Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

ÂN ĐIỂN RẺ TIỀN

Thần học gia Bonhoeffer có lẽ là cây bút viết nhiều nhất về chủ đề “Ân điển rẻ tiền.”
———————————-
Ân điển rẻ tiền là thứ ân điển được bày bán ở chợ giống như những thứ vô giá trị. Các thánh lễ, sự tha tội, và sự an ủi từ tôn giáo bị hạ giá, quăng bỏ. Người ta trình bày về ân điển như một kho báu vô tận của Hội Thánh, sẽ ban tặng các phước hạnh với đôi tay rộng tãi, mà không thắc mắc hoặc thay đổi các giới hạn. Ân điển không có giá trả; ân điển không tổn thất gì! Chúng ta thường cho rằng, cái cốt lõi của ân điển là món nợ đã được trả trước rồi; và, vì giá đã được trả rồi, nên mọi sự đều có thể đạt được một cách nhưng không. Vì cớ cái giá là vô hạn, nên khả năng sử dụng và tiêu dùng nó là vô hạn. Ân điển như thế không phải rẻ tiền, thì là gì?
Ân điển rẻ tiền là sự rao giảng việc tha tội mà không cần ăn năn, báp-têm mà không cần kỷ cương hội thánh, tiệc thánh mà không cần niềm tin, sự xóa tội mà không cần tuyên xưng của cá nhân. Ân điển rẻ tiền là thứ ân điển không cần đi theo Chúa Giê-xu, không cần chính Chúa Giê-xu, Đấng đã mang lấy nhục thể và đang sống. Ân điển rẻ tiền là ân điển không cần thập tự giá.
Ân điển cao quí là của báu giấu kín trong ruộng kia, vì nó mà người ta chịu bán mọi thứ mình có. Đó là viên ngọc đắt giá mà nhà thương buôn chịu bán mọi thứ của mình để đổi lấy. Đó là sự cai trị từ Vua Giê-xu, mà người ta chịu móc mắt mình nếu nó khiến thân vấp phạm; đó là sự mời gọi của Đức Chúa Giê-xu Christ, đáp lại đó, các môn đồ đã bỏ lưới lại và đi theo Ngài.
Ân điển cao quí là tin lành cần tìm kiếm lặp đi lặp lại, là món quà cố xin cho được, là cánh cửa phải gõ.
Ân điển như thế là cao quí vì nó kêu gọi chúng ta chạy theo nó, và nó là ân điển bởi vì nó mời gọi chúng ta bước theo Chúa Giê-xu Christ. Nó đắt giá, vì người ta phải trả bằng sự sống mình, và nó là ân điển vì nó ban tặng loài người sự sống chân thật duy nhất. Nó đắt giá vì nó lên án tội lỗi, và nó là ân điển vì nó xưng công bình cho kẻ tội nhân. Trên hết, nó đắt giá vì nó đòi sự sống của Con Đức Chúa Trời làm giá trả: “ngươi đã được mua với giá cao,” và điều gì đắt giá đối với Đức Chúa Trời thì không thể rẻ tiền đối với chúng ta. Trên hết, nó là ân điển bởi vì Đức Chúa Trời đã không tính toán Con của Ngài là yêu dấu, mà bằng lòng phó Con ấy trả giá cho chúng ta được sống. Ân điển cao quí chính là sự nhập thể của Đức Chúa Trời.”
Trích từ Cái giá đi theo Ngài (Dietrich Bonhoeffer).
 
  
 “Cheap grace means grace sold on the market like cheapjacks’ wares. The sacraments, the forgiveness of sin, and the consolations of religion are thrown away at cut prices. Grace is represented as the Church’s inexhaustible treasury, from which she showers blessings with generous hands, without asking questions or fixing limits. Grace without price; grace without cost! The essence of grace, we suppose, is that the account has been paid in advance; and, because it has been paid, everything can be had for nothing. Since the cost was infinite, the possibilities of using and spending it are infinite. What would grace be if it were not cheap?…

Cheap grace is the preaching of forgiveness without requiring repentance, baptism without church discipline, Communion without confession, absolution without personal confession. Cheap grace is grace without discipleship, grace without the cross, grace without Jesus Christ, living and incarnate.

Costly grace is the treasure hidden in the field; for the sake of it a man will go and sell all that he has. It is the pearl of great price to buy which the merchant will sell all his goods. It is the kingly rule of Christ, for whose sake a man will pluck out the eye which causes him to stumble; it is the call of Jesus Christ at which the disciple leaves his nets and follows him.

Costly grace is the gospel which must be sought again and again, the gift which must be asked for, the door at which a man must knock.

Such grace is costly because it calls us to follow, and it is grace because it calls us to follow Jesus Christ. It is costly because it costs a man his life, and it is grace because it gives a man the only true life. It is costly because it condemns sin, and grace because it justifies the sinner. Above all, it is costly because it cost God the life of his Son: “ye were bought at a price,” and what has cost God much cannot be cheap for us. Above all, it is grace because God did not reckon his Son too dear a price to pay for our life, but delivered him up for us. Costly grace is the Incarnation of God.”
Dietrich Bonhoeffer, The Cost of Discipleship

(Ms. Lê Minh Đạt trích dịch)

Romans 9 ( NIV )

1 I speak the truth in Christ–I am not lying, my conscience confirms it in the Holy Spirit– 2 I have great sorrow and unceasing anguish in my heart. 3 For I could wish that I myself were cursed and cut off from Christ for the sake of my brothers, those of my own race, 4 the people of Israel.Theirs is the adoption as sons; theirs the divine glory, the covenants, the receiving of the law, thetemple worship and the promises. 5 Theirs are the patriarchs, and from them is traced the human ancestry of Christ, who is God over all, forever praised! Amen. 6 It is not as though God’s wordhad failed. For not all who are descended from Israel are Israel. 7 Nor because they are his descendants are they all Abraham’s children. On the contrary, “It is through Isaac that your offspring will be reckoned.” 8 In other words, it is not the natural children who are God’s children,but it is the children of the promise who are regarded as Abraham’s offspring. 9 For this was how the promise was stated: “At the appointed time I will return, and Sarah will have a son.” 10 Not only that, but Rebekah’s children had one and the same father, our father Isaac. 11 Yet, before the twins were born or had done anything good or bad–in order that God’s purpose in election might stand: 12 not by works but by him who calls–she was told, “The older will serve the younger.” 13 Just as it is written: “Jacob I loved, but Esau I hated.” 14 What then shall we say? Is God unjust? Not at all! 15 For he says to Moses, “I will have mercy on whom I have mercy, and I will have compassion on whom I have compassion.” 16 It does not, therefore, depend on man’s desire or effort, but on God’s mercy. 17 For the Scripture says to Pharaoh: “I raised you up for this very purpose, that I might display my power in you and that my name might be proclaimed in all the earth.” 18 Therefore God has mercy on whom he wants to have mercy, and he hardens whom he wants to harden. 19 One of you will say to me: “Then why does God still blame us? For who resists his will?” 20 But who are you, O man, to talk back to God? “Shall what is formed say to him who formed it, ‘Why did you make me like this?’ “ 21 Does not the potter have the right to make out of the same lump of clay some pottery for noble purposes and some for common use?22 What if God, choosing to show his wrath and make his power known, bore with great patiencethe objects of his wrath–prepared for destruction? 23 What if he did this to make the riches of his glory known to the objects of his mercy, whom he prepared in advance for glory24 even us, whom he also called, not only from the Jews but also from the Gentiles? 25 As he says in Hosea: “I will call them ‘my people’ who are not my people; and I will call her ‘my loved one’ who is not my loved one,” 26 and, “It will happen that in the very place where it was said to them, ‘You are not my people,’ they will be called ‘sons of the living God.’ “ 27 Isaiah cries out concerning Israel: “Though the number of the Israelites be like the sand by the sea, only the remnant will be saved.28 For the Lord will carry out his sentence on earth with speed and finality.” 29 It is just as Isaiah said previously: “Unless the Lord Almighty had left us descendants, we would have become like Sodom, we would have been like Gomorrah.”Israel’s Unbelief30 What then shall we say? That the Gentiles, who did not pursue righteousness, have obtained it, a righteousness that is by faith; 31 but Israel, who pursued a law of righteousness, has not attained it. 32 Why not? Because they pursued it not by faith but as if it were by works. They stumbled over the “stumbling stone.” 33 As it is written: “See, I lay in Zion a stone that causes men to stumble and a rock that makes them fall, and the one who trusts in him will never be put to shame.” Hôm nay chúng ta tiếp tục nghiên Kinh thánh ở Roma 9, với tinh thần thông qua Grammar, ý tưởng trong lời Chúa được sáng tỏ.
Rôma 9 bày tỏ rằng Đức-Chúa-Trời ban sự cứu rỗi cho dân Israel, tuyển dân của Ngài, cũng như cho dân ngoại chỉ ” Nhờ ân điển bởi đức tin “nhận lảnh là được.
Như vậy ĐCT có bất công với Israel không và tại sao ĐCT khiển trách Israel hay là luật pháp làm cho Israel thất bại?
Let’ s study.
In order to study more easily, we have :
– Vocabulay : ( difficult words in the chapter).
– The revision: easier reference.
– New Grammar in the chapter.I/ VOCABULARY:
1/ adoption mean sonship : (v4) chức phận làm con.
2/ to cease : gián đoạn
uncease is opposite of cease.
unceasing is present participle used as an adjective: liên tục, triền miên…(2)
3/ Covenant ( n ) : giao ước (v4).
4/ Offspring (n) : giòng dỏi (V 6,7,8) descendent (v 29) con cháu.
5/ Remnent (n): phần nhỏ còn lại (v27).
6/ Patriarch ( n): tổ phụ, tổ tiên (v5).
7/To trace (v): truy nguyên (v5).
8/ Ancestry (n) : giòng họ, họ tộc.(v5).
9/ Lump (n): tảng, đống (v21)
( lump of clay: đống đất sét).
10/ Twins(n) con sanh đôi (v11).II/ REVISION: reference
1/ I myself ( v3) : chính tôi
“myself” is emphatic pronoun
( Romans 8).
2/ ” of” is expletive ( hư từ, Romans 2)
– People of Israel: dân Y-sơ-ra -ên. ( v3).
– lump of clay : đống đất sét.
3/ Posessive case : Sở hữu cách. (Romans 2)
– Apraham’s children (7).
– God’s children v(8).
– Rebekah’s children ( 10).
– God’s purpose (11).
3/ In order that = so that : để ( Romans 6,7).
4/ Very ( adj) : chính v(17)(Romans 7)III/ NEW GRAMMAR:
1/ POSSESSIVE PRONOUNS ( Đại từ sở hửu.)+ Romans 9:4” The people of Israel. Theirs is the adoption as sons; theirs divine glory, the covenant, the receiving of the law, the temple worship and the promises.”
In the sentence ” theirs” is possessive pronoun that is the subject of finite verb ” is”
In order to be more clear, we refer to:
+ Jeremiah 44:28
” Yet a small number that escaped the sword shall return out of the land of Egypt to sojourn there, shall know whose words shall stand, mine, or theirs”. ( mine= my words, theirs= their words.)
Mine and theirs are possessive pronouns.
+ Gennis 15:13:
” And he said to Abram, know of a surety that thy seed shall be a stranger in a land that is not theirs, and shall serve them, and they shall afflict them four hundred years”.
theirs= their land.
+ Matthew 5:10:
” Blessed are they which are persecuted for righteousness’s sake for theirs is the kingdom of heaven.”
( Theirs is the kingdom of heaven = The kingdom of heaven is theirs).2/ SUBJUNCTIVE TENSES ( các thì ở bàng thái.)
a/ ” It is not as though God’s words had failed“. (v6)
” had failed” is past perfect subjunctive tense which must be used after conjunction ” As if= as though” : dường như
b/  ” Though the number of the Israelites be the sand by the sea, only the remnant will be saved.” ( v27)
” the finite verb in the subordinate clause ” be” is the present subjunctive which must be used to express a wish, a prayer or a supposedness in the present time. ( lời cầu chúc, lời cầu nguyện hay một sự giả định ở hiện tai.)c/ ” Why not? Because they persused it not by faith but as if it were by works.” ( v32)
” were” is past subjunctive because of conjunction ” as if” before it.
Remarkable note:
Past subjunctive of verb to be is “WERE” for all persons in singular and plural.3/ CAUSATIVE VERB “TO MAKE” ( động từ truyền khiến).
” what if God, choosing to show his wrath and made his power known, bore with great patience the objects of his wrath – prepared for destruction.”( v22)
” made his power known” means God made people know his power .
– If we use the causative verb “make” in passive, the verb of objective complement must be in past participle ( known).
– If in active, the verb objective complement must be bare infinitive .( know).
In Ro 9: 23 the causative verb “make” was used in the same way.In this case we can use causative verb “to have” to replace “make”.

4/ UNLESS ( Conj) : Trừ phiWe can use ” if… not” to replace ” unless”.
“Unless the Lord Almighty had left us descendents, we would have become like Sodom, we would have been like Gomorah” .(v29)
This is a conditional sentence unreal in the past.
So the finite verb in the conditional clause ( mệnh đề điều kiện) must be past subjunctive ( had left) and the one in main clause must be conditional perfect ( would have become, would have been).

Câu trên có thế viết lại với “If…not” như sau:If the Lord Almighty had not left us descendents, we would have become like Sodom, we would have been like Gomorah”.Tham khảo thêm Psalm 127 a.”Unless the Lord builds the house, the builders labour in vain.b.”Unless the Lord watches over the city, the guards stand watch in vain.” (NIV)a. “Unless the Lord builds the house, they labour in vain who build it”.b. “Unless the Lord guards the city, the watchman stay awake in vain”. (NKJV)Bây giờ hãy viết lại hai câu trên với “If…not”.NOTICE:
Trong Rô ma 9 câu 5 chuyển tải một lẻ đạo thuôc Thần học Cơ đốc sâu sắc : Đấng Christ là người , nhưng là Đức Chúa Trời cao cả đáng chúc tụng đời đời.
” Theirs are patriarchs and from them is traced the human ancestry of Christ, who is God over all for ever praised. Amen”
” of whom are the fathers and from whom, according to the flesh, Christ came, who is over all, the eternally blessed God. Amen” ( NKJV).Một vấn đề cần suy nghĩ:Trong buổi tọa đàm (hội thảo) về vấn đề tà giáo của các tôi tớ Chúa tại Tp.HCM ngày 18/11/2014:Có 1 người đặt câu hỏi: “Chúa Giê-xu chết về phần xác, phần hồn có chết không?”Một tôi tớ Chúa trả lời: “Phần xác và phần hồn đều chết và đi vào âm phủ, sau 3 ngày sống lại.”Không thấy ai có ý kiến nào cả!Yên lặng! Chấp nhận?Trước đó tôi có đề cập đến câu Kinh Thánh Sáng thế ký 3:15 để nhắc rằng Chúa Giê-xu  “thuộc giòng dõi người nữ.” “Người sẽ giày đạp đầu mày, mày sẽ cắn gót chân người”*    “And I will put enmity between you and the woman, and the between your offspring and the hers, He will crush your head and you will strike his heel.” (NIV)

*    “And I will make you and the woman hate each other, her offspring and yours will always be enemies. Her offspring will crush your head and you will bite her offspring’s heel.” (GNT)

*    “And I will put enmity between you and the woman and between your seed and her Seed. He shall bruise your head, and you shall bruise His heel.” (NKJV)Hy vọng lời Chúa trong Romans 9, với sự soi sáng của Thánh Linh, chúng ta sẽ hiểu được vấn đề thần học này.

             May God bless us all.

            Ban Biên tập
          ( prepared by Pastor Nguyễn Đức Na) 

Dâng Lời Tạ Ơn Chúa

(Giving Thanks to the Lord)

(1 Sử Ký 16:34)

 “Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài là nhân từ; Sự thương xót Ngài còn đến đời đời.”

(Oh give thanks to the Lord, for he is good; for his steadfast love endures forever!)

I.  Truyền Thống Lễ Tạ Ơn

 Một trong những truyền thống quan trọng của người Hoakỳ ở bên đây, đó là mỗi năm vào ngày thứ Năm, khoãng cuối tháng 11 là lúc họ dành riêng ra để tạ ơn Trời, và gọi là ngày lễ Thanksgiving (lễ Tạ Ơn). Truyền thống này bắt đầu từ khi những người cơ đốc tị nạn, di dân đầu tiên, từ bên Anh Quốc trốn tránh qua vùng đất mới này vì sự bắt bớ đạo, trên chiếc thuyền Mayflower, cặp bến tiểu bang Massachusetts, tìm tự do, vào khoãng năm 1620. Tuy rằng họ đã gặp rất nhiều sự khó khăn, vì mùa màng bị thất bại, thời tiết của mùa Đông gía buốt; nhưng sau một năm họ được ơn Trời ban cho đầy đủ, sung túc, trúng mùa – nào là bắp, lúa, và rau cỏ. Vào mùa Thu của năm 1621, những người di dân này bắt đầu một buổi lễ tạ ơn Trời. Truyền thống này được duy trì, cho đến năm 1941, Quốc Hội Mỹ đã chính thức để dành riêng ra mỗi năm một ngày, vào tháng 11 và gọi là ngày lễ Tạ Ơn.

II. Đạo Làm Người

Thật ra không phải chỉ có nước Mỹ là dân tộc mới có lòng biết ơn mà thôi, nhưng có lẽ hầu hết chúng ta nếu đã “làm người,” thì ai cũng phải tự nhiên nhận biết điều này. Chính những người Việt-nam chúng ta cũng có những câu ca dao, tục nghữ dạy dỗ về lòng biết ơn như sau: “Cây có cội, nước có nguồn; ăn trái nhớ kẻ trồng cây…” Chúng ta ăn trái ngon thì phải biết ơn những người đã trồng cây ra trái cho mình ăn, còn uống nước mát thì phải nhớ Nguồn từ đâu đến, để biết nhớ ơn. Khi mới qua Mỹ, hai chữ quan trọng mà người đã sponsor gia đình chúng tôi bên Hawaii dạy chúng tôi phải nhớ và thường dùng luôn để được thành công, đó là 2 chữ “please” và “Thank you.” Tiếc thay ngày nay bên nước Việt-nam chúng ta thì chữ “Thank you” hình như không còn nữa. Câu chuyện làm chứng của một người lâu năm rồi mới về thăm quê hương Việt-nam; anh đi vào một nhà hàng ăn và khi cô waitress đem đồ ăn ra thì anh đáp lời “cám ơn.” Cô thiếu nữ nhìn trừng người đàn ông này và nói: “Chắc chắn ông phải là việt kiều, phải không?” Người đàn ông ngạc nhiên hỏi lại: “Vâng! Nhưng tại sao cô biết?” Cô waitress trả lời: “Lý do là ở đây chúng tôi không dùng chữ ‘cám ơn’ nữa!” Lòng biết ơn phải là điều tự nhiên của “đạo làm người,” giống như là những lý đạo tự nhiên dậy chúng ta phải biết:

a) Nhớ ơn công lao sanh thành nuôi dưỡng của cha mẹmình, mà biết hiếu thảo kính mến người.

b) Nhớ ơn công lao dạy dỗ của thầy cô, đã bỏ công uốn nắn chúng ta trở nên những người tốt.

c) Bên Mỹ này, trong tháng 11, người ta có ngày lễVeterans, với mục đích để nhớ ơn tất cả nhữngngười chiến sĩđã tử vong, hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ sự tự do cho mỗi người chúng ta đang hưởng ngày hôm nay. Chúng ta là loài người, là loài được dựng nên khác biệt và cao hơnvới tất cả các loài súc vật ở một chỗ, đó là chúng ta không phải chỉ biết ơn nhau mà thôi, nhưng còn phải biết “hướng thượng,” và nhớ ơn Trời nữa. Đúng y như ngạn ngữ của người Thổ Nhĩ Kỳ có đặt thành một câu hỏi như sau: “Loài vật biết ơn tại sao con người lại không?”

II. Nhớ Ơn Đấng Sáng Tạo

Chúng ta cần phải nhớ ơn Trời như thế nào? Đề nghị có 3 điều quí vị cần nhớ ơn Ngài:

1) Nhớ ơn Trời vì Ngài là Đấng Tạo Hóacủa chúng ta, nghĩa là bởi Ngài mà chúng ta có sự sống. Tuy rằng cha mẹ chúng ta đã sanh chúng ta ra, nhưng nếu đi ngược lại quá khứ thì phải biết rằng chính Đức Chúa Trời đã dựng nên và ban cho con người sự sống từ lúc ban đầu. Sáng Thế Ký 1:1 có chép – “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.” (In the beginning God (mighty Elohim) created the heavens and the earth.) Còn trong Sáng Thế Ký 1:26-27 chép rõ chính Ngài đã dựng nên loài người – (Then God said, “Let us make man in our image, in our likeness, and let them rule over the fish of the sea and the birds of the air, over the livestock, over all the earth, and over all the creatures that move along the ground.” So God created man in his own image, in the image of God he created him; male and female he created them.)“Đức Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm nên loài người như hình ta và theo tượng ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. Đức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Đức Chúa Trời; Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” Nếu Đức Chúa Trời đã không dựng nên loài người từ lúc ban đầu thì tôi cũng không thể đứng đây để nói, và bạn cũng không có ngồi đó để nghe được.Chúng ta nhận biết có một Đấng Tạo Hóa đã ban cho loài người sự sống mà biết tạ ơn Ngài, vì theo định luật căn bản “Gieo và gặt,” có nghĩa là không có cái gì tự nhiên mà có được? Chiếc xe mới tanh trước mắt quí vị với những features hay thì không thể nào theo thời gian từ một đống sắt vụn mà thành ra được, phải không? Huống gì thân thể tinh vi của loài người. Sự sáng tạo của mọi vật xung quanh chứng tỏ cho mọi người biết về sự hiện hữucủa Đấng Tạo Hóa đã dựng nên muôn laòi. Nhìn lên trên, chúng ta thấy một bầu không trung vĩ đại với các vì sao lấp lánh, thì không ai có thể từ chối chẳng có một Đấng Sáng Tạo nào hết.

2) Đấng Tạo Hóa không chỉ ban cho chúng ta sự sống mà thôi, nhưng Ngài còn lạ lùng ban cho chúng ta sức sống và đang duy trì sự sống của mọi loài trên trái đất này nữa. Theo khoa học cho biết, chu vi của trái đất là khoãng 24,900 miles, và trái đất tự quay xung quanh nó 24 tiếng mỗi vòng (mỗi ngày). Nếu chia chu vi ra 24 tiếng thì tốc độ của quả địa cầu này đang tự quay lơ lửng trong không gian với tốc độ khoãng 1,000 mile mỗi giờ. Đây thật là một điều lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng của con người về sự sáng tạo này. Chưa hết, theo các nhà bác học cho biết, quả đất chúng ta đang sống ở trên, nó đang quay xung quanh mặt trời trong không gian vĩ đại… với tốc độ khoãng 67,000 mile mỗi giờ. Ai đang làm nó quay, ai đang giữ nó trong chu kỳ lạ lùng này – phải có một Đấng Sáng Tạo vĩ đại đã làm nên. Ánh sáng ban mai từ đâu chiếu xuống hoài mà không hết năng lực, để sưởi ấm đời sống của chúng ta mỗi ngày? Từ mặt trời trên cao rọi xuống, chứ đâu phải chính phủ Mỹ cho chúng ta đâu? Không khí trong lành chúng ta ở đâu có để thở mỗi ngày vậy, mà không tốn một đồng xu nào? Do “ông Trời” ban cho, chứ đâu phải từ Tổng Thống Obama cung cấp cho đâu? Bạn hãy thử nín thở vài phút thì ý thức được sự ban cho này quan trọng như thế nào cho cuộc sống của chính mình.Tại sao tôm cá ở ngàoi biển không bao giờ hết được? Ai đang nuôi nó cho chúng ta hưởng? Cácmỏ dầu hỏa ở đâu ra, ai chế ra nó? Tất cả do Đấng Sáng Tạo ban cho mà thôi để duy trì sự sống của chúng ta và mọi loài. Cho nên Kinh Thánh trongThi Thiên 14:1a chép rõ lẽ thật gì? (The fool says in his heart, “There is no God.”) “Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng: chẳng có Đức Chúa Trời.”

Có điều gì chúng ta tự có để sống được không?  Thích câu chuyện nghụ ngôn về một số những nhà bác học vô thần đã có lần thách thức với Chúa rằng họ không cần Ngài thì cũng tạo dựng nên con người trong những phòng thí nghiệm được. Chúa trả lời: “Ok! Thì các ngươi cứ thử làm xem.” Các nhà bác học bèn đi ra ngoài đào một đống đất để đem vào phòng thí nghiệm chế tạo ra một thân thể của loài người; Nhưng vừa khi họ múc đất xong để sửa sọan làm thí nghiệm thì Chúa phán: “Các ngươi phải bỏ lại đất đó, không được dùng nó, vì đất cũng thuộc của Ta; Hãy đi lấy những gì mình tự tạo ra mà thí nghiệm.”  Sự sống và sức sống của mọi loài là do Chúa ban cho và duy trì; và nếu ý thức được như vậy thì điều tự nhiên chúng ta cũng phải biết ơn Ngài, phải không?

III. Nhớ Ơn Đấng Cứu Chuộc

Nhớ ơn Trời vì Ngài ban cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc trong Con Ngài là Cứu Chúa Giê-su, mà nhờ Con ấy chúng ta còn được sự sống đời đờinữa. Tin Lành Giăng 3:16 có chép về ơn này –(“For God so loved the world that he gave his one and only Son, that whoever believes in him shall not perish but have eternal life.) “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” Vài điều ghi chú để chúng ta nhận thức được ân huệ lạ lùng này.

1) Con người được dựng nên giống hình ảnhcủa Đức Chúa Trời, nghĩa là chúng ta có linh hồn bất diệt, để có thể tương giao với Chúa đời đời. Như vậy cũng có nghĩa “chết không phải là hết,” nhưng phải trở về với Cội Nguồn của mình.

2) Nhưng khổ một nỗi đó là vì tổ phụ của loài người đã một lần phạm tội nghịch cùng Chúa trong vườn sự sống, cho nên sau cái chết chúng ta phải chịu sự phán xét, mà không về được nước của Đức Chúa Trời, nhưng sẽ đi vào chốn hư mất. Hêbêrơ 9:27 – (And just as it is appointed for man to die once, and after that comes judgment) “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét.” Định mệnh của cõi đời sau cho loài người là sự chết trong hồ lửa địa ngục, xa cách khỏi Đấng Tạo Hóa đời đời. Rõ ràng trong Rôma 6:23a nói đến sự công bằng này – (For the wages of sin is death) “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết.”

3) Vì Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương, không phải chỉ ban cho chúng ta sự sống và sức sống ở đời này mà thôi, nhưng Ngài còn muốn ban cho chúng ta mỗi người sự sống đời đời với Ngài trong cõi đời sau nữa, cho nên Chúa đã cung cấp một chương trình cứu chuộc chúng ta ra khỏi sự phán xét của tội lỗi, bằng cách đã hy sinh và sai chính Cứu Chúa Giê-su, Con Ngài, đến thế gian chịu chết chuộc tội thay thế cho chúng ta ở trên cây thập tự gía. Sự chết của Chúa Giê-su là để trả trọn “tiền công” của tội lỗi của chúng ta một cách công bằng, để mỗi kẻ tin thoát được địa ngục, nhưng được vào nước thiên đàng của Chúa một ngày.

Trong chương trình học sách Tin Lành Giăng mỗi tối thứ Tư, tuần qua chúng tôi học về đời sống của ông Giăng Báptít là người được Đức Chúa Trời biệt riêng ra để dọn đường cho Chúa Giê-su đến, bằng cách giảng về sự ăn năn tội, làm báptêm cho nhiều người và giới thiệu về Chúa Giê-su. Một trong những danh xưng lạ lùng Giăng Báptít giới thiệu Chúa Giê-su đó là danh “Chiên Con.” Giăng 1:29 – (The next day he saw Jesus coming toward him, and said, “Behold, the Lamb of God, who takes away the sin of the world!) “Qua ngày sau, Giăng thấy Đức Chúa Jêsus đến cùng mình, thì nói rằng: Kìa, Chiên con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi.” Đối với người Do Thái là dân tộc mà từ đó Chúa Giê-su đã đến thì họ hiểu rõ về danh xưng “Chiên Con” là gì.

  1. a) Thứ nhất là vì họ nhớ đến lễ Vượt Quangày xưa đã xảy ra khoãng 1,000 năm trước khi Chúa Giê-su giáng sinh, khi họ được Đức Chúa Trời giải cứu ra khỏi ách nô lệ của người Ai Cập. Trong đêm trước khi họ đi ra khỏi nước Ai Cập thì có những con chiênphải bị giết làm thịt ăn cho họ, nhưng nhất là để có máu bôi trên cửa; vì trong đêm đó đã có một thần dữ đi qua thấy nhà nào có máu bôi trên cửa thì không vào hãm hại con trai đầu lòng của họ, nhưng sẽ “vượt qua.” Như vậy khi nghe đến danh xưng của Chúa Giê-su là Chiên Con, người Do Thái nhớ dấu hiệu của máu chiên bôi trên cửa, mà nhờ đó tổ phụ họ được thoát khỏi tai họa trong ngày ấy, và dân tộc họ còn tồn tại cho đến ngày nay.
  1. b) Thứ hai, đối với người Do Thái, họ thường dùng những con chiên làm của tế lễtrong nhữngnghi lễ xá tội mỗi ngày. Mỗi ngày 2 lần, ban sáng thầy tế lễ giết một con chiên, ban chiều giết một con nữa làm của tế lễ, biểu hiệu cho sự chuộc tội thay cho dân sự Chúa. Nếu tính thì chắc có trên cả 1 triệu con chiên đã bị giết từ khi nghi lễ này bắt đầu được thiết lập.
  1. c) Cho đến khi Chúa Giê-su giáng sinh và rồi chịu chết, bị đóng đinh trên cây thập tự gía đổ huyết, bị giết như hình bóng của những “con chiên” ngày xưa, để làm của tế lễtrọn vẹn, một lần là đủ cả mà chuộc tội cho cả nhân loại.
  1. d) Ý tưởng này cũng không khó hiểu cho thời đại của chúng ta, như việc nếu chúng ta mắc nợthì phải trả, có tội thì phải bị phạt, vì đó là chuyện công bình, phải có mà thôi. Đức Chúa Trời đã vì yêu thương chúng ta mà Ngài trả thế mọi nợ tội lỗi của mỗi chúng ta, trong huyết của Con Ngài, vì tự chúng ta không thể trả nổi. Chúa Giê-su chết để trả mọi “tiền công” của tội lỗi chúng ta, hầu chúng ta có đủ điều kiện của sự công bình và thánh khiết, để có thể sống đời đời với Đức Chúa Trời trong cõi đời sau.

Chúng ta phải biết cảm tạ Chúa ban cho chúng ta ân điển, ơn phước, ân huệ lạ lùng này một cách dễ dàng, không đòi một gía nào phải trả, không buộc chúng ta phải làm một công đức nào, nhưng chỉ tin Con Ngài mà thôi. Câu chuyện về một người tù trưởng da đỏ sau khi tin Chúa thì có một người đến hỏi ông giải thích cho biết “ân điển” của Chúa ban cho là gì. Ông tù trưởng da đỏ móc trong túi ra một con sâu nhỏ; ông bỏ nó trên giữa một đống lá khô, rồi mồi lửa đốt xung quanh những lá khô đó; Nhưng trước khi lửa nhém cháy đến con sâu thì ông nhỏ nhẹ thò tay vào giữa đám lửa mà bốc con sâu thoát ra khỏi đám lửa cháy đó, và rồi ông nói: “Con sâu đó chính là tôi được Chúa cứu ra khỏi quyền lực của sự chết và đó là ân điển lạ lùng của Chúa.”  Khi chúng ta hết thảy đáng bịthiêu đốt đời đời trong lửa địa ngục xứng với tội lỗi của mình thì Chúa Giê-su, Con Đức Chúa Trời đã đến cứu chúng ta ra khỏi sự phán xét này, bằng cách hy sinh chính mạng sống của mình ở trên cây thập tự gía, chết thế cho chúng ta. Vào quốc tịch Mỹ là một hành trình rất khó và lâu dài đòi hỏi nhiều điều kiện: Bạn phải có hạnh kiểm tốt tối thiểu 5 năm, phải học luật, làm đơn, thi đậu, và cuối cùng tuyên thệ; nhưng vào quốc tịch trời thì chỉ tin Cứu Chúa Giê-su mà thôi – dễ như vậy mà bạn chưa tin nhận thì trong ngày tận thế chúng ta còn có lý do gì bào chữa cho sự phán xét đời đời của mình chăng?Nếu chúng ta nhận thức được lẽ thật này thì điều tự nhiên chúng ta phải biết ơn Chúa, vì Ngài đã ban cho chúng ta ân điển lạ lùng này trong Cứu Chúa Giê-su.

IV. Nhớ Ơn Chúa là Vua sẽ Ban cho Chúng Ta Cơ Nghiệp Đời Đời

Một điều nữa chúng ta phải cảm tạ Chúa vì Ngài là vị Vua của muôn vua, Chúa của muôn Chúa, sẽ trở lại một ngày để ban cho chúng ta cơ nghiệp đời đời là nước thiên đàng. Khi nói đến Vua, nghĩa là nói đến một vương quốc. Chúa là Vua nghĩa là Ngài sẽ ban cho mọi kẻ tin vương quốc của Ngài, đó chính là nước thiên đàng cho chúng ta hưởng một ngày, thay vì đi vào địa ngục. Vài ý tưởng về nước thiên đàng Chúa hứa ban cho mọi kẻ tin:

1) Thiên đàng là một thế giới mới không còn một sự đau đớn, khổ sở nào nữa. Khải Huyền 21:3-4 hé mở cho chúng ta thấy rõ điều này: (And I heard a loud voice from the throne saying, “Behold, the dwelling place of God is with man. He will dwell with them, and they will be his people, and God himself will be with them as their God. 4 He will wipe away every tear from their eyes, and death shall be no more, neither shall there be mourning, nor crying, nor pain anymore, for the former things have passed away.”) “Tôi (sứ đồ Giăng) nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng. 4 Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi.” Một điều chắc chắn chúng ta không một ai sẽ còn cần Obamacare nữa ở trên thiên đàng, vì Đức Chúa Trời sẽ ban cho mọi kẻ tin có một thân thể mới, chẳng còn bị hư nát, đau ốm, gìa nua, bệnh tật nữa, để hưởng nước thiên đàng của Ngài đời đời.

2) Thiên đàng là chỗ sẽ không còn mộtquyền lực của tội ác nào nữa. Khải Huyền 21:27chép rõ những ai sẽ được ở trong nước thiên đàng –(But nothing unclean will ever enter it, nor anyone who does what is detestable or false, but only those who are written in the Lamb’s book of life.) “kẻ ô uế, người làm điều gớm ghiếc và nói dối không hề được vào thành (trời mới, đất mới); nhưng chỉ có những kẻ đã biên tên trong sách sự sống của Chiên Con.” Vì chỗ đó có Chúa tể trị hoàn toàn và những kẻ ác, satan, ma quỉ đều đã bị quăng vào hồ lửa địa ngục đời đời rồi. Điều gì bạn ghét nhất? Có lẽ hối lộ, dối trá, lường gạt, bất công… chắc chắn sẽ không còn nữa ở trong nước thiên đàng của Đức Chúa Trời.

3) Chúng ta sẽ có mối tương giao trực tiếp (mặt đối mặt) với Chúa và cùng tể trị với Ngài.Khải Huyền 22:1-5 – (Then the angel showed me the river of the water of life, bright as crystal, flowing from the throne of God and of the Lamb 2 through the middle of the street of the city; also, on either side of the river, the tree of life with its twelve kinds of fruit, yielding its fruit each month. The leaves of the tree were for the healing of the nations. 3 No longer will there be anything accursed, but the throne of God and of the Lamb will be in it, and his servants will worship him. 4 They will see his face, and his name will be on their foreheads. 5 And night will be no more. They will need no light of lamp or sun, for the Lord God will be their light, and they will reign forever and ever.)“Thiên sứ chỉ cho tôi xem sông nước sự sống, trong như lưu ly, từ ngôi Đức Chúa Trời và Chiên Con chảy ra. 2 Ở giữa phố thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mười hai mùa, mỗi tháng một lần ra trái; và những lá cây đó dùng để chữa lành cho các dân. 3 Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa; ngôi của Đức Chúa Trời và Chiên Con sẽ ở trong thành; các tôi tớ Ngài sẽ hầu hạ Ngài; 4 chúng sẽ được thấy mặt Chúa, và danh Chúa sẽ ở trên trán mình. Đêm không còn có nữa, 5 và chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ soi sáng cho; và chúng sẽ trị vì đời đời.” Có sông nước sự sống, cây sự sống chính là Ngài, sẽ ban cho chúng ta sức sống đời đời để cùng tể trị với Chúa.

Thiên đàng là nơi mà Chúa muốn loài người hưởng, vì đó chính là mục tiêu tại sao Ngài dựng nên loài người chúng ta từ lúc ban đầu. Thiên đàng tốt hơn địa ngục, là nơi tối tăm, có hồ lửa cháy không hề tắt, nghiến rằng đau đớn, và chỗ sâu bọ không hề chết. Bạn có bao giờ đi đổ rác không và nhìn và thùng rác thấy những con sâu và ngửi mùi hôi? Thiên đàng hay địa ngục là tùy theo sự chọn lựa của bạn mà thôi, vì “con nhà ai sẽ về nhà nấy.” Nếu Chúa ban cho không, gởi người đến mời gọi chúng ta nhận, nhưng chúng ta cứng lòng không chịu nhận thì hậu qủa là bởi vì ai trong ngày tận thế? Hãy mở lòng nhận tin Chúa Giê-su, nhận nước thiên đàng và hết lòng cảm tạ Ngài.

V. Bày Tỏ Lòng Biết Ơn

Hai điều căn bản chúng ta nên thực hành để bày tỏ lòng biết ơn Chúa:

1) Sự thờ phượng Chúa là điều Ngài rất thích. Chúa không cần một thứ gì ở nơi chúng ta, vì Kinh Thánh Thi Thiên 24:1 chép – (The earth is the Lord’s and the fullness thereof, the world and those who dwell therein,) “Đất và muôn vật trên đất, Thế gian và những kẻ ở trong đó, đều thuộc về Đức Giê-hô-va.” Chuyện về cháu Sam có lần muốn lấy tiền mình có ra bao má nó đi ăn trong ngày sinh nhật của má nó, nhưng cháu chỉ có 5 đồng bạc mà thôi. Chúng ta có gì đủ để “bao” cho Chúa, trả công cho Ngài không? Nhưng điều Chúa thích ở chúng ta, đó là sự thờ phượng Ngài với tâm thần thật thà và hết lòng. Êphêsô 5:19-20 – (Speak to one another with psalms, hymns and spiritual songs. Sing and make music in your heart to the Lord, always giving thanks to God the Father for everything, in the name of our Lord Jesus Christ.)“Hãy lấy ca vịnh, thơ thánh, và bài hát thiêng liêng mà đối đáp cùng nhau, và hết lòng hát mừng ngợi khen Chúa. Hãy thường thường nhân danh Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, vì mọi sự tạ ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta.”

  1. a) Khi chúng ta hát ca ngợi và thờ phượng Ngài chính là lúc chúng ta tôn cao danh Chúa, bày tỏ sự vui mừngcủa mình có trong Chúa, và cảm tạ Ngài với tất cả những ơn phước mà Ngài đã ban cho chúng ta trong Con Ngài là Cứu Chúa Giê-su Christ. Chẳng hạn như tác gỉa trong 1 Sử Ký 16:34đã ngợi khen Chúa bằng cách tuyên bố gì về Chúa của mình? “Hãy cảm tạ Đức Giê-hô-va, vì Ngài lànhân từ; Sự thương xót Ngài còn đến đời đời.”(Oh give thanks to the Lord, for he is good; for his steadfast love endures forever!)
  1. b) Trong sự thờ phượng, chúng ta cũng kể ranhững gì Chúa đã làm cho mình. Tác gỉa Thi Thiên 46:1kể ra gì về Đức Chúa Trời của mình? (God is our refuge and strength, an ever-present help in trouble.) “Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân.” Mỗi khi kẻ thù tấn công chúng ta, mình có chỗ nương náu vững chắc. Thi Thiên 118:6 – (The LORD is with me; I will not be afraid. What can mere mortals do to me?) “Đức Giê-hô-va binh vựctôi, tôi chẳng sợ; Loài người sẽ làm chi tôi?” Mỗi lần quỉ satan lên án tội lỗi của chúng ta mà mình đã ăn năn, là mỗi lần Chúa Giê-su lại bênh vực cho chúng ta bằng chính huyết của Ngài. Chúng ta thờ phượng Chúa đẹp lòng bằng cách hát những bài ca ngợi khen Chúa với cả tấm lòng của mình, và lớn tiếng khoe những điều lạ lùng Ngài làm cho chính mình. Ai thật sự biết ơn Chúa sẽ không bao giờ xem thường giờ nhóm lại thờ phượng Chúa, nhưng sẽ chú tâm, để ý và hết lòng ngợi khen Ngài trong ngày thánh mỗi tuần.

2) Sự dâng hiến đời sống của mình để phụng sự Chúa. Một điều nữa chúng ta có thể làm để bày tỏ lòng biết ơn Chúa thực tế đó là dâng trọn đời sống của mình để hầu việc Ngài.  Rôma 12:1-2sứ đồ Phaolô nhắc chúng ta điều gì – (I appeal to you therefore, brothers, by the mercies of God, to present your bodies as a living sacrifice, holy and acceptable to God, which is your spiritual worship. 2 Do not be conformed to this world, but be transformed by the renewal of your mind, that by testing you may discern what is the will of God, what is good and acceptable and perfect.) “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em. 2 Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào.”Câu chuyện về một tù trưởng da đỏ vừa mới tin Chúa xong và nhà giáo sĩ khuyên ông hãy dâng đời sống mình cho Chúa. Ông liền chạy vào lấy ra cái cung quí của mình mà dâng cho Chúa, nhưng nhà giáo sĩ lắc đầu. Ông lại chạy vào lần nữa đem ravòng đeo đầu làm bởi lông chim đại bàng, vị giáo sĩ vẫn lắc đầu. Ông chạy ra sân dẫn con ngựa bạchquí và nói muốn dâng cho Chúa, vị giáo sĩ vẫn lắc đầu. Cuối cùng, ông thốt lên: “Thôi tôi biết rồi, món quà Chúa Giê-su muốn nhất chính là đời sống của mình để phụng sự Chúa, để Chúa xử dụng đem cả bộ lạc mình đến biết Ngài.” Vị gíao sĩ gật đầu thỏa vui. Thực tế của người biết ơn Chúa là luôn muốn tìm kiếý muốn tốt lành của Chúa cho mình và vâng lời làm theo. Ý muốn tốt lành của Chúa có chép rõ trong Kinh Thánh qua những mạng lệnh của Ngài. Ai yêu mến Chúa thật thì yêu mến học lời Kinh Thánh, tìm kiếm xem những mạng lệnh của Chúa là gì, và luôn cố gắng làm theo đúng thái độ, là người thật sự biết bày tỏ lòng biết ơn Ngài.

Nguyện xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết ơn Ngài vì chính Chúa là Đấng Sáng Tạo ban cho chúng ta sự sống, chính Chúa đã ban cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc, và cũng chính Ngài là Vua sẽ ban cho mọi kẻ tin cơ nghiệp nước thiên đàng, để chúng ta biết bày tỏ lòng biết ơn Chúa qua sự thờ phượng và vâng giữ các điều răn của Chúa luôn. Thành thật cầu chúc mọi người hưởng được một mùa lễ Cảm Tạ an lành, trong ân điển của Cứu Chúa Giê-su, Chúa chúng ta!

———- Lời Mời Gọi

Nhà văn hào người Pháp tên J.M Massieu có lần nói: “Tri ân là trí nhớ của con tim.” Bạn có trí khôn để nhận biết có Đấng Sáng Tạo không? Bạn có trái tim để cảm nhận sự yêu thương của Ngài đã và đang ban cho bạn sự sống, và sức sống mỗi ngày không?  Hơn nữa, bạn có nhận thức món quà ân điển mà Đức Chúa Trời đã ban cho bạn qua Con Ngài là Cứu Chúa Giê-su, từ trời giáng thế để chịu chết chuộc tội cho bạn không, để bạn có được sự sống đời đời nữa? Thanksgiving không phải là cơ hội để được ăn “gà tây,” chen chúc đi chợ “black Friday,” xem football, shopping, kể cả dự trại, nhưng là để lắng lòng đếm các phước lành Chúa mà biết ơn Ngài. Ơn lớn nhất như sứ đồ Phaolô đã nói trong 2 Côrinhtô 9:15 đó là – “Thanks be to God for his indescribable gift!” (Tạ ơn Đức Chúa Trời, vì sự ban cho của Ngài không xiết kể!) Sự ban cho chính là Cứu Chúa Giê-su đã đến chịu chết trên cây thập tự gía, đổ huyết để chuộc tội cho mỗi chúng ta.

Điều gì hay nhất để bạn làm trong mùa lễ Tạ ơn này? Ấy chính là mở lòng nhận sự ban cho của món quà quí gía này cho chính mình và biết ơn Ngài. Có ai muốn được hướng dẫn cầu nguyện để tiếp nhận Cứu Chúa Giê-su sáng hôm nay không?

—————-

Cho con cái Chúa thì sao? Chúng ta có đang sống quá bận rộn bon chen trong một thế giới vật chất, như những người trần thế… chỉ biết lợi dụng mùa lễ Tạ Ơn trong ngày thứ Sáu “Black Friday”… để mong mua được những món hàng đại hạ giá không… hay là dành nhiều thì giờ cảm tạ Chúa về những gì Ngài đã làm cho mình, cho gia đình mình và cho Hội Thánh của Chúa? Điều gì đẹp nhất để chúng ta “giving thanks to God?” Ấy chính là sự thờ phượng phải lẽ và đời sống của mình để hầu việc Chúa. Chúng ta sẽ bày tỏ thực tế tấm lòng biết ơn Chúa như thế nào… có sẽ hứa nguyện hết lòng trong sự học lời Chúa, tĩnh tâm mỗi ngày, hết lòng trong sự nhóm lại thờ phượng Chúa mỗi tuần, sự dâng hiến 1/10, và hết lòng hầu việc Chúa trong sự rộng rãi giúp đỡ những người thiếu thốn hơn mình không? Cầu xin Chúa Thánh Linh biến đổi hết thảy đời sống của mỗi người chúng ta, làm thành những của lễ thánh và sống, dâng lên bày tỏ lòng biết ơn Ngài mỗi ngày!

 

Giving Thanks to God

(1 Chronicles 16:34)

 “Oh give thanks to the Lord, for he is good; for his steadfast love endures forever!”

 The month of November reminds us the tradition of Thanksgiving holiday. Showing gratitude to those who have blessed us is the natural expression of the heart. As human is created higher than animals, we also know to give thanks to God. There are at least three reasons we should give thanks to the Lord. First, God is our Creator Who gives us life. One cannot begin to give thanks to God without first recognizes God’s existence through the creation and the wonderful life cycles. Secondly, we give thanks to God for the Savior Jesus Who came from heaven and died on the cross to pay for the wages of our sins. Jesus is the Lamb of God Who is the perfect and ultimate sacrifice for our atonement. As a result, all who believe will inherit the eternal life. Thirdly, we give thanks to God because He is our King Who has promised to give us His kingdom in heaven. This new kingdom will have no more tears, suffering, or uncleans, but the river of life and the tree of life that will sustain us to enjoy God forever. This is absolutely a better choice than spending our eternity in the lake of fire.

 

There are at least two things we can do to express our gratitude to God. First, sincerelyworship Him alone by proclaiming Who He is and bragging about the blessings He has given us. Secondly, offer our life as a living sacrifice by seeking His wills and walk in them. May you have a blessed Thanksgiving holiday to remember counting God’s blessings and giving thanks to the Lord!

Mục sư Nguyễn Trọng Vinh

 

Sự Hiệp Thông Cầu Nguyện

prayer-jesus

Mác 14:32-42 (BTT)

Kế đó, đi đến một nơi kia, gọi là Ghết-sê-ma-nê, Đức Chúa Jêsus phán cùng môn đồ rằng: Các ngươi hãy ngồi đây, đợi ta cầu nguyện. 33 Ngài bèn đem Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đi, thì Ngài khởi sự kinh hãi và sầu não. 34 Ngài phán cùng ba người rằng: Linh-hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi hãy ở đây, và tỉnh thức. 35 Rồi Ngài đi một đỗi xa hơn, sấp mình xuống đất mà cầu nguyện rằng: nếu có thể được, xin giờ nầy qua khỏi mình. 36 Ngài rằng: A-ba lạy Cha, mọi việc Cha làm được cả; xin Cha cất chén nầy khỏi con; nhưng không theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn. 37 Rồi Ngài trở lại, thấy ba người ngủ; bèn phán cùng Phi-e-rơ rằng: Si-môn, ngủ ư! Ngươi không thức được một giờ sao? 38 Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để các ngươi khỏi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối. 39 Ngài lại đi lần nữa, và cầu nguyện, y như lời trước. 40 Ngài trở lại, thấy môn đồ còn ngủ, vì con mắt đã đừ quá; và không biết trả lời cùng Ngài thể nào. 41 Ngài trở lại lần thứ ba, phán cùng môn đồ rằng: Bây giờ các ngươi ngủ và nghỉ ngơi ư! thôi, giờ đã tới rồi; nầy, Con người hầu bị nộp trong tay kẻ có tội. 42 Hãy chờ dậy, đi hè; kìa, đứa phản ta đã đến gần.

Mark 14:32-42 (NIV)

32 They went to a place called Gethsemane, and Jesus said to his disciples, “Sit here while I pray.” 33 He took Peter, James and John along with him, and he began to be deeply distressed and troubled. 34 “My soul is overwhelmed with sorrow to the point of death,” he said to them.“Stay here and keep watch.” 35 Going a little farther, he fell to the ground and prayed that if possible the hour might pass from him. 36 “Abba”, Father,” he said, “everything is possible for you. Take this cup from me. Yet not what I will, but what you will.” 37 Then he returned to his disciples and found them sleeping. “Simon,” he said to Peter, “are you asleep? Could you not keep watch for one hour? 38 Watch and pray so that you will not fall into temptation. The spirit is willing, but the body is weak.” 39 Once more he went away and prayed the same thing. 40 When he came back, he again found them sleeping, because their eyes were heavy. They did not know what to say to him. 41 Returning the third time, he said to them, “Are you still sleeping and resting? Enough! The hour has come. Look, the Son of Man is betrayed into the hands of sinners.42 Rise! Let us go! Here comes my betrayer!”

Qua phân đoạn KT nay,   ta có được những dạy dỗ sau đây trong sự hiệp thông cầu nguyện:

1/ TRƯỚC NGHỊCH CẢNH, GIAN TRUÂN.
Chúa Jesus trước khi chịu hình trên thập tự giá, Ngài đi vào vườn Ghết-sê-ma-nê để cầu nguyện. Ngài biết rằng đây là nhục hình Ngài phải mang để Đức Chúa Trời chất hết tội lỗi của chúng ta trên Ngài và chính thân thể Ngài là của lễ chuộc tội cho cả nhân loại. Nhưng Ngài vẫn phải tìm một nơi thích hợp để cầu nguyện với Cha Ngài, để không bất cứ hoàn cảnh nào dù là khách quan hay chủ quan có thể ngăn trở chương trình của Đức-Chúa-Trời.
2/ CHỌN LỰA NGƯỜI.
Trong 12 sứ đồ thì Giu-đa đã tách tẻ đi theo con đường phản bôi vì tham tiền (1), Còn lại 11 sứ đồ Chúa chọn 3 người là Phi-ơ-rơ, Gia-cơ và Giăng là 3 sứ đồ thân thương gần gủi Chúa nhất đi với Ngài vào nơi yên tỉnh để cầu nguyện. Ngài tâm sự với họ rằng:” Linh hồn ta buồn rầu lắm cho đến chết; các ngươi hãy ở đây, và tỉnh thức.Thật sự khi cầu nguyện cho những vấn đề hệ trọng mà có người ” chí cốt” hiệp thông thì tăng cường sức lực và linh nghiệm nhiều.
3/ XÁC TÍN NIỀM TIN

    Trước khi cầu nguyện, Ngài gọi A-ba là cha và xác tín rằng Cha Ngài là Đấng Toàn Năng, không có việc gì mà Ngài Không làm được” Nothing is impossible for him.” Rồi Ngài trình dâng vấn đề nếu được thì xin cất chén này khỏi con. Ngài kêu xin như vậy là vì Ngài là ” giòng dõi người nữ”, mang hình hài xác thịt của loài người chúng ta. Ngài cũng cũng có cãm xúc của con người chúng ta. Ngài có thần tánh nhưng Ngài cũng có nhơn tánh,

4/ KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN
 Ngài cầu nguyện xong, Ngài trở lại thì thấy 3 sứ đồ ngủ. Ngài phán cùng Phi-ơ-rơ rằng ” Si-môn, ngủ ư! Ngươi không thức được một giờ sao.”
Lần thứ hai trở lại Ngài cũng thấy các môn đồ còn ngủ. Ngài cãm thông sự yếu đuối của họ mà phán rằng ” Tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối.”và khuyên nhủ họ rằng ” hãy tỉnh thích và cầu nguyện, để các ngươi khỏi sa vào chước cám dỗ.”
Chắc chắn chúng ta cãm nhận được sâu xa sự dạy dỗ của Chúa về điều nầy.
5/ THEO Ý CHA.
  Chúa dốc đổ tâm hồn mình cho Cha Ngài, nói lên ước muốn của mình. Nhưng điều sau cùng Ngài vẫn giử một lòng vâng phục Ý Cha va thưa rằng theo ý cha chứ không theo ý con. Một sự vâng phuc tuyệt vời theo lời Kinh thánh ” Ngài vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự.”
Sự cầu nguyện hiệp thông sẽ tăng cường sức mạnh.Ngày nào mà chúng ta hiệp thông trong sự cầu nguyện, thì kẻ thù nghịch chúng ta là ma quỷ sẽ thối lại đằng sau. 
Và chúng ta cũng ý thức rằng những dấu hiệu chống phá của ma quỷ trong chương trình cầu nguyện phuc hưng tức là ma quỷ đang run sợ trước lời cầu nguyện hiệp thông của chúng ta và chứng tỏ là chương trình cầu nguyện hiệp thông của chúng ta vào 5.30 sáng hàng ngày đã và đang lay động cánh tay của Đức Chúa Trời chúng ta.
KẾT LUẬN
Chúng ta hãy nhớ lại hình ảnh: “…; Còn Môi-se, A-rôn và Hu-rơ lên trên đồi nổng. Vả hễ đương khi Môi-se giơ tay lên, thì dân Y-si-ra-ên thắng hơn; nhưng khi người xui tay xuống, dan A-ma-léc lại thắng hơn. Tay Môi-se mõi, A-rôn và Hu-rơ bèn lấy đá kê cho người ngồi, rồi ở hai bên đở tay người lên; tay người chẳng lay động cho đến khi mặt trời lặn. Giô-suê lấy lưởi gươm đánh bại A-ma-léc và dân sự người.” ( Xuất 17:10-12).
Trường hợp thứ hai cũng khích lệ chúng ta là những người chăn bầy của Chúa và hãy nhận lấy từng trải của các tôi tớ Chúa ngày xưa và ứng dụng vào cuộc đời hầu viêc Chúa của chúng ta ngày nay:

 Vua Ê-xê-chia và tiên tri Ê-sai khi đứng trước cơn nguy biến của đất nước, hai người đã hiệp thông trong sự cầu nguyện, tiếng kêu la của họ đã thấu trời, Đức Chúa Trời đã day động cánh tay quyền năng của Ngài, đã giải thoát cả dân tộc mà Chúa đã giao cho họ cai trị và hướng dẫn họ thờ phượng và hầu viêc Ngài.
Sách II sử ký 32: 20-21 chép như vầy: “Vua Ê-xê-chia, và tiên tri Ê-sai, con trai A-mốt, cầu nguyện về việc nầy, và kêu la thấu đến trời. 21 Đức Giê-hô-va bèn sai một thiên sứ diệt những người mạnh dạn, các quan trưởng và các quan tướng ở trong trại quân của vua A-si-ri. Người trở về trong xứ mình, mặt hổ thẹn; và khi người vào trong miễu thần mình, có những kẻ bởi lòng người sinh ra đều lấy gươm giết người tại đó.”( BTT )  “King Hezekiah and the prophet Isaiah son of Amoz cried out in prayer to heaven about this.  And the LORD sent an angel, who annihilated all the fighting men and the leaders and officers in the camp of the Assyrian king. So he withdrew to his own land in disgrace. And when he went into the temple of his god, some of his sons cut him down with the sword.” (NIV)
Hãy bền chí, hiệp thông trong sự cầu nguyện để đắc thắng mà dấng bước vào chức vụ, mang kết quả cho Ngài và danh Ngài được vinh hiển.

Mục sư Nguyễn Đức Na.
 Hội Trưởng Tin Lành Liên Hiệp
  (1) II Timothe 6:10.

 

Tạ Ơn Chúa

Tạ ơn Ngài vì mỗi buổi sớm mai, 
Bừng tỉnh giấc biết người còn hơi thở, 
Trước thiên nhiên nhận ra mình bé nhỏ, 
Đức Chúa Trời: Đấng cực đại, đáng kinh. 
Tạ ơn Cha bởi ân điển, đức tin,1 
Con được cứu. Được làm con Vua Thánh. 
Cuộc thế xoay vần, nhân tình ấm lạnh, 
Lời Cha hằng soi rọi bước con đi, 
Giữa sa mạc đời, nghìn nẻo u mê, 
Đi đường hẹp con có Cha dẫn lối. 
Ngày từng ngày, nhắm Siôn bước tới,2 
Sức lực Chúa ban, vơi bớt lại đầy. 
Việc Cha sai làm – Không để ngày mai, 
Thì thuận tiện, hôm nay thì cứu rỗi.3 
Biết bao cảnh đời hư vong, lạc lối. 
Họ đang mãi mê gió bụi hồng trần, 
Không hề biết Cha là Đấng Chí Nhân. 
Muốn hết thảy mọi người đều được cứu. 
Trên thập hình kia một lần là đủ, 
Chúa đã hy sinh từ bỏ mạng vàng, 
Tạ Ơn Cha! Dù nói đến vạn lần. 
Vẫn không đủ ngôn từ ca ngợi Chúa! 

Nguyễn Hoàng Yến 

1- Êphêsô 2:8 
2- Thi Thiên 84:7 
3- II Côrinhtô 6:2 

BẢN TIN MỤC VỤ

Theo đề nghị của Ban chấp hành giáo khu Tây Quãng Ngãi, Mục sư Nguyễn Đức Na – Giáo hội trưởng kiêm trưởng đoàn từ thiện Joseph (JCG-VN) đã hổ trợ phần tài chánh cho Hội thánh Tin Lành liên hiệp Sơn Trung 1 (thuộc huyện miền núi Sơn Hà, tỉnh Quãng Ngãi) để mua vật liệu xây dựng 1 nhà vệ sinh để gia đình và Hội Thánh sử dụng. Bốn gia đình bà con lân cận cũng được sử dụng nhà vệ sinh này. Nhà vệ sinh này gồm 1 nhà cầu và 1 phòng tắm. Nơi đây cũng là địa điểm thường hiệp nguyện và bồi linh cho giáo khu. Sau đây là 1 vài hình ảnh:

toilet nhìn từ phía ngoài

toilet nhìn từ phía ngoài

nhà tắm

nhà tắm

nhà cầu

nhà cầu

Thư cảm ơn

Thư cảm ơn

Hiệp nguyện tháng 10/2014

Các quản nhiệm và nhân sự hiệp nguyện tháng 10/2014

Phương châm hoạt động của đoàn từ thiện:

Bày tỏ tình yêu thương bằng việc làm và lẽ thật. (I Giăng 3:18 _ Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật.)

A. ĐỐI TƯỢNG PHỤC VỤ:

1.   Những người cùng khổ: góa bụa, neo đơn, già yếu, không người phụng dưỡng, khuyết tật, bị bỏ rơi.

2.   Những người bị bệnh phong cùi mất sức lao động.

3.   Các nạn nhân bị thiên tai như bão lụt, động đất, tai nạn bất ngờ…

4.   Các học sinh nghèo hiếu học, nhưng gia đình không đủ khả năng tài chính để đóng học phí hoặc tiền trường.

B.  PHƯƠNG CÁCH HOẠT ĐỘNG: 

 Trao quà, thực phẩm, quần áo, tiền bạc, vật liệu xây dựng … trực tiếp tận tay những người đang cần cứu giúp không qua trung gian. Hạn chế trao tặng tiền bạc, ngoại trừ học bỗng và viện phí cho người đang nằm viện cấp cứu.

 

C.  MỤC ĐÍCH: 

Bày tỏ tình yêu thương bằng việc làm theo Lời Chúa dạy, đối với những đối tượng cần cứu giúp không phân biệt Tín ngưỡng, Giáo phái hay Chính trị.

Sáng lập viên và Trưởng Nhóm Công Tác từ Thiện Joseph Việt Nam (Founder/Head of The Joseph Charity Group in Vietnam (JCG-VN)): Mục sư Nguyễn Đức Na (0918116844)

Trợ lý cộng tác viên: Mục sư Phạm Hơn (0989249554)

Văn phòng đại diện: 69/40/15 Lê Hồng Phong, Vũng Tàu. Tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

Email:[email protected]

 

JOSEPH CHARITY WORK GROUP (JCG)

Joseph, a charity work group, has practiced charity activities in Vietnam for nearly 20 years. What features is Joseph’s group?

A. SUBJECTS FOR:

1. People of the same size: widowed, solitary, old age, people who not be taken care, disabled, abandoned.

2. The leper who loses their labor.

3. The victims of natural disasters such as floods, earthquakes,  accidents …

4. The poor studious students, but their families can not afford  school fees.

B. HOW TO METHOD OF OPERATION:

Giving gifts, food, clothing, money, building materials … directly into the hands of those who need to help (not mediated). Limiting to give money, except scholarships and hospital charges for emergency cases.

C. PURPOSE:

Expressing love by practicing the Word of God, for those who need to help regardless of their beliefs, or political, denomination.

 

(Founder / Head of The Joseph Charity Group in Vietnam (JCG-VN)): Rev. Nguyen Duc Na (0918116844)

Assistant: Rev. Pham Hon (0989249554)

Representative Office: 69/40/15 Le Hong Phong, Vung Tau. Ba Ria Vung Tau Province.

Any support, please send to: Rev. Nguyen Duc Na (0918116844)

Representative Office: 69/40/15 Le Hong Phong, Vung Tau. Ba Ria Vung Tau Province.

PS: We hope that you will be a regular member of The Joseph Charity Group in Vietnam (JCG-VN)).

Blessings.

 

Hiện tại các Hội Thánh địa phương tại các giáo khu đề nghị hổ trợ cho 6 toilet như thế này nữa. Chúng tôi cầu nguyện xin Chúa cảm động các ân nhân ở khắp nơi trong nước cũng như ngoài nước hổ trợ cho đoàn từ thiện Joseph chúng tôi để có thể giải quyết các nhu cầu trên. Tất cả những nơi có nhu cầu này đều ở vùng sâu vùng xa và miền núi.

Mọi hổ trợ xin liên lạc theo địa chỉ sau đây:

Mục sư Nguyễn Đức Na – Trưởng đoàn từ thiện Joseph VN (Joseph Charity Group-VN)

email: [email protected]

phone: 0918 116 844 – 064 3853 889

địa chỉ: 69/40/15 Lê Hồng Phong, Tp. Vũng Tàu.

(mọi địa chỉ liên lạc trước đây, ngoài địa chỉ này không còn có giá trị)

 

 

ROMANS 8

51CW85BF1VL
1 Therefore, there is now no condemnation for those who are in Christ Jesus, 2 because through Christ Jesus the law of the Spirit of life set me free from the law of sin and death. 3 For what the law was powerless to do in that it was weakened by the sinful nature, God did by sending his own Son in the likeness of sinful man to be a sin offering. And so he condemned sin in sinful man, 4 in order that the righteous requirements of the law might be fully met in us, who do not live according to the sinful nature but according to the Spirit. 5 Those who live according to the sinful nature have their minds set on what that nature desires; but those who live in accordance with the Spirit have their minds set on what the Spirit desires. 6 The mind of sinful man is death, but the mind controlled by the Spirit is life and peace; 7 the sinful mind is hostile to God. It does not submit to God’s law, nor can it do so. 8 Those controlled by the sinful nature cannot please God. 9 You, however, are controlled not by the sinful nature but by the Spirit, if the Spirit of God lives in you.And if anyone does not have the Spirit of Christ, he does not belong to Christ. 10 But if Christ is in you, your body is dead because of sin, yet your spirit is alive because of righteousness. 11 And if the Spirit of him who raised Jesus from the dead is living in you, he who raised Christ from the dead will also give life to your mortal bodies through his Spirit, who lives in you. 12 Therefore, brothers, we have an obligation–but it is not to the sinful nature, to live according to it. 13 For if you live according to the sinful nature, you will die; but if by the Spirit you put to death the misdeeds of the body, you will live, 14 because those who are led by the Spirit of God are sons of God. 15 For you did not receive a spirit that makes you a slave again to fear, but you received the Spirit of sonship. And by him we cry, “”Abba,” Father.” 16 The Spirit himself testifies with our spiritthat we are God’s children. 17 Now if we are children, then we are heirs–heirs of God and co-heirs with Christ, if indeed we share in his sufferings in order that we may also share in his glory.

Future Glory

18 I consider that our present sufferings are not worth comparing with the glory that will be revealed in us. 19 The creation waits in eager expectation for the sons of God to be revealed. 20For the creation was subjected to frustration, not by its own choice, but by the will of the one who subjected it, in hope 21 that the creation itself will be liberated from its bondage to decay and brought into the glorious freedom of the children of God. 22 We know that the whole creation has been groaning as in the pains of childbirth right up to the present time. 23 Not only so, but we ourselves, who have the firstfruits of the Spirit, groan inwardly as we wait eagerly for our adoption as sons, the redemption of our bodies. 24 For in this hope we were saved. But hope that is seen is no hope at all. Who hopes for what he already has? 25 But if we hope for what we do not yet have, we wait for it patiently. 26 In the same way, the Spirit helps us in our weakness. We do not know what we ought to pray for, but the Spirit himself intercedes for us with groans that words cannot express. 27 And he who searches our hearts knows the mind of the Spirit, because the Spirit intercedes for the saints in accordance with God’s will.

More Than Conquerors

28 And we know that in all things God works for the good of those who love him, who have been called according to his purpose. 29 For those God foreknew he also predestined to be conformed to the likeness of his Son, that he might be the firstborn among many brothers. 30 And those he predestined, he also called; those he called, he also justified; those he justified, he also glorified.31 What, then, shall we say in response to this? If God is for us, who can be against us? 32 He who did not spare his own Son, but gave him up for us all–how will he not also, along with him, graciously give us all things? 33 Who will bring any charge against those whom God has chosen? It is God who justifies. 34 Who is he that condemns? Christ Jesus, who died–more than that, who was raised to life–is at the right hand of God and is also interceding for us. 35 Who shall separate us from the love of Christ? Shall trouble or hardship or persecution or famine or nakedness or danger or sword? 36 As it is written: “For your sake we face death all day long; we are considered as sheep to be slaughtered.” 37 No, in all these things we are more than conquerors through him who loved us. 38 For I am convinced that neither death nor life, neither angels nor demons,neither the present nor the future, nor any powers, 39 neither height nor depth, nor anything else in all creation, will be able to separate us from the love of God that is in Christ Jesus our Lord.

Với tinh thần nghiên cứu lời Chúa để rõ ý muốn Ngài và vận dụng vào cuộc sống, trang web chúng tôi có mục ” Study Bible through Grammar”.
Romans 8 là đoạn chót trong 3 đoạn 6, 7 và 8 nói lên quyền năng tuyệt đối của Tinlanh/ phúc âm mà đêm lại niềm tin cho con dân Chúa để có thể vượt qua bất cứ tội lỗi, thử thách nào Chúa cho phép xảy đến.
Đăc biệt cho chúng ta biết sự tranh chiến giửa con người bên trong ” inner being” ( Ro 7:22 ) tức là phần tâm linh ( spirit)   và xác thịt ( the flesh )mà trong 3 đoạn này còn dùng từ tương đương ” sinful man” ( Ro 8:4 ) hay “sinful nature” ( Ro 8:  5, 8, 9, 12, 13) hay là “members of my body” ( Ro7: 23) tức là con người cũ mang nhiễm tội lỗi do tổ phụ chúng ta lưu truyền một cách tự nhiên.
Trong phần nghiên cứu có phần  Review, Special Vocabulay and Grammar.:
I/ Review:1/ Trong đoạn 8 có dùng:– God’s children ; God’s law; God’s will; ( posessive case)
–  The children of God; the love of Christ. ( expletive ” of ” ).
Xin xem   phần ngữ pháp này đã được đề cập rất rõ ràng và đầy đủ ở Romans 2.

2/ Preposition THROUGH đã được đề cập ở Romans 6.

II/ Vocabulary:

1/ Mortal body ( V 23) means sinful natural; sinful body.

2/ Spirit ( in capital letter) means Đức Thánh Linh.

3/ spirit ( not in capital) tâm linh, tâm thần ( inner being).

4/ Sonship ( V15) means adoption as son ( V 23 ).

5/ For your sake ( V 36 ) vì Ngài; Vì cớ Chúa. ( idiom )

III/ Grammar:

1/ ” Not only so, we ourselves, Who have the firstfruits of the Spirit, groan inwardly as we wait eagerly for our adoption as son, the redemption of our bodies .” ( V23 )
– ” ourselves ” right after pronoun “we” is the emphatic pronoun ( đại từ nhấn mạnh)     which is used to emphasize “we”.
– “We” is subject to the finite verb ( động từ đã chia) ” goan”.
– ” who have the firstfruit of the Spirit” is a non- defining relative clause which must be seperated from the main clause by commas.
– Another example for emphatic pronoun (đại từ nhấn mạnh):
” We do not know what we ought to  pray for, but the Spirit himself intercedes for us with goans that words cannot express”
– ” himself” is the emphatic pronoun (đại từ nhấn mạnh).
– ” that words cannot express” is ” defining relative clause ” in which relative pronoun ” that” must be used without any commas.
This sentence is a compound- complex sentence. ( câu phức- ghép) with the co-ordinate conjunction ” but ” and two subordinates clauses.

2/  Relative pronouns:

-Those who…( V14) mean people who.
Who is relative pronoun, its antecedent ( tiên hành từ) is “those” and it is used as a subject.
– Those whom
” Who will bring any charge against those whom God has chosen.” (V 33)
“Whom” is relative pronoun, object to verb ” has chosen”.

– Another use of non-defining relative clauses:
” Christ Jesus, who died – more than that – who was raised to life- is at the right hand of God and is also interceding for us.”(V 34)
” Christ Jesus” is subject to finite verb ” is” and ” is interceding “.

We hope that with your hard study you can understand God’s words and have a translation of your own in our mother language.
May God bless you all.
We are looking forward to hearing from you.

Prepared by
Pastor Nguyễn Đức Na

Đứng Vững Trong Đức Tin

(Stand Firm in the Faith)

1 Phiêrơ 5:8-10

“Hãy tiết độ và tỉnh thức: kẻ thù nghịch anh em là ma quỉ, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được. 9 Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó, vì biết rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như mình. 10 Đức Chúa Trời ban mọi ơn đã gọi anh em đến sự vinh hiển đời đời của Ngài trong Đấng Christ, thì sau khi anh em tạmchịu khổ, chính Ngài sẽ làm cho anh em trọn vẹn, vững vàng, và thêm sức cho.”

(Be alert and of sober mind. Your enemy the devil prowls around like a roaring lion looking for someone to devour. 9 Resist him, standing firm in the faith, because you know that the family of believers throughout the world is undergoing the same kind of sufferings. 10 And the God of all grace, who called you to his eternal glory in Christ, after you have suffered a little while, will himself restore you and make you strong, firm and steadfast.)

I. Thời Kỳ Khó Khăn

        Trong sách Truyền Đạo 3:1-8 ngày xưa vua Salômôn có nói – (There is a time for everything, and a season for every activity under the heavens: 2 a time to be born and a time to die, a time to plant and a time to uproot, 3 a time to kill and a time to heal, a time to tear down and a time to build, 4 a time to weep and a time to laugh, a time to mourn and a time to dance, 5 a time to scatter stones and a time to gather them, a time to embrace and a time to refrain from embracing, 6 a time to search and a time to give up, a time to keep and a time to throw away, 7 a time to tear and a time to mend, a time to be silent and a time to speak, 8 a time to love and a time to hate, a time for war and a time for peace.) “Phàm sự gì có thì tiết; mọi việc dưới trời có kỳ định. 2 Có kỳ sanh ra, và có kỳ chết; có kỳ trồng, và có kỳ nhổ vật đã trồng; 3 Có kỳ giết, và có kỳ chữa lành; có kỳ phá dỡ, và có kỳ xây cất; 4 có kỳ khóc, và có kỳ cười; có kỳ than vãn, và có kỳ nhảy múa; 5 có kỳ ném đá, và có kỳ nhóm đá lại; có kỳ ôm ấp, và có kỳ chẳng ôm ấp; 6 có kỳ tìm, và có kỳ mất; có kỳ giữ lấy, và có kỳ ném bỏ; 7 có kỳ xé rách, và có kỳ may; có kỳ nín lặng, có kỳ nói ra; 8 có kỳ yêu, có kỳ ghét; có kỳ đánh giặc, và có kỳ hòa bình.” Ở dưới mặt trời này, thời gian trôi qua nhiều thời kỳ có định trong chương trình của Đấng Chí Cao. Thời kỳ sống trong sự thoải mái, yên ổn, dễ dàng để phát triển đạo Chúa mạnh mẽ; nhưng cũng sẽ có thời kỳ khó khăn, đối diện với nhiều sự bắt bớ đạo, quyền lực chống nghịch của những kẻ ác xung quanh chăng?

        Nếu chịu khó quan xát, chúng ta thấy rõ có nhiều những dấu hiệu đang xảy ra xung quanh thế giới về sự bắt bớ đạo, để nhận thấy thời kỳ khó khăn đang tiến đến. Có lẽ tối thiểu hai trận chiến lớn con cái Chúa phải đối phó dữ dội trong tương lai đó là quyền lực của nhóm hồi giáo cực đoan, và phong trào hổ trợ cho vấn đề đồng tính luyến ái.

  1. a) Đạo hồi đang phát triển mạnh mẽ khắp nơi trên thế giới hơn cả cơ đốc giáo, nhưng điều đáng lo sợ là nhóm hồi giáo cực đoan (Muslims extremists) như bọn ISIL, đang bắt bớ mọi người phải theo Môhamét, nếu không sẽ bị chém đầu, nhất là cho những người cơ đốc. Tin tức mới vài ngày qua cho biết bọn ISIL vừa đem 600 người tù nhân đàn ông theo nhóm Shia, Yazidi, trong số đó có một số người tín đồ, ra sa mạc bắn chết  tại chỗ, chỉ có khoãng 11 người còn sống sót để kể lại sự kiện kinh khủng này. Nhóm hồi giáo cực đoan này tin rằng giết được nhiều người cơ đốc và những kẻ ngoại thì họ sẽ được hưởng nhiều tiên nữ xinh đẹp trong thế giới bên kia.
  1. b) Không phải ở xa chúng ta mà thôi, những sự kiện của thời kỳ khó khăn cũng đang xảy ra ngay tại nước Mỹ là một nước tự do, ngày xưa đã được dựng nên trên nền tảng của Kinh Thánh.
  1. i) Cách đây vài tháng, bà tỉnh trưởng (Mayor Annise Parker) ở thành phố Houston đã gởi chiếu chỉ lên chính quyền đòi đem những bài giảng của 5 vị mục sư ra tòa để kiểm soát, trong đó có một vị mục sư người Việt, vì có những lời gỉang đá động mạnh đến nhóm đồng tính luyến ái.
  1. ii) Cách đây vài tuần có hai vị Mục Sư ở Idaho bị chính quyền đe dọa sẽ bỏ tù 180 ngày và phạt 1,000$ mỗi ngày, nếu không chịu làm lễ cưới cho những người đồng tính luyến ái.

          iii) Chưa nói đến những quyền lực đang muốn loại bỏ tất cả những gì có liên hệ đến Chúa trong cuộc sống, như là cấm không được cầu nguyện trong những trường học công cộng, muốn loại bỏ chữ “God” ra khỏi đồng bạc, hay là trong bài ca quốc kỳ, không được phép treo các tấm bản có 10 điều răn của ĐCT, hay những hình tượng thập tự giá trong những nơi công cộng. Điều đáng sợ đó là những quyền lực bắt bớ đạo này bắt nguồn từ và được hổ trợ bởi những người lãnh đạo quốc gia, những người có quyền thế.

Chính Phaolô cũng đã một lần nhắc nhở và khuyên Timôthê trong 2 Timôthê 3:1-5a về thời kỳ khó khăn này – (But mark this: There will be terrible times in the last days. 2 People will be lovers of themselves, lovers of money, boastful, proud, abusive, disobedient to their parents, ungrateful, unholy, 3 without love, unforgiving, slanderous, without self-control, brutal, not lovers of the good, 4 treacherous, rash, conceited, lovers of pleasure rather than lovers of God— 5 having a form of godliness but denying its power.) “Hãy biết rằng trong ngày sau rốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. 2 Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, 3 vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, 4 lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời, 5 bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó.” Sẽ có một thời kỳ người ta sống bên ngoài thì tỏ vẻ rất là đạo đức, công bình, yêu thương người nghèo, bảo vệ súc vật, nhưng sẽ chối bỏ Chúa dữ tợn và ghét những người thuộc của Ngài.

        Điều này cũng không có lạ đối với Chúa Giê-su, vì chính Ngài cũng đã nói trước gì trong Mathiơ 24:3-14 về thời điểm này – (As Jesus was sitting on the Mount of Olives, the disciples came to him privately. “Tell us,” they said, “when will this happen, and what will be the sign of your coming and of the end of the age?” 4 Jesus answered: “Watch out that no one deceives you. 5 For many will come in my name, claiming, ‘I am the Messiah,’ and will deceive many. 6 You will hear of wars and rumors of wars, but see to it that you are not alarmed. Such things must happen, but the end is still to come. 7 Nation will rise against nation, and kingdom against kingdom. There will be famines and earthquakes in various places. 8 All these are the beginning of birth pains. 9 “Then you will be handed over to be persecuted and put to death, and you will be hated by all nations because of me. 10 At that time many will turn away from the faith and will betray and hate each other, 11 and many false prophets will appear and deceive many people. 12 Because of the increase of wickedness, the love of most will grow cold, 13 but the one who stands firm to the end will be saved. 14 And this gospel of the kingdom will be preached in the whole world as a testimony to all nations, and then the end will come.) “Ngài đang ngồi trên núi ô-li-ve, môn đồ tới riêng cùng Ngài, và nói rằng: Xin Chúa phán cho chúng tôi biết lúc nào những sự đó sẽ xảy ra? và có điềm gì chỉ về sự Chúa đến và tận thế. 4 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hãy giữ, kẻo có kẻ dỗ dành các ngươi. 5 Vì nhiều người sẽ mạo danh ta đến mà nói rằng: Ta là Đấng Christ; và sẽ dỗ dành nhiều người. 6 Các ngươi sẽ nghe nói về giặc và tiếng đồn về giặc: hãy giữ mình, đừng bối rối, vì những sự ấy phải đến; song chưa là cuối cùng đâu. 7 Dân nầy sẽ dấy lên nghịch cùng dân khác, nước nọ nghịch cùng nước kia; nhiều chỗ sẽ có đói kém và động đất. 8 Song mọi điều đó chỉ là đầu sự tai hại. 9 Bấy giờ,người ta sẽ nộp các ngươi trong sự hoạn nạn và giết đi; các ngươi sẽ bị mọi dân ghen ghét vì danh ta. 10 Khi ấy cũng có nhiều kẻ sẽ sa vào chước cám dỗ, phản nghịch nhau, và ghen ghét nhau. 11 Nhiều tiên tri giả sẽ nổi lên và dỗ dành lắm kẻ. 12 Lại vì cớ tội ác sẽ thêm nhiều thì lòng yêu mến của phần nhiều người sẽ nguội lần. 13 Nhưng kẻ nào bền chí cho đến cuối cùng, thì sẽ được cứu. 14 Tin Lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến.” Sẽ có thời kỳ khó khăn là lúc con cái Chúa sẽ bị bắt bớ dữ tợn, thế gian sẽ nộp chúng ta trong các tòa án, vì ghen ghét chúng ta là những người tin Chúa, và đây là một trong những dấu hiệu rõ ràng dẫn đến ngày tận thế. Có phải những sự kiện đang xảy ra xung quanh chúng ta là những dấu hiệu của thời kỳ khó khăn đang diễn tiến đến những ngày sau rốt chăng? Chúng ta có chút nhận xét và suy nghĩ gì về những sự kiện xảy đang xảy ra trước mắt của mình không?

        Kinh Thánh chép tất cả những điều này đang sửa soạn cho quyền lực cho kẻ chống nghịch lại Chúa đã và đang hành động mạnh mẽ ở trong thế giới này, vì chính nó cũng biết thì giờ của nó không còn nhiều nữa. Trong 2 Têsalônica 2:1-7 sứ đồ Phaolô đã nói trước về kẻ chống nghịch này – (Concerning the coming of our Lord Jesus Christ and our being gathered to him, we ask you, brothers and sisters, 2 not to become easily unsettled or alarmed by the teaching allegedly from us—whether by a prophecy or by word of mouth or by letter—asserting that the day of the Lord has already come. 3 Don’t let anyone deceive you in any way, for that day will not come until the rebellion occurs and the man of lawlessness is revealed, the man doomed to destruction. 4 He will oppose and will exalt himself over everything that is called God or is worshiped, so that he sets himself up in God’s temple, proclaiming himself to be God. 5 Don’t you remember that when I was with you I used to tell you these things? 6 And now you know what is holding him back, so that he may be revealed at the proper time. 7 For the secret power of lawlessness is already at work; but the one who now holds it back will continue to do so till he is taken out of the way.) “Luận về sự đến của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, và về sự chúng ta hội hiệp cùng Ngài, 2 thì, hỡi anh em, xin chớ vội bối rối và kinh hoảng hoặc bởi thần cảm giả mạo, hoặc bởi lời nói hay là bởi bức thơ nào tựa như chúng tôi đã gởi mà nói rằng ngày Chúa gần đến. 3 Mặc ai dùng cách nào, cũng đừng để họ lừa dối mình. Vì phải cósự bỏ đạo đến trước, và có người tội ác, con của sự hư mất hiện ra, 4 tức là kẻ đối địch, tôn mình lên trên mọi sự mà người ta xưng là Đức Chúa Trời hoặc người ta thờ lạy, rất đỗi ngồi trong đền Đức Chúa Trời, chính mình tự xưng là Đức Chúa Trời. 5 Anh em há không nhớ khi tôi còn ở với anh em, thì đã nói về những sự đó sao? 6 Hiện nay anh em biết rõ điều làm ngăn trở nó, hầu cho nó chỉ hiện ra đúng kỳ nó thôi. 7 Vì đã có sự mầu nhiệm của điều bội nghịchđang hành động rồi; song Đấng còn ngăn trở cần phải cất đi.” Sẽ có thời kỳ khó khăn mà nhiều người bỏ đạo, hội thánh bị teo lại vì sự bắt bớ, nhà thờ bị chính quyền đóng cửa, mục sư bị lên án bỏ tù, để sửa soạn/dọn đường cho kẻ chống nghịch Chúa, chính là “anti-christ,” có dấu của con số “666,” sẽ xuất hiện một ngày với quyền lực kinh khủng của satan, hãm hại dân Chúa cùng những kẻ tin; mặc dầu nó chưa ló mặt, nhưng Kinh Thánh nói quyền lực của nó đang lộng hành rồi.

II. Tiết Độ và Tỉnh Thức

        Nếu biết như vậy rồi, thì chúng ta phải làm gì đây? Con cái Chúa phải làm gì đây? Hội Thánh Chúa phải chuẩn bị như thế nào? Lời của sứ đồ Phiêrơ khuyên chúng ta trong 1 Phiêrơ 5:8, thứ nhất phải tập tành sự tiết độ và tỉnh thức – “Hãy tiết độ và tỉnh thức: kẻ thù nghịch anh em là ma quỉ, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người nào nó có thể nuốt được.” (Be alert and of sober mind. Your enemy the devil prowls around like a roaring lion looking for someone to devour.)

1) Chúng ta cần luyện tập sự tiết độ, có nghĩa là đời sống phải có chừng mực, có giới hạn, có sự quân bình, chớ luông tuồng, đừng quá độ, để nhận diện kẻ thù và đeo đuổi những điều ưu tiên trong cuộc sống. Chữ “tiết độ” trong tiếng Anh dịch là “sober,” mang ý nghĩa của sự kiềm hãm tránh xa rượu mạnh, vì rượu dễ làm cho một người không còn “control” mình được nữa, để rồi gây ra những hành động nguy hiểm, không tốt cho tánh mạng. Vì vậy mà người ta thường nói: “Don’t drink and drive,” và tội DWI là một tội phạm nặng (serious crime). Câu chuyện “chèo hoài không đi” của một toán thủy thủ chở hàng… một tối ghé quán rượu trên sông. Lúc tiệc tàn, kẻ thì say, người thì ngà ngà trở về thuyền trong ánh trăng sao mờ ảo. Họ hét, họ ca và ra hết sức để chèo thuyền mình ra lại bến tầu. Chèo một lúc thật lâu thì có người hét lên: “Sao lâu ra mà chưa đến bến tàu?” Bất chấp… họ lại tiếp tục gò lưng chèo mãi đến nỗi nhễ nhãi mồ hôi, bắp thịt rã rời… đến lúc phát hiện ra từ nãy đến giờ con thuyền của mình vẫn đứng yên một chỗ. Nguyên nhân là khi lên thuyền… họ vì say sưa nên quên không gỡ sợi dây neo thuyền còn cột vào đầu cảng của bờ, mà chưa được tháo ra. Đời sống của một số con cái Chúa cũng như vậy chăng, bị buộc trói vào những cơn say mê của những thú vui và lo lắng cho của cải vật chất, cho nên “chèo hoài” nhưng chẳng đi đến đâu hết, đời sống đức tin tâm linh “chẳng tăng trưởng chi hết,” vì chưa có sự tiết độ trong cuộc sống.

  1. a) Mánh khóe của ma quỉ giăng ra biết bao nhiêu là những thú vui (pleasures), hay làm thỏa mãn những ưa muốn của tư dục xác thịt, để rồi biết bao nhiêu người bị vấn vương, luông tuồng quá độ, chìm đắm trong những trụy lạc ở đời này, mà không lo sửa soạn cho linh hồn mình sẽ phải gặp Chúa một ngày để chịu sự phán xét.
  1. b) Ma quỉ nó cám dỗ nhiều người bằng cách gieo nhiều những “cơ hội làm giàu,” để chúng ta say mê trong những công việc đời, chỉ hết công sức thâu lượm của cải vật chất, mà chẳng chuẩn bị chi hết cho vững đức tin để sửa soạn đối phó với thời kỳ khó khăn đang tiến đến. Nhiều người, kể cả con cái Chúa, đang quá bận rộn trong những công ăn việc làm, cố gắng làm thêm vài tiếng đồng hồ “O.T.” không thì uổng quá, thì còn thì giờ đâu nữa để lo công việc của ChúaMa quỉ đút chúng ta nhiều những miếng mồi béo ngon, mà làm chúng ta bị mập ú, béo phì, bị giam cầm vào một thế giới vật chất, những thú vui, trở nên yếu đuối, nên chưa thể nào sửa soạn cho những trận chiến thuộc linh đang sắp đến.
  1. c) Đời sống có tiết độ là một đời sống có sự kỷ luật tâm linh. Một đời sống có kỷ luật tâm linh thì giữ kỹ một số những điều căn bảncủa người cơ đốc, đó là 1) sự tĩnh tâm cá nhân với Chúa mỗi ngày, 2) sự thờ phượng mỗi tuần và trau dồi lời Chúa trong các lớp học Kinh Thánh, 3) ham thích sự thông công, 4) lãnh trách nhiệm chăm sóc đức tin của nhau, và 5) biết hiệp tác trong đại sứ mạng truyền bá Tin Lành. Điều đáng sợ đó là vô số cơ đốc nhân và gia đình của họ ngày nay đang thiếu sót cả 5 điều này thì làm sao sửa soạn đối phó với những trận chiến thuộc linh?  Khi chúng ta đánh mất những điều căn bản này, chúng ta không thể thắng những trận chiến thuộc linh được. If you lose the basics, you will lose! Có lần đi thi đánh tennis của hãng Exxon ở Independence park. Đang thắng 5-1 rồi, chỉ còn một game nữa là đoạt giải hạng 3 trong năm đó. Nhưng người đối thủ bắt đầu khám phá ra điểm yếu backhand của tôi thiếu căn bản, thế là ông cứ nhẹ nhàng thả bên trái, cuối cùng tôi bị thua cuộc đua là 5-7, mà không bao giờ quên. Ma quỉ trong Kinh Thánh câu 8 được so sánh như con sư tử, nghĩa là nói đến sức mạnh của nó hơn người; nhưng không phải vậy thôi, nó còn xảo quyệt, khôn ngoan, vì nó kiên nhẫn rình mò, chờ đợi lúc chúng ta đang say nghủ, yếu đuối, dìm mình trong những mê đắm, quá độ trong những thú vui trần thế, thờ ơ trong những lời Kinh Thánh cảnh cáo, nguội lạnh trong công việc Chúa, và đó là lúc nó sẽ tấn công và nuốt sống chúng ta.

        2) Có tiết độ, thì chúng ta mới có thể tỉnh thức mà đề phòng những cạm bẫy của ma quỉ đang sắp sửa tấn công mình. “Tỉnh thức” đây mang hình ảnh của một người lính đứng canh giữ đồn mình, và khi thấy kẻ địch đến gần thì hô hào, loan báo cho cả thành thức dậy mà chuẩn bị chiến đấu, chống cự lại. Quí vị lái xe có luôn để ý bản tốc độ và xe cảnh sát đang đậu bên lề đường không, để khỏi bị ticket? Các bậc cha mẹ cơ đốc có đang làm vai trò của người lính canh giữ gia đình mình không? Có nhận diện ra những bẫy cám dỗ của ma quỉ của thế gian này đang len lỏi vào trong gia đạo qua những kỹ thuật điện toán tối tân không, như là Ipad, TV, Iphone, Internet? Người ta làm thống kê 3,000 đứa trẻ từ 3 tuổi đến 18, tỉ số các con em dùng TV, điện toán, Ipad mỗi ngày là khoãng 5.5 tiếng đồng hồ; và 61% của các bậc cha mẹ hiện nay không có luật giới hạn chi hết cho con em mình xử dụng những thứ này. Tỉnh thức để nhận thức sự thay đổi của thời kỳ khó khăn đang sắp đến, mà chuẩn bị kỹ càng để đối phó nó. Đối phó như thế nào nếu chính quyền trói buộc tất cả các hội thánh vào những luật pháp phải mướn một người lãnh đạo đồng tính luyến ái? Không cho phép các vị mục sư được giảng trong đó có chữ đồng tính luyến ái? Không được phép tự do ra chợ phát báo Hướng Đi và truyền đạo đơn? Khi con em chúng ta sẽ bị chọc cười là người cơ đốc cầu nguyện ở trong trường học? Khi không được mướn làm việc vì theo đạo cơ đốc? Khi súng kề vào đầu và nói phải chối Chúa?

III. Đứng Vững trong Đức Tin

        Điều thứ hai, sứ đồ Phiêrơ khuyên đó là phải giữ vững đức tin trong câu 9 – “Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó, vì biết rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như mình.” (Resist him, standing firm in the faith, because you know that the family of believers throughout the world is undergoing the same kind of sufferings.)  Điều kiện trước tiên để làm được điều này đó là phảicó đức tin, nếu không thì đâu cần nói chi đến việc đứng vững, phải không? Tin Chúa nghĩa là gì?

1) Trong Giăng 17:3 tóm tắt vài điều căn bản – (Now this is eternal life: that they know you, the only true God, and Jesus Christ, whom you have sent.) “Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến.”

  1. a) Tin Chúa có thật(Đấng Sáng Tạo hiện hữu) và có một (duy nhất).
  1. b) Tin Chúa ban cho ơn cứu rỗi trong Con Ngài, và bằng lòng tiếp nhận món quá cứu rỗi.
  1. c) Tin Chúa là Đấng phán xét cuối cùng, để ban cho sự sống đời đời cho mọi kẻ tin; còn những kẻ không tin sẽ bị quăng vào hồ lửa địa ngục.

        2) Người tin Chúa thật còn có nghĩa làvâng giữ, làm theo những điều răn của Ngài dạy dỗ mà mình đã nghe và biết. Trong 1 Côrinhtô 15:1-2 – (Now, brothers and sisters, I want to remind you of the gospel I preached to you, which you received and on which you have taken your stand. 2 By this gospel you are saved, if you hold firmly to the word I preached to you. Otherwise, you have believed in vain.)“Hỡi anh em, tôi nhắc lại cho anh em Tin Lành mà tôi đã rao giảng và anh em đã nhận lấy, cùngđứng vững vàng trong đạo ấy, 2 và nhờ đạo ấy, anh em được cứu rỗi, miễn là anh em giữ lấy y như tôi đã giảng cho; bằng không, thì anh em dầu có tin cũng vô ích.” Ẩn dụ về hai người xây nhà trong Mathiơ 7:24-27 Chúa Giê-su dạy làm sao một người đứng vững trong đạo? (“Therefore everyone who hears these words of mine and puts them into practice is like a wise man who built his house on the rock. 25 The rain came down, the streams rose, and the winds blew and beat against that house; yet it did not fall, because it had its foundation on the rock. 26 But everyone who hears these words of mine and does not put them into practice is like a foolish man who built his house on sand. 27 The rain came down, the streams rose, and the winds blew and beat against that house, and it fell with a great crash.”) “Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên hòn đá. 25 Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy; song không sập, vì đã cất trên đá. 26 Kẻ nào nghe lời ta phán đây, mà không làm theo, khác nào như người dại cất nhà mình trên đất cát. 27 Có mưa sa, nước chảy, gió lay, xô động nhà ấy, thì bị sập, hư hại rất nhiều.”) Tin không phải chỉ biết, nhưng còn làm theo; nếu không sẽ đến một thời kỳ khó khăn, mình sẽ bị sa ngã, nhà sẽ bị xập, sẽ chối Chúa, có thể bỏ đạo, phản nghịch nhau, và những điều mình đã biết, đã học, đã nghe, nhưng chưa vâng giữ chỉ là vô ích, dã tràng xe cát biển đông.

        3) Tin Chúa còn có chiều sâu đó là nhớ kỹnhững lời Chúa đã hứa khi đối diện với kẻ dữ. Lời hứa chúng ta cần nhớ kỹ đó là Chúa hứa sẽluôn ở cùng chúng ta.

  1. a) ĐCT hứa ở cùng Giôsuê như có chép trong Giôsuê 1:5– (No one will be able to stand against you all the days of your life. As I was with Moses, so I will be with you; I will never leave you nor forsake you.) “Trót đời ngươi sống, thì chẳng sẽ ai được chống cự trước mặt ngươi. Ta sẽ ở cùng ngươi như ta đã ở cùng Môi-se; ta sẽ không lìa ngươi, không bỏ ngươi đâu.”
  1. b) Chúa Giê-su hứa ở cùng với các môn đồ trong Mathiơ 28:18-20 (Then Jesus came to them and said, “All authority in heaven and on earth has been given to me. 19 Therefore go and make disciples of all nations, baptizing them in the name of the Father and of the Son and of the Holy Spirit, 20 and teaching them to obey everything I have commanded you. And surely I am with you always, to the very end of the age.”) “Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. 19 Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp tem cho họ, 20 và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.)
  2. c) Chúa hứa sẽ ở cùng với Phaolô và làm chứng cho ông như trong Công vụ 18:9-10– (One night the Lord spoke to Paul in a vision: “Do not be afraid; keep on speaking, do not be silent. 10 For I am with you, and no one is going to attack and harm you, because I have many people in this city.”) “Ban đêm, Chúa phán cùng Phao-lô trong sự hiện thấy rằng: Đừng sợ chi; song hãy nói và chớ làm thinh; 10 ta ở cùng ngươi, chẳng ai tra tay trên ngươi đặng làm hại đâu; vì ta có nhiều người trong thành nầy. Nhớ như vậy mới giúp chúng ta không có sợ, nhưng dạn dĩ đối diện với những sự bắt bớ, khi họ nộp chúng ta trong các toà án, vì biết Chúa luôn ở cùng và Ngài sẽ nói, bênh vực qua môi miệng của chúng ta.)
  1. Chịu Đựng

        Điều thứ ba, sứ đồ Phiêrơ khuyên chúng ta tập luyện sức chịu đựng trong câu 10 ngay hôm nay qua những việc nhỏ, để chuẩn bị đánh trận lớn ngày mai – “Đức Chúa Trời ban mọi ơn đã gọi anh em đến sự vinh hiển đời đời của Ngài trong Đấng Christ, thì sau khi anh em tạm chịu khổ, chính Ngài sẽ làm cho anh em trọn vẹn, vững vàng, và thêm sức cho.” (And the God of all grace, who called you to his eternal glory in Christ, after you have suffered a little while, will himself restore you and make you strong, firm and steadfast.) Mỗi lần cô Beth bạn tôi tập chạy Marathon (26.1 miles) là phải sửa soạn cả 3 tháng trước đó, bằng cách chạy mỗi ngày 6-7 miles, cẩn thận ăn những thứ gì cần thiết, chỉ mong để chạy cho xong cuộc đua, chứ chưa nghĩ đến việc chạy về top 10.  Lúc chúng ta cần luyện sức chịu đựng để đối phó với những trận chiến thuộc linh sắp đến là ngay hôm nay, chứ không phải đợi “nước tới chân hẵng chạy.” Nếu những sự nhịn nhục ngày hôm nay trong giữa vòng con cái Chúa với nhau, để tránh sự cãi cọ, tránh nói xấu người khác, tránh gây sự chia rẻ, mà giữ sự hiệp nhất mà chúng ta chưa làm nổi, thì liệu trong những ngày sau rốt, thời kỳ khó khăn, chúng ta có còn chịu đựng được những sự bắt bớ không?

Cũng đừng xem thường những hoạn nạnChúa có khi cho phép xảy ra trong cuộc sống của mình, vì chính những điều này giúp cho chúng ta thêm sự kiên nhẫn, thêm sức chịu đựng để đứng vững trước những bắt bớ có thể xảy ra trong tương lai. Sứ đồ Phiêrơ cũng đã nói gì trong Giacơ 1:2-4 – (Consider it pure joy, my brothers and sisters, whenever you face trials of many kinds, 3 because you know that the testing of your faith produces perseverance. 4 Let perseverance finish its work so that you may be mature and complete, not lacking anything.)“Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn, 3 vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục. 4 Nhưng sự nhịn nhục phải làm trọn việc nó, hầu cho chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn, không thiếu thốn chút nào.” )

Khí hậu đang thay đổi và chúng ta biết là lúc chuyển mùa từ Hè qua Thu, rồi khi thời tiết lạnh lẽo, cây trơ trọi lá thì chúng ta biết Đông đã đến. Nhìn những sự kiện đang xảy ra trước mắt, chúng ta cũng có khôn ngoan không, để thấy những dấu hiệu của thời kỳ khó khăn đang đến nhanh chóng? 5, 10, 25 năm nữa gia đình cơ đốc và Hội Thánh sẽ đối phó những nan đề gì? Chúng ta có chuẩn bị để đối phó chưa? Con cháu chúng ta có sẽ đứng vững ở giữa những trận chiến thuộc linh không? Chúng ta cò còn nhớ rằng Chúa đã hứa Ngài ở bên phe chúng ta không? Mong Chúa Thánh Linh giúp chúng ta tập tiết độ và tỉnh thức, giúp giữ vững đức tin, trau dồi sự nhịn nhục, để chuẩn bị cùng hiệp nhất đối phó với những trận chiến thuộc linh, chống cự lại ma quỉ như sư tử rống đang lộng hành để phá hoại hội thánh, và hội thánh sẽ thắng trận cho sự vinh hiển của Chúa Giê-su.

————- Lời Mời Gọi

Thiên hạ thường có câu nói “business as usual” để nói đến tình trạng yên ổn, phát triển bình thường, không có sự xáo trộn chi cả. Điều này có lẽ cũng là điều chúng ta muốn có được để phát triển hội thánh Chúa bình thường; nhưng hầu như quan xát tình trạng thế giới thì có lẽ phải nói “church cannot be as usual anymore!” Những quyền lực của kẻ dữ, người chống nghịch với Chúa đang lộng hành càng ngày càng dữ, ra mặt chống đối Chúa và con dân Ngài. Đây là thời điểm nó đã rình mò từ lâu vì biết ngày ấy không còn là bao lâu chăng?

Hội thánh Chúa có nhận biết điều này không để trau đồi đức tin hầu có thể đứng vững trong thời kỳ khó khăn này? Những người ở bên Hawaii đang chuẩn bị cho núi lửa phun như thế nào? Họ cứ tình bơ hay là mau mau thu xếp dọn đi chỗ khác?  Chúng ta có sẽ cứ say nghủ trong thái độ trì hoãn, ỷ y nữa, để nước tới chân hãy chạy cho đến chừng nào đây?  Có sự suy nghĩ thờ ơ – Không có sao đâu, người ta sao tôi vậy, đâu đến nỗi tệ như vậy, để rồi cứ ăn, cứ uống, cứ làm việc, ham chơi, hơi đâu mà lo. Không được, chúng ta phải lắng nghe lời cảnh cáo của Chúa mà:

1) Tập tành sự tiết độ và tỉnh thức. Có điều gì trong cuộc sống cần điều chỉnh, bớt lại không để giữ được những điều căn bản của đạo?

2) Chúng ta phải trau dồi đức tin bằng cách không phải đến đây mỗi tuần chỉ nghe mà thôi, nhưng quyết tâm ra về làm theo những điều mình đã nghe lời Chúa dạy dỗ.

3) Tập sự chịu đựng bắt đầu bằng những việc nhịn nhục nhỏ, có thể trong chính vòng liên hệ giữa anh chị em trong Chúa, giữa vợ chồng với nhau, để công việc Chúa được tiến hành, phát triển tốt đẹp, hầu cho khi đối diện với sự bắt bớ lớn chúng ta không bỏ cuộc.

It’s coming – are we ready? Nếu chưa có chương trình tĩnh tâm cá nhân mỗi ngày với Chúa thì phải bắt đầu ngay. Dự phần trong các lớp học Kinh Thánh và thờ phượng mỗi tuần, nhất quyết không bỏ. Giữ sự thông công chặt chẽ với nhau, nhiều hơn với những người ngoại. Lãnh trách nhiệm chăm sóc nhau, kẻ mạnh giúp người yếu, kẻ yếu giúp người yếu hơn, lá lành đùm lá rách. Trung tín trong chức vụ Chúa gọi mình, đừng để một ý riêng chi làm mình bị chi phối. Hiệp tác trong sự rao truyền Tin Lành là việc ưu tiên hơn tất cả mọi điều khác ở đời này.

Một trong những cách thực tế chúng ta chống cự lại những quyền lực của kẻ dữ đó là phải đi bầu, bỏ phiếu cho những người đi theo sự dạy dỗ của đạo Chúa Giê-su. Thống kê cho biết chỉ khoãng 25% người cơ đốc đi bỏ phiếu mà thôi; điếu đáng tiếc. Làm sao chúng ta sống cứ than phiền, phàn nàn là chính quyền càng ngày sống càng bỏ đạo Chúa, nhưng chúng ta lại không đi bầu bỏ phiếu cho những người đi theo đạo? Chúng ta không thể thắng trận bằng môi miệng, chỉ toàn là những lời nói phàn nàn, trách móc được, nhưng phải bằng những hành động thực tế.

Stand Firm in the Faith

1 Peter 5:8-10

The time of “business as usual” for the church is passing us. We need to pay attention in the changing of the seasons. There are at least two major spiritual battles that the church will have to face: The growth of the extreme Muslim idealism and the homosexual agenda. All of these cruel and rebellious forces is to prepare for the man of lawlessness to be revealed; although, his secret power is already at work. Is the church of God ready to face these battles? How will we prepare for it?

We must have an attitude of sobering (self-control) and being alert. We must not allow ourselves to be drifted away by false doctrines and excessive pleasures; but to guard our family, our church from the temptations of evil forces. Secondly, we must stand firm on our faith. A person having faith in God is the one who believes God does exist, accepts His gift of salvation given through the sacrifice of God’s Son, and waits patiently for God righteous judgment to be accomplished. Those who have faith will also keep God’s commandments and sharpen their spiritual weapons ready for battles. Thirdly, to face the spiritual battles, we need to train ourselves for strength to endure the fights. To run a “marathon” for tomorrow, one must prepare to run shorter laps today.

Sleep no longer; we need to wake up and observe the changes in the seasons. We need to unite as a strong army for the Lord. May God be on our side as we prepare to face spiritual battles and bring victory unto His name.

GIẢNG GIẢI KINH

Một số cạm bẫy thường thấy trong việc giải kinh
 
Mọi người lính nhảy dù biết rõ ràng mình sẽ đáp xuống tại đâu, nhưng không người nào nhảy khỏi máy bay mà lại không hiểu biết về địa hình xung quanh. Nếu làm khác đi, anh ta có thể bị lạc hướng và lạc mất, hậu quả có thể tồi tệ đến mức khó lường. Cũng như vậy, nhảy dù một cách thình lình vào vài phân đoạn Kinh Thánh, cố gắng nhặt nhạnh vài bài học thuộc linh mà bất chấp văn mạch, có thể dẫn đến lãng phí thời gian và nghẹt ngòi thuộc linh.
Đọc Kinh Thánh cách thường xuyên theo một kế hoạch đã định là nền móng phải lẽ cho việc học Kinh Thánh thành công. Những nguyên tắc giải kinh đúng mực sẽ khiến việc học Kinh Thánh thành phước hạnh và lợi ích thuộc linh.
Việc đọc Lời Chúa trả lời cho câu hỏi, Kinh Thánh nói gì? Nhưng công tác giải kinh trả lời cho câu hỏi, Kinh Thánh nói như thế là có ý nghĩa gì? Phương cách giải kinh đúng mực là yếu tố then chốt cho việc học Kinh Thánh thành công. Người đọc không có phép quyết định ý nghĩa của bản văn. Anh ta phải học xem bản văn ấy có ý nghĩa gì.
Phao-lô bảo ban chức vụ cho người học trò Ti-mô-thê của mình rõ ràng lắm, “Hãy chăm chỉ đọc sách, khuyên bảo, dạy dỗ cho đến chừng ta đến.” (I Tim 4:13). Ông dạy Ti-mô-thê phải đọc bản văn, giải thích bản văn (tín lý), và áp dụng bản văn (dạy dỗ). Bạn đừng đọc và nhảy ngay vào phần áp dụng. Hãy đọc bản văn, giải thích bản văn, rồi mới ứng dụng nó. Đó chính là ý nghĩa của câu “lấy lòng ngay thẳng giảng dạy lời của lẽ thật” (II Tim 2:15). Nói cách khác, sự giải kinh sai trật đưa đến kết quả, và là nguồn gốc của, mọi thứ cuồng tín.
Sự cuồng tín do bởi giải kinh sai trật.
 
Giải kinh sai trật sẽ gây ra mọi thứ nan đề, từ những sai lầm ngớ ngẫn đến những lạc giáo nguy hiểm. Nhiều người biết đến “Phương cách Đa-ni-ên” là cách thức giảm cân dựa trên câu chuyện tiên tri Đa-ni-ên quyết định chỉ ăn rau quả và uống nước (Đa-ni-ên 1:12). Nhưng cách giảm cân tân thời “theo Kinh Thánh” này lại hoàn toàn bỏ qua ý nghĩa rằng việc ăn uống của Đa-ni-ên là để bày tỏ sự giữ gìn của Chúa bất chấp việc ăn uống có phần lạ thường này của ông. Tệ hơn nữa, những người chủ trương “Phương cách Đa-ni-ên” đã quên rằng chính Đa-ni-ên đã tăng cân với cách ăn uống ấy (Đa-ni-ên 1:15)!
Các diễn giả tin lành thịnh vượng dạy rằng lời chào thăm của sứ đồ Giăng về sức khỏe và thịnh vượng (III Giăng 2) cho thấy Đức Chúa Trời muốn Cơ đốc nhân luôn luôn khỏe mạnh và giàu có. “Thần học” như thế thì chẳng khác nào đang chế nhạo những khó khăn, thiếu thốn, và cái chết của các sứ đồ và những người tiếp bước chân họ (tham khảo Hê-bơ-rơ 11:35-38).
Một số nhánh của Mọt-môn-giáo cho rằng các tổ phụ xưa kia đều đa thê, nên ngày nay chúng ta cũng phải đa thê. Một nhóm còn quyết định chống đối việc gây tê cho phụ nữ vì đọc thấy Cựu Ước dạy rằng đau đớn khi sanh nở là một phần của sự rủa sả, vì thế không được tránh. Phái Chứng nhân Giê-hô-va thường từ chối việc truyền máu là do hiểu sai về những dạy dỗ về máu trong Công vụ 15:28-29.
Những sự giải kinh sai trật có thể gây nên trò lố bịch, ngớ ngẫn, nguy hiểm và đáng nguyền rủa. Nhưng những sự đó, về mặt tự nhiên, là thất bại trong việc hiểu Kinh Thánh thật sự nói gì, và bối cảnh (văn mạch) của kinh văn. Có thể tránh sự giải kinh sai trật khi tránh được ba sai lầm lớn trong việc diễn giải, cụ thể như sau:
Đừng đưa ra một ý tưởng mà trước đó không giải kinh một cách phải lẽ.
 
Nói cách khác, đừng ép buộc Kinh Thánh phải nói điều bạn muốn Kinh Thánh nói. Đừng bắt chước một vị diễn giả giảng rằng phụ nữ không nên buộc/cài tóc lên đỉnh đầu. Câu văn của ông ấy là “top knot come down” (Ma-thi-ơ 24:17). (Chú thích của Đạt: vị diễn giả đã nhầm lẫn giữa hai chữ đồng âm khác nghĩa là “knot” và “not”). Rõ ràng, đây không phải là điều phân đoạn ấy dạy dỗ!
Một cách thức chết người nữa là giống như một mục sư nói rằng, Tôi đã có bài giảng rồi, bây giờ chỉ tìm câu Kinh Thánh cho bài giảng ấy mà thôi. Ông ấy bắt đầu bằng những điều đã in trí, rồi sau đó tìm một số câu Kinh Thánh để hỗ trợ cho ý của ông – đó là trò cái đuôi vẫy con chó hướng dẫn cái đầu của nó. Bài giảng Kinh Thánh thật sự thì không lèo lái bản văn, mà là bị lèo lái bởi bản văn. Tôi biết rằng khi cố gắng sản xuất một bài giảng, tôi sẽ vội vàng áp đặt Kinh Thánh cho phù hợp với ý tưởng của tôi. Nhưng khi tôi cố gắng hiểu sâu hiểu rõ một đoạn văn, thì bài giảng sẽ tuôn chảy ra từ sự hiểu đó.
Sử dụng Lời Chúa để minh họa cho ý tưởng cá nhân thật sự là đang hạ thấp thẩm quyền Kinh Thánh. Hãy bắt đầu bằng bản văn, tìm ý nghĩa thật sự của bản văn ấy, và hãy tránh đường để Kinh Thánh tự lên tiếng.
Tránh việc giải kinh nông cạn hời hợt.
 
Thứ nhì, khi học Kinh Thánh, hãy cẩn thận, chớ mà áp dụng câu thần chú rằng “Đối với tôi, câu này có nghĩa là….” Hoặc, “Câu này có ý nghĩa gì đối với anh/chị?” Thay vào đó, hãy học biết câu ấy thực sự nói gì.
Không may là, nhiều buổi học Kinh Thánh chỉ là sự hùn hạp của sự thiếu hiểu biết – nhiều người ngồi đó và chia sẻ những gì họ không biết về câu Kinh Thánh. Tôi hết sức ủng hộ các buổi học Kinh Thánh, nhưng ai đó phải nghiên cứu trước phần kinh văn ấy thật sự có ý nghĩa thế nào, rồi hướng dẫn người khác cùng hiểu, rồi sau đó mới thảo luận phần áp dụng. Phao-lô dạy Ti-mô-thê phải nhọc công mới có thể giảng dạy Lời Chúa (II Tim 2:15).
Đừng thuộc linh hóa
 
Thứ ba, đừng thuộc linh hóa những ý nghĩa rõ ràng và trực tiếp của một câu Kinh Thánh. Bài giảng đầu tiên của tôi thật là một bài kinh khủng. Phần kinh văn của tôi là, “Thiên sứ của Chúa ở trên trời xuống, đến lăn hòn đá.”(Ma-thi-ơ 28:2). Bài giảng của tôi là “Lăn đi những hòn đá trong đời bạn.” Tôi giải thích về hòn đá nghi ngờ, hòn đá sợ hãi, hòn đá giận dữ. Nhưng những điều đó không phải là điều câu ấy nói. Câu ấy đang nói về một hòn đá thực, hòn đá theo nghĩa đen. Tôi đã khiến hòn đá ấy trở thành một biểu tượng dụ ngôn mà bất chấp nghĩa rõ ràng của kinh văn. Trong một dịp khác, tôi có nghe một bài giảng rằng “Họ quăng bốn cái neo xuống, và ước ao đến sáng” (Công 27:29). Diễn giả giải thích rằng đó là cái neo hy vọng, cái neo đức tin, và cứ như thế … Trong thực tế, những cái neo trong Công vụ đoạn 27 là những neo thật bằng kim loại, chẳng phải là loại neo nào khác.
Tôi gọi cách giảng đó là “bịt mắt bắt dê,” vì bạn không cần Kinh Thánh cho những bài giảng như thế. Ai đó sẽ đứng lên và giảng rằng, có người bị mất một số chiên – khắp thế giới mọi người đang lạc mất. Nhưng rồi diễn giả ấy chẳng nói sẽ phải tìm số chiên ấy ở đâu. Cứ kệ chúng nó, rồi cuối cùng chúng cũng về chuồng thôi mà. Sau đó vị diễn giả nhăn nhó mặt mày mà kể một câu chuyện về những tội nhân vui mừng trở về nhà. Những bài giảng như thế rất dễ, và nhiều người làm theo cách đó đối với Cựu Ước. Đừng thuộc linh hóa Kinh Thánh; hãy nghiên cứu để hiểu được ý nghĩa đúng của bản văn.
Ngữ cảnh ( context) là chìa khóa then chốt.
 
Khi tránh ba sai lầm này – dùng bản văn để hỗ trợ cho ý tưởng đã in trí từ trước, sự giải kinh hời hợt nông cạn, và sáng tạo những ẩn dụ thuộc linh từ những phân đoạn đã rõ nghĩa – sẽ tạo một môi trường an toàn để học Kinh Thánh. Nhưng tránh những sai lầm kể trên mới chỉ là một vế của phương trình giải kinh. Vẫn còn những nguyên tắc khác cần phải học về sự giải kinh phải lẽ.
Đa phần những thách thức trong việc giải kinh có thể giải quyết được qua việc nghiên cứu kinh văn trong ngữ cảnh rộng lớ của nó.( its wide context).  “Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa của sự loạn lạc” (I Cô 14:33). Và Ngài không khó khăn gì để giải thích về chính Ngài. Nan đề thường là ở phía chúng ta – hoặc là chối bỏ những gì Kinh Thánh nói, sự khác biệt văn hóa của chúng ta so với bối cảnh nguyên thủy của kinh văn,( the text’s original setting), không chịu vâng phục, thiếu sự hiểu biết rộng về kiến thức Kinh Thánh. Dù là trường hợp nào đi nữa, những kỹ năng giải kinh là có thể học được và ứng dụng được. Và trong những ngày tới tôi sẽ giải thích thêm.
 MS nguyễn Đức Na dịch .
( Có tham khảo bản tạm dịch của MS Lê minh Đạt)
 Quý vị có thể tham khảo bản gốc bằng tiếng Anh ở link bên dưới.

http://www.gty.org/blog/B141030

John MacArthur (trích từ Phương pháp học Kinh Thánh)

Đọc sách – Rick Warren

Để lãnh đạo tốt, bạn chắc chắn phải đọc nhiều.
 
Nếu đã từng đến xứ Israel, bạn biết rằng có một sự tương phản rõ rệt giữa Biển Ga-li-lê và Biển Chết. Biển Ga-li-lê đầy nước và đầy sự sống. Nơi đó có cây cối và thảm thực vật. Nơi đó cũng có dịch vụ câu cá. Nhưng Biển Chết thì đúng như tên gọi của nó – chết. Trong biển đó chẳng hề có cá, và cũng chẳng có sự sống xung quanh nó. Biển Ga-li-lê nằm phía trên của xứ Israel, tiếp nhận nước đổ về từ các dãy núi Li-băng. Các dòng nước đổ về phía trên của biển, và thoát ra ở phía dưới. Dòng nước ấy chảy dọc suốt con sông Giô-đanh, và đổ vào Biển Chết. Biển Chết chỉ nhận nước vào nhưng không bao giờ có nước thoát ra. Và vì thế nước bị tù đọng. Vấn đề là, cần phải có sự cân bằng trong đời sống của chúng ta để giữ cho chính mình tươi mới với cả nhập và xuất. Phải có dòng chảy vào và cả dòng chảy ra.
Có ai đó nói rằng, “Khi đầu ra của bạn vượt quá đầu vào, để duy trì, bạn sẽ đi đến chổ sụp đổ.” Phải có sự cân bằng. Nhiều Cơ đốc nhân nhận vào quá nhiều, nhưng thoát ra không tương ứng. Họ tham gia hết lớp Kinh Thánh này đến lớp Kinh Thánh khác. Họ luôn nhận vào nhưng chẳng tham gia hoạt động phục vụ nào. Nan đề của các mục sư thì ngược lại. Chúng ta luôn phải ban ra, và nếu bạn không nhận vào thì sẽ đi đến chổ khô hạn.
Phao-lô viết lá thư thứ hai cho Ti-mô-thê khi đang ở trong ngục. Cuối thư, ông bảo Ti-mô-thê rằng, “Khi con đến, hãy đem theo áo choàng…cùng những sách vở nữa, nhứt là những sách bằng giấy da.” (II Tim 4:13). Khi còn ở trong ngục, những ngày gần cuối đời, Phao-lô muốn có hai thứ: “áo choàng và sách.” C.H. Spurgeon giải thích phân đoạn này như sau:
“Ông (Phao-lô) được hà hơi, nhưng ông vẫn muốn có sách. Ông đã giảng ít nhất là ba mươi năm, nhưng ông vẫn muốn có sách. Ông đã thấy Chúa, nhưng ông vẫn muốn có sách. Ông đã có trải nghiệm rộng khắp hơn hầu hết mọi người, nhưng vẫn muốn có sách. Ông đã được đem lên trời và thấy những điều không được phép nói ra, nhưng ông vẫn muốn có sách. Ông đã viết ra phần lớn của Tân Ước, nhưng ông vẫn muốn có sách.
Oswald Sanders nói thế này trong tác phẩm Lãnh đạo thuộc linh của ông, “Bất cứ ai khao khát tăng trưởng trong tâm linh và trong trí tuệ đều phải luôn luôn đọc sách.” Tôi nhớ mình đã đọc tiểu sử của John Wesley và Jonathan Edwards. Cả hai người này là những cây đa cây đề về mặt trí tuệ. Họ giữ cho chính mình được tươi mới bằng cách đọc sách liên tục khi ngồi ngựa đi từ buổi giảng này sang buổi giảng khác. Bất cứ đi đâu họ cũng mang theo sách. Tôi đã thấy những bức tranh vẽ Wesley cầm sách trên tay và đọc, thậm chí không nhìn xem con ngựa đang đi hướng nào.
Người lãnh đạo là người ham đọc sách. Không phải ai ham đọc sách cũng là lãnh đạo, nhưng là người lãnh đạo thì phải ham đọc sách. Nhiều người đọc sách, nhưng không lãnh đạo. Nếu như bạn phải lãnh đạo, bạn phải đọc để có thể suy nghĩ xa hơn những người đang đi theo bạn.
Đọc sách là rất quan trọng, với ít nhất là bốn lý do như sau:
1.    Đọc để có sự cảm hứng và động lực
Harold Ockenga nói rằng, “Hãy đọc để bơm đầy các giếng cảm hứng của bạn.” William Long, tác giả cuốn Christian Perfection và một số tác phẩm Cơ đốc kinh điển khác, viết thế này, “Đọc những chủ đề khôn ngoan và đạo đức, chỉ đứng sau sự cầu nguyện, là phương cách tốt nhất để làm mới tầm lòng chúng ta. Chúng ta nói về một người khi biết anh ta chơi với ai, nhưng càng biết rõ hơn về anh ta nếu biết anh ta đọc sách gì.” Cá nhân mà nói, tôi ít thấy có điều gì giải thoát tôi khỏi sự uể oải cho bằng đọc được một cuốn sách tốt. Sách làm tuôn chảy trong tôi những sáng tạo. Lý do đầu tiên tôi đọc sách là để có cảm hứng.
2.    Đọc để trau dồi kỹ năng.
Aldous Huxley nói rằng, “Người biết đọc sách là người có năng lực phóng to chính mình, nhân cấp chính mình, khiến đời sống mình trọn vẹn, ý nghĩa và thú vị.” Việc đọc đối với tâm trí cũng giống như việc tập thể dục đối với thân thể. Tâm trí cũng như cơ bắp, càng vận động thì càng khỏe. Bạn sẽ không bao giờ bị kiệt trí cả. Chưa có ai chết vì kiệt trí cả.
Giống như những ngành nghề khác, là một mục sư bạn phải liên tục nâng cấp kỹ năng của mình. Bạn có thể làm điều đó bằng sự đọc. Hãy liệt kê những kỹ năng cần thiết trong chức vụ và đọc về những lĩnh vực đó.
3.    Đọc để học từ người khác
Thật khôn ngoan khi học hỏi từ kinh nghiệm, nhưng càng khôn ngoan hơn khi học từ kinh nghiệm của người khác. Tất cả chúng ta học từ ngôi trường của những cú đấm – thử và sai. Chúng ta không đủ thời gian để tự mình phạm phải mọi sai lầm. Socrates nói, “Hãy dùng thời gian để nâng cấp chính mình bằng những tư liệu của người khác, và bạn sẽ thấy mình dễ chịu hơn bởi những gì người khác đã nhọc công.”
Hãy tận dụng thời gian để đọc những gì người khác đã học, và bạn sẽ học dễ hơn nhiều so với sự nhọc công mà người khác đã trả giá.
Sự thật là, bạn có thể học từ bất kỳ ai. Có thể không đồng ý với mọi việc họ làm, nhưng ai cũng có điều gì đó để dạy bạn. Chúng ta chắt lọc những ý tưởng tốt từ nhiều nguồn khác nhau, tập trung chúng lại theo một dạng thức khác, đó chính là sáng tạo. Điều đúng đã luôn tồn tại. Không có những ý tưởng gọi là thực sự mới. Sáng tạo là lấy những ý tưởng đã có và thể hiện chúng theo một cách mới.
4.    Đọc để bắt kịp thế giới đang thay đổi
Nếu đọc sách là chỉ dấu của sự tăng trưởng cá nhân của người mục sư, thì nhiều mục sư tại Mỹ đã không còn tăng trưởng kể từ khi họ ra trường. Họ không đọc điều gì mới, nhưng mỗi tuần đều phải giảng. Trong xã hội ngày nay, sự lỗi thời đến rất nhanh. Bạn có thể viết một cuốn sách giáo khoa về khoa học, đến lúc nó được xuất bản thì nó đã lỗi thời. Bạn không thể đi suốt chức vụ của mình bằng những gì bạn đã học nơi viện thần học. Bạn phải liên tục lớn lên và liên tục học hỏi.
Với những lý do như thế, tôi muốn chia sẻ một vài cách đọc sách hiệu quả:
–      Phân tích thói quen đọc của mình để xem mình đã đọc gì, và sắp tới cần phải đọc gì.
–      Phải chủ ý lập thời khóa biểu cho việc đọc sách, sau đó đọc từng phần một bất cứ khi bạn ở đâu.
–      Phải cân bằng trong sự đọc. Phải đọc rộng. Đọc cả những người mà bạn không đồng ý với họ. Điều này giúp chúng ta được vươn lên.
–      Đánh dấu vào sách, và ghi chú. Nếu đang dùng phầm mềm đọc sách, hãy dùng chức năng highlight và lưu những ý mình đã đọc.
–      Phải biết những gì không nên đọc. Phải biết những tác giả ưa thích của mình, đọc bìa của cuốn sách, đọc mục lục và tài liệu tham khảo để xem cuốn sách đó có đáng dành thời gian đọc không.
–      Đọc những bài điểm sách và tóm tắt sách để tiết kiệm thời gian.
–      Nên có thư viện riêng, dù cho là bản in hay bản điện tử, để tham khảo và để lại cho hậu thế.
Và trên hết, hãy nhớ rằng Kinh Thánh phải có thứ tự ưu tiên số một trong sự đọc của bạn. Có thể bạn đam mê đọc các sách khác mà bỏ quên Kinh Thánh. Hãy dành thời gian cho Lời Chúa trước khi đọc những thứ khác. Đó là ngọn đèn cho chân ta, ánh sáng cho đường lối ta. Dành thời gian để đọc Kinh Thánh nhiều hơn bất cứ thứ gì khác.
Nếu muốn mình là một nhà lãnh đạo có sự chuyển động lành mạnh, hãy liên tục đọc. Đó là cách duy nhất để giữ mình là người đi đầu.
Bài gốc tiếng Anh tại đây:
http://pastors.com/great-leader-absolutely-must-reader/

Post Navigation