Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

ROMANS 15

51CW85BF1VL

1 We who are strong ought to bear with the failings of the weak and not to please ourselves.

2 Each of us should please his neighbor for his good, to build him up.

3 For even Christ did not please himself but, as it is written: “The insults of those who insult you have fallen on me.”

4 For everything that was written in the past was written to teach us, so that through endurance and the encouragement of the Scriptures we might have hope.

5 May the God who gives endurance and encouragement give you a spirit of unity among yourselves as you follow Christ Jesus,

6 so that with one heart and mouth you may glorify the God and Father of our Lord Jesus Christ.

7 Accept one another, then, just as Christ accepted you, in order to bring praise to God.

8 For I tell you that Christ has become a servant of the Jews on behalf of God’s truth, to confirm the promises made to the patriarchs

9 so that the Gentiles may glorify God for his mercy, as it is written: “Therefore I will praise you among the Gentiles; I will sing hymns to your name.”

10 Again, it says, “Rejoice, O Gentiles, with his people.”

11 And again, “Praise the Lord, all you Gentiles, and sing praises to him, all you peoples.”

12 And again, Isaiah says, “The Root of Jesse will spring up, one who will arise to rule over the nations; the Gentiles will hope in him.”

13 May the God of hope fill you with all joy and peace as you trust in him, so that you may overflow with hope by the power of the Holy Spirit.

Paul the Minister to the Gentiles

14 I myself am convinced, my brothers, that you yourselves are full of goodness,complete in knowledge and competent to instruct one another.

15 I have written you quite boldly on some points, as if to remind you of them again, because of the grace God gave me

16 to be a minister of Christ Jesus to the Gentiles with the priestly duty of proclaiming the gospel of God, so that the Gentiles might become an offering acceptable to God, sanctified by the Holy Spirit.

17 Therefore I glory in Christ Jesus in my service to God.

18 I will not venture to speak of anything except what Christ has accomplished through me in leading the Gentiles to obey God by what I have said and done–

19 by the power of signs and miracles, through the power of the Spirit. So from Jerusalem all the way around to Illyricum, I have fully proclaimed the gospel of Christ.

20 It has always been my ambition to preach the gospel where Christ was not known, so that I would not be building on someone else’s foundation.

21 Rather, as it is written: “Those who were not told about him will see, and those who have not heard will understand.”

22 This is why I have often been hindered from coming to you.

Paul’s Plan to Visit Rome

23 But now that there is no more place for me to work in these regions, and since I have been longing for many years to see you,

24 I plan to do so when I go to Spain. I hope to visit you while passing through and to have you assist me on my journey there, after I have enjoyed your company for a while.

25 Now, however, I am on my way to Jerusalem in the service of the saints there.

26 For Macedonia and Achaia were pleased to make a contribution for the poor among the saints in Jerusalem.

27 They were pleased to do it, and indeed they owe it to them. For if the Gentiles have shared in the Jews’ spiritual blessings, they owe it to the Jews to share with them their material blessings.

28 So after I have completed this task and have made sure that they have received this fruit, I will go to Spain and visit you on the way.

29 I know that when I come to you, I will come in the full measure of the blessing of Christ.

30 I urge you, brothers, by our Lord Jesus Christ and by the love of the Spirit, to join me in my struggle by praying to God for me.

31 Pray that I may be rescued from the unbelievers in Judea and that my service in Jerusalem may be acceptable to the saints there,

32 so that by God’s will I may come to you with joy and together with you be refreshed.

33 The God of peace be with you all. Amen.

I/ Introductrion 

Let us continue to study Romans 15 containing the main ideas:

– The strong ought to bear the failings of the weak.
– Paul’s ministry to the Gentiles.
– Paul’s plan to visit Rome on the way to Spain.


II/ New words and expressions   
– failing(n): nhược điểm; khuyết điểm.
– Ought to ( defective verb): nên ( với bổn phận và trách nhiệm.(v1)
Ought not ( negative).
– To insult (v) lăng mạ; sỉ nhục; (n): lời lăng mạ, sỉ nhục.(v3)
– in order to ( prep) để. (v7)
– Partriarch (n) tổ phụ. (v8)
– Peoples (n) các dân tộc.( noun in plural)
– To overflow(v) dư dật (v13).
– To convince: tin chắc (v14).
– Competent (a): có tài năng; giỏi.
– priest (n) thầy tế lễ; priestly   (a) thuộc về thầy tế lễ  ( v16).
– To venture : liều; cả gan; dám.(v18).
( saying: ” No venture, no win”: được ăn cả, ngả về không ).
– To long: mong  mỏi; ước mong.(23).
– Now that ( conjunction): vì


III/ Dificult sentences .
1/” We who are strong ought to bear with the failings of the weak and not to please ourselves.” ( v1)
This sentence has 2 clauses:
– Main clause is ” We ought to bear with the  failings of the weak and ( ought) not to please ourselves”.
– Subordinate clause  (Adjective relative clause) : ” who are strong”  modifying the main clause.
( Sát nghĩa theo cấu trúc ngữ pháp câu này có nghĩa:
Chúng ta người mạnh mẽ nên ( với bổn phận ) mang lấy những nhược điểm của kẻ yếu và không nên tự thỏa lòng mình.)
“vậy, chính ta là kẻ mạnh, hãy gánh vác sự yếu đuối của những kẻ kém sức, chớ làm đẹp lòng mình.”( bản dịch của MS tiến sĩ Nguyễn Cảnh năm 2014).


2/ “The insults of those who insult you have fallen on me.” (v3b)
– Main clause is ” The insults of those ( people) have fallen on me”
– Subordinate clause ( mệnh đề phụ) : “Who insult you” ( relative clause modifying the people)
( những lời sĩ nhục của kẻ sỉ nhục Ngài đã ( và còn) đổ trên con.)
” Lời trách móc của những kẻ trách móc Ngài xin đổ trên con” ( Bảm dịch 2014 của MS Nguyễn Cảnh ).


3/ “For everything that was written in the past was written to teach us, so that through endurance and the encouragement of the Scriptures we might have hope.” ( v4)
In this sentence there are 3 clauses:
-Main clause :“For Everything was written to teach us”
– Relative clause ” that was written in the past” modifying ” everything”
– Adverb clause of purpose ” so that through endurance and the encouragement of the Scripture we might have hope.”
We can rewrite this clause like this:
So that we might have hope through endurance and the encouragement of the Scripture.
( According to the grammartical structure of the sentence which has meaning : Mọi sự mà đã được chép trong quá khứ thì đã được chép để dạy dỗ chúng ta để bởi sự nhịn nhục và sự khích lệ của kinh thánh mà chúng ta có thể có được sự hy vọng.)
” Mọi sự đã được chép từ xưa  là để dạy dỗ chúng ta, hầu cho bởi sự nhịn nhục và sự an ủi của Thánh kinh dạy mà chúng ta được sự trông cậy” ( 2014 MSTS NC).

4/ “May the God who gives endurance and encouragement give you a spirit of unity among yourselves as you follow Christ Jesus, so that with one heart and mouth you may glorify the God and Father of our Lord Jesus Christ.”  ( v 5+6)
According to the grammartical structure v5 and V6 make up a complete sentence .
V5 is main clause with a subordinate clause ( relative clause: ” who gives endurance and encouragement”. And the adverb clause of time ” As you follow Christ Jesus”
V6 is adverb clause of purpose ( mệnh đề trạng ngữ chỉ mục đích) (nguyền xin Đức Chúa Trời Đấng kcho anh em sự chịu đựng và sự khích lệ ban cho anh em một tâm tình hiệp một trong vòng anh em khi anh em theo Christ Jesus để với một lòng và một miệng  anh em có thể ca ngợi Đức Chúa Trời và là Cha của chúa Jesus Christ chúng ta)


5/ “
But now that there is no more place for me to work in these regions, and since I have been longing for many years to see you, I plan to do so when I go to Spain. I hope to visit you while passing through and to have you assist me on my journey there, after I have enjoyed your company for a while.”  (v 23+ 24).
Two these verses build up a complete sentence.
+ Main clause ” I plan to do so”
+ 3 subordinate clauses:
Among them:
– 2 adverb clauses of reason ( mệnh đề trạng ngữ chỉ lý do)
a/ ” Now that ( vì) there is no more place for me to work in these regions”
b/ ” Since ( vì) I have been longing for many years to see you.”
b/ the adverb clause of time ( mệnh đề trạng ngữ chỉ thời gian) ” when I go to Spain” ( khi tôi đi đến Tây Ban Nha (Y Pha Nho).
Conclusion:
I think after studying Romans 15 you can understand God’s will more clearly.

” I keep asking that the God of our Lord Jesus Christ, the glorious Father, may give you the Spirit of wisdom and revelation, so that you may know him better” ( Ephesians 1:17)

BAN BIÊN TẬP
( Prepared by Mục sư  Nguyễn Đức Na)
Giáo Hôi Tin Lành Liên Hiệp
Toàn Cầu-Việt Nam.

TÁC PHẨM

Vì chúng ta là những tác phẩm của Ngài, được tạo dựng trong Ðức Chúa Jesus Christ, để thực hiện những việc tốt đẹp mà Ðức Chúa Trời đã chuẩn bị trước, hầu chúng ta cứ theo đó mà sống. (Êphêsô 2:10)

Em đứng ngắm cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ,
Cả khung trời, không biên giới mông mênh.
Núi trên cao, với mây trắng bồng bềnh,
Dưới đất thấp, dòng sông xanh nước chảy.

Hoa bướm lượn, với chim muông bay nhảy,
Biển sông hồ, đầy cá lội tung tăng.
Rừng xanh kia, muôn thú sống an bằng,
Như tác phẩm, nét đan thanh diễm lệ.

Thuở sơ khai, khi Chúa Trời sáng thế,
Tạo muôn loài, muôn vật với ngàn sao.
Như bức tranh, huyền nhiệm, đẹp dường bao,
Ngài chỉ phán đây là điều “tốt đẹp.” 1

Nhưng, khi tạo nhân sinh bằng đất sét
Bằng tấm lòng, tâm trí, sự hà hơi.
Người trở nên một tác phẩm tuyệt vời,
“Rất tốt đẹp” Ngài định tuyên tốt nhất. 2

Người “rất tốt”, tốt nhiều hơn muôn vật,
Hơn muôn loài, hơn cả những trăng sao.
Hơn kim cương, hơn cả của báu nào,
Cả thế giới, trần gian đâu sánh kịp. 3

Người, tác phẩm, một nhân sinh tuyệt đẹp,
Người là nguồn cảm hứng của Thượng thiên.
Là bàn tay, là tim óc, bạn hiền, 4
Là kế tự, đầy tinh hoa Thiên Chúa.

Người, tác phẩm, giá trị ngàn muôn thủa,
Cả phần hồn, thể chất và tâm linh.
Là nhạc, thơ, màu sắc cõi vô hình
Là báu vật, là vinh quang thế giới.

Em là một tác phẩm Ngài mong đợi,
Đã mua bằng huyết báu Chúa Giê-xu. 5
Ngài thứ tha, cất khỏi những phiền ưu,
Ngài tẩy sạch, ban hồn linh thanh khiết.

Anh, tác phẩm của tình yêu ưu việt,
Ngài muốn gần, muốn kế cận bên anh.
Muốn ban ơn, muốn dẫn dắt chúc lành,
Muốn sở hữu, đem anh về thiên quốc. 6

Trên áo Chúa, giữa bức tranh cứu chuộc, 7
Với muôn ngàn họạ phẩm có tên anh.
Đầy hiển vinh, màu sắc, tỏa muôn hình,
Anh vui thoả, cùng thánh nhân chiêm ngưỡng.

THANH HỮU
Tháng 8 năm 2015

1. Sáng thế ký 1: 18, 21, 25
2. Sang thế ký 1:31
3. Mathiơ 16:26
4. Giăng 15:14, Luca 12:4
5. Êphêsô 2:10
6. 1Giăng 19
7. Esai 6:1

BỐN LOẠI MÃO MIỆN

BỐN LOẠI MÃO MIỆN—

  1. Mão Miện Bất Hủ: “Mọi người đấu sức trong cuộc đua thì tiết chế mọi sự. Vả, họ làm vậy chẳng qua là để lãnh mão miện hay hư nát, còn chúng ta thì để lãnh mão miện chẳng hay hư nát.  Vậy, tôi chạy, chẳng phải là chạy bá vơ, tôi đấu quyền, chẳng phải là đánh gió;  song tôi khắc khổ thân thể tôi, bắt nó phải phục, e rằng sau khi tôi đã rao giảng cho kẻ khác, mà chính mình tôi phải bị loại ra chăng” (1 Cor. 9:25-27).

Mão triều bất hủ không tàn,

Thưởng cho người chạy đường tràng thành công;

Cho ai tiết chế hết lòng,

Sợ mình bị loại trong vòng thẩm tra.

  1. Mão Miện Vinh Hiển: “Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời ở giữa anh em, theo ý Đức Chúa Trời mà coi sóc, chẳng phải bởi ép buộc, bèn là bởi tình nguyện; cũng chẳng phải vì lợi đê hèn, bèn là vì sẵn lòng;  cũng chẳng phải là chủ trị cơ nghiệp đã chia cho anh em, bèn để làm gương mẫu cho bầy.  Khi Đấng chăn chiên trưởng hiện ra, thì anh em sẽ nhận được mão miện vinh hiển chẳng hề tàn héo” (1 Phiero 5:2-14).

Mão triều vinh hiển hoàng gia,

Thưởng người chăn giữ chiên nhà Chúa tôi,

Không tìm lợi lộc đê tồi,

Làm gương mẫu tốt, không ngồi trên dân.

  1. Mão Miện Công Nghĩa: “Vì ta đang bị đổ ra như lễ quán, kỳ qua đời của ta gần rồi. Ta đã đánh trận tốt đẹp, ta đã chạy xong cuộc đua, ta đã giữ được đức tin.  Từ rày về sau mão miện công nghĩa đã để dành cho ta, Chúa là quan án công nghĩa, sẽ ban mão ấy cho ta trong ngày đó, chẳng những cho ta mà thôi, nhưng cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện ra của Ngài nữa” (2 Tim. 4:6-8).

Mão triều công nghĩa tuyệt luân,

Thưởng cho tớ thánh tận trung mãn đời,

Rước vào vương quốc trên trời,

Chúa cho đồng trị thỏa vui muôn đời.

  1. Mão miện Sự Sống: “Phước cho người bền chịu sự cám dỗ, vì lúc đã chịu thử nghiệm rồi, thì sẽ lãnh mão miện của sự sống, mà Chúa đã hứa cho kẻ thương yêu Ngài- Khá trung tín cho đến chết, rồi ta sẽ ban cho ngươi mão miện của sự sống” (Gia cơ 1:12- Khải 2:10).

Mão triều sự sống sáng ngời,

Ban người yêu kính Chúa Trời không phai,

Trung thành đến chết chẳng nài,

Hưởng phần sự sống ít ai dự vào./.

Minh Khải- 27-8-2015

CHÚA GHÉT ĐẢNG NI-CÔ-LA-

“Song ngươi còn có điều khá nầy, là ngươi ghét công việc của đảng Ni-cô-la, mà ta cũng ghét nữa –vì tại đó ngươi có kẻ giữ theo giáo lý của Ba-la-am. Ngươi lại cũng có kẻ giữ theo giáo lý của đảng Ni-cô-la cách ấy nữa-Nhưng có điều ta trách ngươi, ấy là ngươi dung nhượng cho đàn bà Giê-sa-bên kia, là kẻ tự xưng mình là nữ tiên tri, dạy dỗ và dẫn dụ các đầy tớ ta phạm gian dâm và ăn của cúng hình tượng” (Khải 2: 6,14-15, 20).

Ni-cô-la nghĩa gì ta?

“Ni-cô” là thắng trên”la”—dân thường;

Đó là tập thể quân vương,

Khoác lên lối sống coi thường thiên dân.

Chúa không xếp đặt giai tầng,

Cũng không vị nể thánh dân thể nào;

Christ nhân đều được xức dầu,

Ngài không biệt đãi ai đâu ngoài hàng.

Chức danh “tôi tớ” Chúa ban

Cho người được cứu tự ngàn xưa nay;

Có lớp người tự lên ngai,

Trung gian Chúa với dân Ngài ở đây;

Chúa cấm chịu gọi là “thầy”,

Đừng làm “cha, chủ” trên bầy chiên ngoan;

Nước thầy tế lễ rõ ràng,

Mọi người đến Chúa ngang hàng tỏ ra;

Tiếc thay đảng ni-cô-la,

Đứng chen vào giữa chúng ta với Ngài;

Trước tiên lối sống phô bày,

Sau thành giáo lí quản cai nhiều đời;

Giảng rằng: “ai phạm đến người,

“Khó toàn tánh mạng, cuộc đời tiêu tan”;

Độc quyền đứng chỗ cao sang,

Ngồi đầu tiệc yến, nghênh ngang ngoài đường.

Chúa lập mục tử yêu thương,

Chăn nuôi, bảo dưỡng, lo lường thiên dân,

Không nhờ bầy để vinh thân,

Chăn thuê, giảng mướn vô cùng xấu xa;

Chúa căm ghét Ni-cô-la,

Ba-la-am ấy cũng là đồng môn,

Giê-sa-bên quá gớm hơn,

Bọn người tội phạm Chúa luôn danh đề,

Nay mai Chúa sẽ quay về,

Phân thây bọn ấy nặng nề lắm thay./.

Minh Khải-  23-8-2015-

( Nguồn: CV 11:16; Mathio 23: 8-9; 25:14-15, 50-51 “Ấy cũng ở An-ti-ốt mà môn đồ được gọi là Cơ-đốc đồ trước nhứt–Nhưng các ngươi đừng chịu ai gọi mình bằng Ra-bi, vì chỉ có một Đấng là Thầy các ngươi, còn các ngươi thảy đều là anh em.  Cũng đừng gọi ai ở dưới đất là cha, vì các ngươi chỉ có một Cha, là Đấng ở trên trời–“Lại, nước trời ví như một người kia sắp qua xứ khác, gọi các đầy tớ giao của cải cho.  Chủ giao cho kẻ nầy năm ta lâng, kẻ kia hai, kẻ khác một, tuỳ tài mỗi người; đoạn chủ lên đường– chủ nó sẽ đến trong ngày nó không ngờ, giờ nó không hay,  mà phân thây nó, và định cho nó đồng phần với kẻ giả hình; tại đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng.”.

BẢN TIN MỤC VỤ

– Thứ 7, ngày 8/8

+ HT Đông Thuận:

Nhân dịp về thăm Giáo khu Cần thơ và đợt sinh hoạt hè 2015 của các cháu, MS trưởng Đoàn Từ Thiện Giô sép-VN kết hợp tặng quà và tập vở cho các em để vào năm học mới.
Các em rất vui vẻ và hứa sẽ học tập tốt và thực hiện lời Kinh thánh yêu thương mọi người.unnamed (1)

Học bổng được phát cho các em trong dịp MS Hội trưởng về thăm đợt sinh hoạt hè của Giáo khu Cần thơ ngày 8/8/2015.

unnamed

+ HT Trung Hưng

Mục sư Nguyễn Đức Na Giáo Hội Trưởng và cũng là Trưởng Đoàn Từ Thiện Giô- sép ( Joseph  Chairity Group In VN: JCG-VN) phát tập vở, học bổng và quà cho các cháu thuộc 2 hội thánh Tin lành Liên Hiệp Trung Hưng 1 và HTTLLH Đông Thắng 1 vào chiều ngày 8/8/3015.

unnamed (2)

– Chúa Nhật, ngày 9/8

       HT Thới Tân:

Sáng chúa nhật Mục sư Nguyễn Đức Na Giáo Hội Trưởng tặng vở và quà cho tất cả các em tham gia sinh hoạt Hè tai HT Thới Tân1, Cần thơ.

unnamed (3)

Trao 6 học bổng cho các em học sinh tiến tiến trở lên và yêu mến Chúa tại HTTLLH Thới-Tân1, Thới lai, Cần Thơ.unnamed (4)

Sau khi trao đổi rút kinh nghiệm cho đợt ” Sinh Hoạt Hè”, các buổi thờ phượng Chúa và các bài giảng của các Quản nhiệm, Ban chấp hành có bửa cơm tối  thân mật cùng MS HT và MS Hội trưởng Nguyễn Đức Na tặng quà cho các viên chức trong BCH giáo khu.unnamed (5)

– Lớp Thánh Kinh Hè của Thanh niên HTTLLH Ba Cụm Bắc1, Gkhu Khánh Sơn, Khánh Hoà.unnamed (6)

 

– Thánh kinh Hè 2015 cho các cháu thiếu niên tại Hội thánh Tin lành Liên Hiệp Ba-Cụm-Bắc1, Gkhu Khánh-Sơn, Khánh Hoàunnamed (7)

 

– Các cháu lớp Thánh Kinh Hè   sinh hoạt tại HT TLLH Gia Bắc1, giáo khu Lâm Đồng.unnamed (8)

ROMANS 14

51CW85BF1VL

The Weak and the Strong

1 Accept him whose faith is weak, without passing judgment on disputable matters.

2 One man’s faith allows him to eat everything, but another man, whose faith is weak, eats only vegetables.

3 The man who eats everything must not look down on him who does not, and the man who does not eat everything must not condemn the man who does, for God has accepted him.

4 Who are you to judge someone else’s servant? To his own master he stands or falls. And he will stand, for the Lord is able to make him stand.

5One man considers one day more sacred than another; another man considers every day alike. Each one should be fully convinced in his own mind.

6 He who regards one day as special, does so to the Lord. He who eats meat, eats to the Lord, for he gives thanks to God; and he who abstains, does so to the Lord and gives thanks to God.

7 For none of us lives to himself alone and none of us dies to himself alone.

8 If we live, we live to the Lord; and if we die, we die to the Lord. So, whether we live or die, we belong to the Lord.

9 For this very reason, Christ died and returned to life so that he might be the Lord of both the dead and the living.

10 You, then, why do you judge your brother? Or why do you look down on your brother? For we will all stand before God’s judgment seat.

11 It is written: ” ‘As surely as I live,’ says the Lord, ‘every knee will bow before me; every tongue will confess to God.’ ”

12 So then, each of us will give an account of himself to God.

13 Therefore let us stop passing judgment on one another. Instead, make up your mind not to put any stumbling block or obstacle in your brother’s way.

14 As one who is in the Lord Jesus, I am fully convinced that no food is unclean in itself. But if anyone regards something as unclean, then for him it is unclean.

15 If your brother is distressed because of what you eat, you are no longer acting in love. Do not by your eating destroy your brother for whom Christ died.

16 Do not allow what you consider good to be spoken of as evil.

17 For the kingdom of God is not a matter of eating and drinking, but of righteousness, peace and joy in the Holy Spirit,

18 because anyone who serves Christ in this way is pleasing to God and approved by men.

19 Let us therefore make every effort to do what leads to peace and to mutual edification.

20 Do not destroy the work of God for the sake of food. All food is clean, but it is wrong for a man to eat anything that causes someone else to stumble.

21 It is better not to eat meat or drink wine or to do anything else that will cause your brother to fall.

22 So whatever you believe about these things keep between yourself and God. Blessed is the man who does not condemn himself by what he approves.

23 But the man who has doubts is condemned if he eats, because his eating is not from faith; and everything that does not come from faith is sin.

I/ Introduction:
Let’s continue to study Romans 14 which expresses the ideas  of accepting the person whose faith is weak without passing judgement on disputable matters with some clear examples.

II/ Vocabulary:
– To pass judgement on a matter (v1): đưa ra nhận xét/ định tội một vấn đề.
– Disputable (a) :có thể tranh cải (v1).
– To look down: khinh dễ; coi thường.
– Condemn: xét đoán; kết án(v3).
– To abstain: kiên cử; nhịn (v6).
– Judgement/ judgment seat: toà án (10).
– To bow: cúi đầu; khom lưng; quỳ gối. (V11)
– To give an account ( of): Khai trinh ( về).(12)
– To make up one’s mind: quyết định.( 13)
– obstacle (n) chướng ngại vật.(13)
– Convinced (a): tin chắc.(14)
– Distressed (a) đau buồn (25)
– To make every effort:cố gắng hết sức mình.(19)
– Edification (n): sự soi sáng (19)
– Edifying )v) soi sáng.
– For the sake of: vì (20) ; for God’s sake: vì Chúa,
– To cause: gây ra ( 21).

III/ Difficult sentences:

1/ Accept him whose faith is weak, without passing judgment on disputable matters.” ( v1)

” passing” is gerund ( danh động từ) because it is the object of preposition ” without”.

Dịch sát theo ngữ pháp của câu:

(Hãy tiếp nhận người mà đức tin của họ còn yếu mà không bàn luận để định tội)

– Hãy tiếp nhận người yếu đức tin, đừng tranh luận với họ về các quan điểm ( Bản tuyền thống hiệu đính)

Mục sư tiến sĩ Nguyễn Cảnh theo Ông dịch từ bản gốc tiếng Hy lạp: Hãy tiếp nhận kẻ kém đức tin, đừng có ý đoán xét.

2/Who are you to judge someone else’s servant?”  (v4a).

We can use possessive case with someone else:

” someone else’s servant”

( đày tớ của một người ( nào đó) khác.)

Some other examples:

a/ “And if  you have not been trustworthy with someone else’s property who will give you property of your own.” ( Luke 16:12)

b/ ” It has always been my ambition to preach the Godpel where Christ was not known, so that I would not be building on someone else’s foundation”.

( Sự ham muốn của tôi  luôn luôn là giảng phúc âm ở nơi nào mà Đấng Christ chưa được biết đến để tôi sẽ không lập trên nền của người khác.)

Lưu ý trong câu này ” It “ is expletive , false subject; ” to preach Gospel …” is the real subject.

“Would not be building” is subjunctive tense ( thì giả định).

c/ Naomi said to Ruth, her daughter-in-law,” It will be good for you, my daughter, to go with the women who work for him, because someone else’s field you might be harmed.” ( Ruth2:22)

3/ One man considers one day more sacred than another; another man considers every day alike. Each one should be fully convinced in his own mind.” (v5)

“Consider” is the kind of verb which has an object and an objective complement .

” one day” and ” every day” are objects .

” more sacred than other” and ” alike” are objective complements

(Một người coi/ xem một ngày (là)

thánh hơn ngày khác; người khác lại coi mọi ngày ( thì) giống nhau.

4/ For this very reason, Christ died and returned to life so that he might be the Lord of both the dead and the living.” (V9)

” dead” and ” living” are adjectives  used as a noun with article ” the” put right before it.( hạng người sống và loại người chết )

” The Weak and the Strong” are used in the same way.

5/ So whatever you believe about these things keep between yourself and God. Blessed is the man who does not condemn himself by what he approves.” ( V22)

” whatever” is double relative pronoun which means ” anything that”

We can rewrite this sentence like this:

So anything that you believe about these things keep between yourself and God. Blessed is the man who does not condemn himself by what he approved.

Relative pronouns ” that” must be used after indefinite pronoun ” anything”

Sát nghĩa theo ngữ pháp trong câu thì có thể hiểu như sau :

Bất cứ điều gì mà ngươi tin về các việc này hãy giữ giữa ngươi và Đức Chúa Trời.Phước cho kẻ không định tội  chính mình bởi những gì mình đã ưng thuận.

6/ But the man who has doubts is condemned if he eats, because his eating is not from faith; and everything that does not come from faith is sin.”  (v 23)

Relative pronoun “that” must be used after indefinite pronoun ” everything” that is we may not use relative pronoun “which” here.

Các bạn có thể hiểu rõ nghĩa của câu theo ngữ pháp đã được sử dụng.

MS TS Nguyễn Cảnh dịch như vầy theo nguyên ngữ Hy lạp :

Những ai có lòng nghi ngờ về đồ mình ăn, thì người ấy đã bị định tội rồi , vì chẳng làm bởi đức tin. Phàm làm điều chi không bởi đức tin là tội lỗi.

We hope to help you to study Bible (NIV) through grammar and you can understand God’s will more clearly.
Ban Biên Tập.
( Prepared by MS  JosephNa)

ĐỨC TIN HƯỚNG DẪN VIỆC LÀNH

“Ru-tơ thưa rằng: Xin chớ nài tôi phân rẽ mẹ; vì mẹ đi đâu, tôi sẽ đi đó; mẹ ở nơi nào, tôi sẽ ở nơi đó. Dân sự của mẹ, tức là dân sự của tôi; Đức Chúa Trời của mẹ, tức là Đức Chúa Trời của tôi” (Ru-tơ 1:16).

Câu hỏi suy ngẫm: Bà Ru-tơ đang đối diện với hòan cảnh nào (câu 5, 11, 14, 15)? Nếu là bà Ru-tơ, bạn sẽ quyết định ra sao? Bà Ru-tơ đã quyết định thế nào (câu 16-17)? Vì sao bà Ru-tơ đưa ra quyết định này? Bạn thấy có tương quan nào giữa đức tin và việc lành?

Bà Ru-tơ là một phụ nữ người Mô-áp (câu 4), một dân tộc bị rủa sả (Phục Truyền 23:3; Thi-thiên 108:9). Bà biết đến Đức Chúa Trời trong một giai đoạn suy thoái thuộc linh của người Ít-ra-ên, thời các Quan Xét (câu 1, Các Quan Xét 21:25), qua một gia đình đã rời bỏ lời hứa và mệnh lệnh của Đức Chúa Trời, đến định cư tại Mô-áp và cưới con gái Mô-áp cho con trai (câu 1, 4), cùng với một bà gia đầy cay đắng với Đức Chúa Trời (câu 20-21).

Bà Ru-tơ cũng đang đối diện với một hoàn cảnh đầy khó khăn và thách thức khi chồng qua đời (câu 5), mẹ chồng muốn trở về Ít-ra-ên (câu 6) và không muốn các con dâu đi theo (câu 8), người chị dâu cũng đã quyết định ở lại xứ Mô-áp (câu 14a). Tuy nhiên, bà Ru-tơ vẫn quyết định theo mẹ chồng trở về Ít-ra-ên.

Đối với nhiều người, quyết định của bà Ru-tơ là một quyết định thiếu khôn ngoan. Khi theo bà Na-ô-mi trở về Ít-ra-ên, bà Ru-tơ đã chấp nhận đánh mất quê hương, gia đình, cùng với sự an toàn khi dời đến một nơi thù ghét và khinh bỉ người Mô-áp. Hơn thế nữa, tình trạng hôn nhân của bà trong tương lai cũng không có lối thoát (câu 11-13), và hoàn toàn trắng tay về tài chính (câu 21a).

Vì sao bà Ru-tơ chấp nhận theo bà Na-ô-mi để trở về Ít-ra-ên? Vì bà Ru-tơ muốn gắn bó với bà Na-ô-mi (câu 16-17)? Vì sao bà Ru-tơ lại muốn gắn bó với ba Na-ô-mi? Có thể chúng ta không có câu trả lời trực tiếp từ Kinh Thánh, nhưng xuyên suốt sách Ru-tơ, chúng ta nhận ra bà Ru-tơ đã hy sinh mọi thứ cùng bà Na-ô-mi trở về Ít-ra-ên là để chăm sóc, giúp đỡ người mẹ chồng đầy cay đắng, ngã lòng, và không ai nương tựa.

Điều gì đã chi phối trên quyết định của bà Ru-tơ? “Na-ô-mi nói cùng Ru-tơ rằng: Này, chị con đã trở về quê hương và thần của nó” (câu 15a), nhưng bà Ru-tơ đã xác nhận với bà Na-ô-mi rằng các thần của Mô-áp không còn là thần của bà, Đấng mà bà hiện đang thờ phượng là Đức Chúa Trời (câu 16a).

Tại đây, chúng ta nhận ra hai phương diện của đức tin. Phương diện thứ nhất là ân sủng của Đức Chúa Trời dành cho người được chọn. Rõ ràng những gì bà Ru-tơ nhận biết về Đức Chúa Trời qua cuộc sống xã hội và gia đình là không tốt đẹp, nhưng bởi ân sủng, Đức Chúa Trời đã giữ gìn và ban cho bà một đức tin mạnh mẽ. Phương diện thứ hai là kết quả của đức tin. Bà Ru-tơ đã nhận ân sủng từ Đức Chúa Trời, và bà đã dùng cuộc đời mình để truyền tải ân sủng của Chúa đến cho người khác.

Lạy Chúa, xin cho con có tấm lòng của Chúa để biết thương cảm và nâng đỡ những cảnh đời đau khổ quanh con.

MƯỜI HAI SỨ ĐỒ

“1 Đức Chúa Jêsus gọi mười hai môn đồ đến, ban quyền phép trừ tà ma, và chữa các thứ tật bịnh. 2 Tên mười hai sứ đồ như sau nầy: Sứ đồ thứ nhất là Si-môn, cũng gọi là Phi-e-rơ, và Anh-rê là em người; Gia-cơ con của Xê-bê-đê, và Giăng là em Gia-cơ; 3 Phi-líp cùng Ba-tê-lê-my; Thô-ma, và Ma-thi-ơ là người thâu thuế; Gia-cơ con của A-phê, cùng Tha-đê; 4 Si-môn là người Ca-na-an, cùng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là kẻ phản Đức Chúa Jêsus.”

 Xin đọc thêm Mác 3:16-19; Lu-ca 6:13-16; Mác 15:40; Giăng 1:45; Giăng 14:22 và Giăng 19:25. Dựa vào các phân đoạn Kinh Thánh nầy, chúng ta có thể đi đến những kết luận nào về các sứ đồ Ba-tê-lê-mi,  Gia-cơ con của A-phê và Tha-đê?

 Danh sách mười hai sứ đồ của Chúa Giê-xu được ghi lại trong ba sách Phúc Âm và sách Công vụ các sứ đồ. Bảng danh sách nầy tương tự như nhau, ngoại trừ Tha-đê được gọi là Giu-đe con của Gia-cơ trong sách Lu-ca và Công vụ các sứ đồ. Như vậy sứ đồ Tha-đê và Giu-đe con của Gia-cơ là một người. Trong Giăng 14:22, sứ đồ Giăng xác nhận: Giu-đe chớ không phải là Ích-ca-ri-ốt (Giu-đa và Giu-đe trong nguyên văn là cùng một chữ). Như vậy, Giu-đe được gọi là Tha-đê trong Ma-thi-ơ và Mác là để không bị lầm lẫn với Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Giu-đe nầy cũng khác với Giu-đe, tác giả Thư Giu-đe. Tác giả Thư Giu-đe là em của Gia-cơ (Giu-đe 1) và Gia-cơ nầy là người em cùng mẹ với Chúa Giê-xu, là một trong những người lãnh đạo Hội Thánh Giê-ru-sa-lem (Công vụ 15:13).

Ba-tê-lê-mi có thể là một tên gọi khác của Na-tha-na-ên vì bảng danh sách mười hai sứ đồ trong các sách Phúc Âm luôn luôn ghi Ba-tê-lê-mi chung với Phi-líp. Phi-líp là người đã giới thiệu Chúa Giê-xu với Na-tha-na-ên (Giăng 1:45).

Vì Ma-thi-ơ cũng là con của A-phê (Mác 2:14) nên có người cho rằng Ma-thi-ơ và Gia-cơ con của A-phê là anh em. Có lẽ đây chỉ là hai người trùng tên chứ không có liên hệ. Mác 15:40 nhắc đến Gia-cơ nhỏ (nhỏ tuổi hay nhỏ người). Đây là Gia-cơ con của A-phê để phân biệt với Gia-cơ con của Xê-bê-đê.

Si-môn người Ca-na-an (theo Ma-thi-ơ và Mác) và Si-môn gọi là Xê-lốt (theo Lu-ca) là một người.

TẠI SAO?

Anh thử nghĩ nan đề nào lớn nhất,
Khi Con Trời vào thế giới trần gian ?
Bao khổ đau bao thử thách ngút ngàn,
Để hoàn tất chương trình ơn cứu rỗi?

Thiên nhiên nào, dám ngăn đường cản lối?
Sóng cồn nào, tạo giông bão cản chân
Chúa Giê-xu chỉ tuyên bố một lần
“Phải yên lặng”, sóng liền yên bão tố. 1

Bệnh tật nào, dám cản đường thiên lộ?
Chúa chỉ rờ, chỉ phán phải lành ngay 2
Bệnh lìa xa, sức sống mới tràn đầy,
Trong vui thỏa, đầy mừng vui cảm tạ.

Núi lớn nào, hoặc cỏ cây hoa lá
Dám chặn đường, tiến bước nguồn cứu ân.
Lời đức tin, nâng cao núi ngàn cân
Quăng xuống biển, đem bình an phước hạnh. 3

Quỉ dữ nào, gây khó khăn vướn bận,
Trên hành trình giảng đao cho thế nhân.
Chúa Giê xu, chỉ phán có một lần
Qủi khuất phục, lìa xa người ám ảnh. 4

Dây sự chết, đầy quyền uy sức mạnh,
Cuốn chặt hồn, thân thể La-xa-rơ.
Chúa phán tuyên, ban sức sống vô bờ
Quyền lực chết rút lui trong yên lặng 5

Nhưng, tại sao với người Chúa nhã nhặn,
Chỉ dùng lời phán dạy và khuyên lơn.
Sao ngài không nói nghiêm khắc nhiều hơn,
Không ra lệnh như thiên nhiên, ma quỉ ?

Sao Ngài không, diệt trừ những kẻ dữ ?
Để lộng hành, dám sỉ vả đóng đinh? 6
Dám treo thân, dám giết Chúa khổ hình?
Trên thập giá giữa đất trời tủi nhục?

Con cảm nhận, tình yêu cao cùng cực,
Muốn cứu người Chúa đã phải hy sinh.
Để nâng con, hư mất đến thiên đình
Nhận cứu rỗi, nhận quyền năng vinh hiển. 7

Ôi tình Chúa, ngôn từ không suy diễn!
Con cúi đầu để lệ nhỏ trong tim
Con bơi trong sông Linh Thánh ngập chìm 8
Nguồn nước sống tràn hồn linh cảm tạ.

THANH HỮU
Tháng 8 năm 2015

1. Mác 4:39
2. Luca 13:13, Mathiơ 8:3
3. Mathiơ 21:21
4. Mác 3:11
5. Giăng 11:43
6. Luca 23:21
7. Rô-ma 8:17
8. Giăng 7:38

SỬ DỤNG ÂN HUỆ CHÚA ĐỂ LÀM VINH HIỂN DANH NGÀI.

SỬ DỤNG ÂN HUỆ CHÚA ĐỂ LÀM VINH HIỂN DANH NGÀI.
(USE THE FAVOUR OF GOD TO GLORIFY HIS NAME )

Kỷ lục gia đi bộ mạo hiểm Nik Wallenda hồi đầu năm nay đã hoàn thành màn trình diễn đi trên mép viền của đu quay Orlando Eye cao 120m ở Hoa Kỳ, qua đó xác lập kỷ lục thế giới lần thứ 10 của anh.

231

Vận động viên Cơ Đốc 36 tuổi này đã làm một việc rất ý nghĩa trước khi tiến hành thiết lập kỷ lục thế giới mới kéo dài trong 4 phút của mình đó là dành thời gian cầu nguyện cùng gia đình.

Nik là một thành viên của dòng họ Wallenda danh tiếng với truyền thống hàng tram năm trong việc thực hiện những màn mạo hiểm. Gia đình anh từng có nhiều người thực hiện các màn mạo hiểm được xác lập kỷ lục thế giới.

Sống đúng với tinh thần đó của gia đình, anh từng chia sẻ về vinh dự tiếp nối truyền thống gia đình với lần lập kỷ lục thế giới này rằng: “Chúng tôi muốn truyền cảm hứng cho người khác làm những điều tốt hơn nữa, để thoát ra khỏi vùng thoải mái của bản thân. Tôi đang sống đúng với tinh thần mà gia đình mình đã cố bộc lộ trong suốt 200 năm qua. Có thể hoàn thành giấc mơ cuộc đời này thật là một cảm giác tuyệt vời, tôi ngập tràn trong sự thành công. Thật tuyệt vời khi ở trên đó.”

Mặc dù lúc thiết lập kỷ lục, gió đang thổi với vận tốc hơn 30km/h và bề mặt của đu quay rất trơn ướt, kỷ lục gia này vẫn hoàn thành xuất sắc màn trình diễn của mình.

Là một người con của gia đình có biệt danh “Flying Wallenda” (tạm dịch “nhà Wallenda bay”, anh được nhiều người biết đến với những lần mạo hiểm bước đi trên không, trong đó phải kể đến những lần anh mạo hiểm đi trên dây bắt ngang thác Niagara hay hẻm núi Grand Canyon.

Vận động viên mạo hiểm đến từ Florida có một gia đình nhỏ với vợ và 3 người con. Anh từng nhiều lần khẳng định đức tin Cơ Đốc một cách công khai và tuyên bố rằng chính đức tin cho anh sự can đảm để hoàn thành các màn trình diễn mạo hiểm, thậm chí người ta có thể nghe thấy tiếng anh cầu nguyện trong khi thực hiện màn đi mạo hiểm trên dây.

“Đức tin của tôi đóng vai trò to lớn trong cuộc đời tôi, tôi thật phước hạnh để ở vị trí của mình như lúc này. Một trong những câu hỏi mà tôi thường gặp phải nhất đó là “Anh đang thử thách đức tin ư? Hay anh đang thử thách Chúa ư?” Tôi không hề nhìn nhận nó theo cách đó.” Nik Wallenda nói.

“Tôi tin rang Chúa cho tôi khả năng đặc biệt để đi trên dây, nhưng nó còn tùy vào liệu tôi có luyện tập đúng cách hay không. Có rất nhiều người có mối quan hệ rất tuyệt với với Đấng Christ nhưng họ mất đi mạng sống của mình trong một tai nạn xe hơi. Điều đó liệu có nghĩa rằng họ có mối quan hệ không đủ tốt với Chúa Giê-xu? Không! Cuộc sống diễn ra và Chúa tạo ra chúng ta trong ảnh tượng của Ngài, nhưng chúng ta là chính mình, chúng ta không phải robot, chúng ta tạo ra những quyết định.”

Được biết, màn trình diến tiếp theo của Wallenda sẽ diễn ra vào tháng 8 sắp tới tại đường đua Milwaukee Mile. Anh cho biết rằng đây sẽ là lần anh bước đi trên dây dài nhất trong sự nghiệp, tuy nhiên nó sẽ không phải là lần cuối cùng.

“Tôi sẽ thực hiện điều đó trên tất cả mọi thứ, từ Kim Tự Tháp ở Ai Cập cho đến quảng trường lớn ở New York hay thậm chí là một núi lửa đang hoạt động.” anh nói.

Theo Gospel Herald

324-702x336

HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH

Dựa trên quan điểm Kinh thánh, Mục sư Lê Tự Cam có bài viết về “Hôn Nhân Đồng Tính” kèm theo những số liệu có tác hại nặng nề về xã hội của hôn nhân đồng tính so với hôn nhân bình thường; cũng như trích dẫn những lời nói phản ảnh quan điểm chống đối hôn nhân đồng tính của một vài nhà lảnh đạo chính trị trên thế giới.

Mời quý độc giả đọc để tham khảo và có một định hướng đúng đắn về vấn đề này hầu góp phần làm cho xã hội lành mạnh hơn tránh được hình phạt nghiêm khắc của Đức Chúa Trời.

Chúng tôi ước ao có một bài viết về nguyên nhân của căn bệnh này ( bệnh lý có tính cách y học) để  chúng ta động lòng thương xót mà cầu nguyện cho những bệnh nhân nầy.

Ban Biên Tập

QUAN ĐIỂM KINH THÁNH VỀ

HÔN NHÂN ĐỒNG TÍNH (SAME-SEX MARRIAGE)

Câu gốc:

“Tại họ không lo nhìn biết Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời đã phó họ theo lòng hư xấu, đặng phạm những sự chẳng xứng đáng.”    RÔ-MA 1:28

Kế hoạch của ĐCT cho việc hôn nhân (God’s plan for marriage)

SÁNG-THẾ KÝ 1:27-28   “…Ngài dựng nên người nam cùng người nữ. Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng…”

  • Tôi xin hỏi, có cặp hôn nhân đồng tính nào sinh con dược không? Vậy thì rõ ràng họ đã đi ngược lại ý ĐCT rồi. Nên đó là cái tội. 

Hôn nhân theo ý Đức Chúa Trời là sự kết hợp giữa 1 người nam và 1 người nữ (Marriage by God’s design is the union of one man and one woman)

SÁNG-THẾ KÝ 2: 22-24: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi A-đam làm nên một người nữ, đưa đến cùng A-đam. A-đam nói rằng: Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra. Người nầy sẽ được gọi là người nữ, vì nó do nơi người nam mà có. Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt.”

 Cựu ước nói gì về đồng tính luyến ái?

LÊ-VI KÝ  18:22: “Chớ nằm cùng một người nam như người ta nằm cùng một người nữ; ấy là một sự quái gớm.”

LÊ-VI KÝ  20:13:  “Nếu một người nam nằm cùng một người nam khác, như nằm cùng người nữ, thì hai người đó đều hẳn phải bị xử tử, vì họ đã làm một sự gớm ghiếc; huyết họ sẽ đổ lại trên mình họ. “

Tân ước nói gì về đồng tính luyến ái?

RÔ-MA 1:25-27 (Bản truyền thống hiệu đính 2010)

“Họ thờ phượng và phục vụ tạo vật thay vì Đấng Tạo Hóa, là Đấng đáng được ca ngợi đời đời! A-men. Chính vì lý do đó mà Đức Chúa Trời đã phó mặc họ cho tình dục đáng xấu hổ. Cả đến đàn bà cũng đã đổi cách quan hệ tự nhiên ra cách phản tự nhiên. Đàn ông cũng vậy, bỏ cách quan hệ tự nhiên với phụ nữ mà un đốt tình dục lẫn nhau, đàn ông làm điều đồi bại với đàn ông, và chính họ phải chịu sự sửa phạt tương xứng với sự lầm lạc của mình.” 

1CÔ RINH-TÔ 6:10   (Bản truyền thống hiệu đính 2010)

“Đừng tự lừa dối mình. Những kẻ tà dâm, kẻ thờ thần tượng, kẻ ngoại tình, kẻ đồng tính luyến ái, kẻ trộm cắp, kẻ tham lam, kẻ say sưa, kẻ chửi rủa, kẻcướp giật, sẽ không được thừa hưởng vương quốc Đức Chúa Trời.”

  • Dĩ nhiên, còn nhiều tội khác nữa, như tội giết người, tội bất hiếu, tội lấy danh Chúa làm chơi… mà không ăn năn, cũng không được hưởng nước ĐCT.

  • Nhưng nếu ăn năn thì ĐCT sẽ tha thứ, trong Chúa Giê-xu. 1Cô-rinh-tô 6:11

Đồng tính luyến ái có từ bao giờ?

  • 1. Cuộc tình đồng tính của Achilles và Patroclus (1184 TC)

  • 2. Mặc dù Alexander đại đế và chỉ huy đội kỵ binh Hephaestion đều lấy vợ và có con nhưng gắn bó với nhau như những người tình. (356-323TC)

  • Nero có 2 cuộc hôn nhân đồng tính (63 SC)

  • Kinh Thánh: Sáng thế ký 19:5 (Bản truyền thống hiệu đính 2010): 4 Nhưng khi hai thiên sứ chưa đi nghỉ thì những người đàn ông thành Sô-đôm, mọi người từ trẻ đến già, không thiếu một ai, đã đến bao vây nhà.5 Chúng gọi Lót ra và hỏi: “Những người khách vào nhà ông tối nay đang ở đâu? Hãy dẫn họ ra đây để chúng tôi ăn nằm với họ.”  nghĩa là hơn 4000 năm trước đây tội đồng tính luyến ái đã có rồi…

Những nước nào, cho đến nay, đã công nhận Hôn Nhân Đồng Tính?

Châu Âu 13 nước

Châu Âu là lục địa có nhiều nước công nhận hôn nhân đồng giới sớm nhất (2001) và nhiều nhất (13 nước). Các nước công nhân hôn nhân đồng giới là các nước Tây và Bắc Âu như Hà Lan (2001),Bỉ(2003), Tây Ban Nha (2005), Na Uy (2009),Thụy Điển (2009), Bồ Đào Nha (2010),Iceland(2010), Đan Mạch (2012), Pháp (2013),Vương Quốc Anh (2014), Luxemburg (2015). 2 nước Phần Lan (công nhận 2014) và Ireland (công nhận 2015) chưa có luật chính thức.

Châu Mỹ 4 nước

Hiện tại tổng cộng có 4 nước tại châu Mỹ công nhận hôn nhân đồng giới (Canada (2005),Argentina (2010), Brasil (2013) và Uruguay(2013) cũng như đa số các tiểu bang tại Hoa Kỳ (36 trong số 50) và một số bang tại Mexico.

Châu Úc: New Zeland (2013)  Châu Phi: Nam Phi (2006)

  • Tương lai sẽ còn rất nhiều nước nữa công nhận đồng tính, vì Kinh Thánh đã nói trước như vậy (Rô-ma 1: 29-32).

  • Ngày 26/06/2014, Liên Hợp Quốc đã chính thức công nhận quyền kết hôn đồng tính cho hơn 43.000 nhân viên thuộc tổ chức này trên toàn cầu, bao gồm các hình thức “hôn nhân” và “kết hợp dân sự” đồng tính.

  • Ngày 26/6/2015, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ công nhận quyền hôn nhân đồng tính.

  • Hôn nhân đồng tính không thể sinh con đẻ cháu. Họ nuôi con nuôi.

Vấn đề nuôi con nuôi của những cặp đồng tính

Vấn đề gặp phải

Con nuôi đồng tính nữ

Con nuôi đồng tính nam

Gia đình thông thường

Thất nghiệp

28%       +

20%

15%

Có ý định tự tử

12%        +

24%

9%

Phải điều trị tâm lý gần đây

19%       +

19%

9%

Có quan hệ đồng tính

7%         +

12%

2%

Bị cưỡng ép quan hệ tình dục

31%         +

25%

11%

  • Thẩm quyền cao nhất là ý chỉ của  ĐCT chớ không phải là HIẾN PHÁP hay TỐI CAO PHÁP VIỆN Hoa Kỳ

  • Chính trị bẩn thỉu (dirty politics) hùa theo trào lưu để kiếm phiếu, không còn hướng dẫn xã hội nữa. (bà Clinton trước đây nói hàng hai về hôn nhân đồng tính, nay thấy đa số phiếu hướng về hôn nhân đồng tính nên ủng hộ hôn nhân đồng tính)

  • Đừng theo đa số mà phải theo ý Đức Chúa Trời, nếu không thì sẽ bị đốt cháy như cả dân thành Sô-đôm ngày xưa (Sáng Thế Ký 19) :   * Tất cả dân Sô-đôm đã đồng ý với sự đồi bại, chỉ một mình ông Lót  không đồng ý mà thôi. Nhưng ĐCT đã thiêu đốt đa số đó và cứu Lót ra khỏi lửa!!!!! Đâu phải hễ đa số là đúng đâu????

  • 1CÔ RINH-TÔ 6:10  (Bản truyền thống hiệu đính 2010)

          “Đừng tự lừa dối mình. Những kẻ tà dâm, kẻthờ thần tượng, kẻ ngoại tình, kẻ đồng tính luyến ái, kẻ trộm cắp, kẻ tham lam, kẻ say sưa, kẻchửi rủa, kẻ cướp giật,    sẽ không được thừa hưởng vương quốc Đức Chúa Trời.”

          Vậy thì tội đồng tính luyến ái cũng như các tội khác mà thôi, tội đồng tính luyến ái không nặng hơn các tội khác. Hễ ăn năn thì Chúa sẽ tha thứ. Những tội ấy trước  kia chúng ta cũng không tránh khỏi, nhưng nay nhờ Chúa chúng ta được tha (1Cô- rinh-tô 6:11) sau khi chúng ta ăn năn.

  • Chúng ta cần phải giống Chúa Giê-xu, ghét tội phạm nhưng thương tội nhân.

  • Chúng ta cần thương người đang phạm tội đồng tính luyến ái (đừng ghét họ) và khuyên họ ăn năn, thì Chúa sẽ tha tội cho họ.

  • Phải nói rõ ý Chúa về tội đồng tính luyến ái cho con cháu chúng ta biết.

VÀI QUAN ĐIỂM….

Vladimir Putin:

Tổng thống Nga, Vladimir Putin đã quở trách Mỹ rằng:  Bằng cách từ bỏ giá trị Cơ Đốc truyền thống và đặt hôn nhân đồng tính ngang bằng với hôn nhân truyền thống giữa một người nam và một người nữ, đất nước Mỹ đã từ bỏ Đức Chúa Trời và tin vào Satan, kết cục sẽ dẫn tới sự suy thoái và hỗn loạn.

Robert Mugabe:

Trong cuộc phỏng vấn hằng tuần với đài truyền hình quốc gia hồi cuối tuần qua(Jun-27-2015), Tổng thống Zimbabwe Robert Mugabe nói đùa rằng ông đang có kế hoạch tới Washington DC để quỳ gối cầu hôn ông chủ Nhà Trắng.

 Ông Mugabe, vốn nổi tiếng phản đối gay gắt với quan hệ tình dục đồng giới, đã có cách phản ứng khá lạ lùng sau khi Tòa án Tối cao của Mỹ quyết định cho các cặp đôi đồng tính trên toàn nước Mỹ được kết hôn hợp pháp.

Sau khi bông đùa về kế hoạch “cầu hôn”Tổng thống Obama, ông Mugabe lại nghiêm giọng: “Tôi không hiểu được làm sao người ta dám đi ngược lại với ý Đức Chúa Trời vốn cấm con người yêu đồng giới”. Vị lãnh đạo này còn gay gắt chỉ trích rằng chính quyền nước Mỹ được điều hành bởi những người ủng hộ Satan.

Hội Thánh Nguồn Sống – July/05/2015

Mục Sư Lê Tự Cam

Post Navigation