyền phép. Các sứ đồ ngày xưa xả thân suốt đời để giảng Tin Lành Cứu Rỗi. Nhiều diễn giả Tin Lành Thịnh Vượng ngày nay thì tham lam vô độ, nhiều người phải ra tòa vì thâm lạm hàng chục triệu đô-la. Mới tuần trước, ở Brasil vừa khánh thành một đền thờ của một mục sư Tin Lành Thịnh Vượng trị giá 300 triệu đô-la, có lẽ đắt tiền nhất thế giới, ở đó người ta xem ông như một vị thần. Ông tự hào rằng đền thờ này có thể thay thế cho đền thờ của Salomon ngày xưa. Gần Việt Nam hơn là Singapore, nhiều thanh niên trong một Hội Thánh nọ quay video clip tôn sùng vị mục sư Tin Lành Thịnh Vượng như một vị thánh, dù rằng ông đang bị truy tố hình sự vì thâm lạm tài chính, lấy tiền ngân quỹ để chắp cánh cho tiếng hát của vợ mình.
 
Hội Thánh ngày nay ít tôn cao Lời Chúa hơn. Nhưng không sao. Đã có những diễn giả khoa tay múa chân kích động hội chúng, cộng với những sứ điệp mà đám đông luôn luôn muốn nghe, như: chữa lành, giàu có, thành công. Khi bạn có hai yếu tố này, bạn có thể khiến bất cứ đám đông nào cũng phát cuồng.
 
Bạn nghe được lời than khóc của sứ đồ Phao-lô không?
 
“Hỡi anh em, hãy bắt chước tôi, lại xem những kẻ ăn ở theo mẫu mực mà anh em thấy trong chúng tôi. Vì tôi đã thường nói điều nầy cho anh em, nay tôi lại khóc mà nói nữa: lắm người có cách ăn ở như là kẻ thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ. Sự cuối cùng của họ là hư mất; họ lấy bụng mình làm chúa mình, và lấy sự xấu hổ của mình làm vinh hiển, chỉ tư tưởng về các việc thế gian mà thôi.” (Phi-líp 3:17-19).
 
Thân ái,
LMĐ.
 

Post Navigation