Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

MS CHARLES FINNEY VÀ DẤU HIỆU VỀ TÌNH TRẠNG TÂM LINH NGUỘI LẠNH XA CÁCH CHÚA

Là một luật sư mới được 29 tuổi, Charles Finney rất quan tâm đến linh hồn mình sẽ đi về đâu sau khi chết và ông quyết định phải giải quyết số phận đời đời của mình là làm sao linh hồn mình được cứu. Ngày 10 tháng 10 năm 1821, Finney đã đi vào khu rừng ở New York để tìm kiếm Đức Chúa Trời. Khi Finney cố gắng cầu nguyện thì ông thấy lòng ông không cầu nguyện được. Finney rất sợ hãi, ông sợ nếu có ai đến và thấy mình cầu nguyện. Finney ở trong trạng thái thất vọng vì hứa với Chúa sẽ không rời nơi ông đang tìm kiếm Ngài cho đến khi ông giải quyết vấn đề cứu rỗi linh hồn mình. Finney nói, “Tôi sẽ dâng tấm lòng tôi cho Đức Chúa Trời hoặc tôi sẽ không bao giờ đi xuống từ đây.” Sau vài tiếng đồng hồ, Finney trở về văn phòng mình, thì người đã kinh nghiệm một cảm xúc thật mãnh liệt mà người viết, “Đức Thánh Linh… dường như đi qua tôi, thân thể và linh hồn tôi. Tôi cảm nhận như luồng điện đi qua và qua tôi. Thật ra nó giống như luồng tình yêu…, vì tôi không thể diển tả nó một cách nào khác.”

Kinh nghiệm của Finney nó như Chúa phán với ông Nicôđem – một nhà trí thức người Do Thái thời bấy giờ, “Đừng ngạc nhiên khi Ta bảo ngươi cần phải được sinh lại từ thiên thượng. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và sẽ đi đâu. Người được Thánh Linh sinh ra cũng giống như vậy.”

Sáng hôm sau, Finney trở về văn phòng luật của mình để gặp thân chủ, người mà Finney sắp ra tòa để tranh cải biện hộ cho trường hợp của ông ta. Finney nói với thân chủ, “Tôi có một số tiền từ Chúa Giêsu để biện hộ cho sự nghiệp của Ngài và không thể biện hộ cho anh được.”

Finney đã bắt sự nghiệp mới của mình và đã trở nên nhà phục hưng dẫn đầu trong thế kỷ 19. Finney thường thúc giục kêu gọi những người nghe sứ điệp ông giảng chấp nhận Chúa một cách công khai. Lối giảng dạy của Finney giống như lời tranh cải của một luật sư hơn là bài giảng của ông mục sư. Mỗi lần giảng xong, Finney mạnh mẽ kêu gọi thính giả tin nhận Chúa Giêsu và dâng cuộc đời mình cho Chúa Giêsu. Có lần Finney nói, “Quý vị đã quyết định trở nên Cơ đốc nhân, và hứa làm hòa với Đức Chúa Trời ngay lập tức, xin quý vị đứng dậy.” Cả hội chúng chưa bao giờ nghe lời thách thức mạnh mẽ như thế, và họ vẫn ngồi yên trong hàng ghế của mình.” Finney nói, “Quý vị đã có lập trường của mình. Quý vị đả từ khước Đấng Christ – Chúa Cứu Thế và Tin Mừng của Ngài.” Hội chúng giải tán, đứng dậy và giận dữ bỏ về.

Đêm kế tiếp, Finney giảng về tội ác và giọng của mình như ngọn lửa rực cháy… như cái búa và gươm [Thánh Linh]. Finney không cho họ cơ hội để đáp lại. Đêm hôm sau, cả thành đến nghe ông giảng, có một người nọ rất giận dữ với Finney và ông ta đem theo cai súng định bắn chết nhà giảng Tin Lành. Nhưng đêm đó, Finney cho hội chúng có cơ hội tuyên xưng đức tin mình một cách công khai. Hội Thánh xôn xao như phun núi lửa – rất nhiều người đứng dậy tuyên xưng đức tin của mình, trong khi những người khác được Thánh Linh Chúa chạm đến thì họ té ngã, rên rỉ, và rống lên. Finney đã tiếp tục giảng nhiều đêm, thăm viếng những người mới tin Chúa trong nhà của họ và ngoài đường. Ông cưỡi ngựa từ thành này qua thành kia mà những người trong thành ấy đều có tinh thần nhiệt tình với đức tin theo Chúa của mình. Báo chí, những nhà phục hưng, và các mục sư bắt đầu để ý những buổi họp om sòm – những buổi họp mà không giống như những người có niềm tin cải cách như John Calvin mà mặt mũi họ thường e dè kín đáo.

Có một số người chống lại những lời giảng dạy đơn giản dể hiểu đầy quyền năng của Finney. Nhóm theo trường phải của Hội Thánh Trưởng nhiệm cảm thấy bực tức phẫn nộ vì Finney đã thay đổi thần học của Calvin. Trường phái Calvin truyền thống dạy rằng một người chỉ tin Tin Mừng nếu Đức Chúa Trời chọn để cứu họ. Nhưng Finney mạnh mẽ lên tiếng rằng ‘lòng không tin’ là ‘sẽ không tin’ thay vì ‘không thể tin’ và có thể được điều trị nếu người ấy muốn trở thành Cơ đốc nhân. Finney nói, “Thuyết Calvin cứng nhắc như vậy, thì chưa được tái sinh, là chưa đủ, là một sự ghê tởm đối với Đức Chúa Trời.” Có một số mục sư sợ Finney mở cửa cho sự cuồng tín đi vào và cho phép họ bày tỏ quá nhiều xúc cảm. Có một nhóm khác chống đối Finney cho rằng Finney dùng chiến thuật làm cho người ta sợ để rồi họ tin Chúa. Nhiều người nghĩ rằng Finney thường dùng từ ‘quý vị các bạn’ và ‘hỏa ngục’ làm cho mất chức vụ nghiêm túc của tòa giảng. Có người theo truyền thống khắc khe cứng nhắc không cho phụ nữ cầu nguyện chung. Nhưng Finney cho phép phụ nữ cầu nguyện chung trong buổi nhóm họp công cộng của Hội Thánh Chúa.

Finney rất ghét ‘lòng hâm hẩm nguội lạnh’ trong tôn giáo và linh tôn giáo. Như Sứ đồ Phaolô xưa kia nói với vị Mục sư trẻ Timôthê hãy cẩn thận với những người có linh tôn giáo, “Họ là người chỉ giữ hình thức tin kính đạo đức bề ngoài, nhưng trong lòng lại chối bỏ quyền năng của đức tin và sự tin kính đạo đức ấy. Vì thế mà Sứ đố Phaolô khuyên Timôthê hãy tránh xa những kẻ như thế.” Ngày nay cũng có những người như vậy. Bề ngoài tỏ vẻ công chính đạo đức, nhưng lại thiếu thực chất tâm linh. Họ đi nhà thờ như mọi người. Họ đọc kinh, họ biết giáo lý niềm tin của mình. Họ dùng những sáo ngữ hoặc lời lẽ sáo mòn. Họ theo truyền thống Cơ đốc của cộng đồng mình. Họ có nhưng thói quen làm cho người khác có ấn tượng họ là người tốt, đạo đức. Nhưng nếu họ không có niềm tin thật, tình yêu thật và sự thờ phượng thật, thì bề ngoài của họ thật vô nghĩa. Sứ đồ Phaolô cảnh cáo chúng ta để đừng bị lừa bởi những người mà bề ngoài có vẻ như là Cơ đốc nhân. Lúc đầu thì thấy khó để phân biệt những người này khỏi Cơ đốc nhân thật, nhưng thái độ, cách đối xử, cách ăn ở hoặc tư cách đạo đức sẽ biểu lộ con người thật của họ.

Finney muốn thấy Hội Thánh Chúa kinh nghiệm cơn phục hưng như xưa kia Chúa Thánh Linh đến thăm viếng những tín hữu vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Như Bác sĩ Martyn Lloyd-Jones tin rằng một ngày tương lai trước khi Chúa Giêsu quang lâm, sẽ có cơn phục hưng giống như ngày xưa Thánh Linh Chúa thăm viếng Hội Thánh Ngài vào Ngày Ngũ Tuần, mà có thể lớn hơn nữa, và nhiều người sẽ ăn năn tin nhận Chúa và nhiều cuộc đời được đổi thay diệu kỳ bởi quyền năng Thánh Linh.

Được biết ước lượng số người tin nhận Chúa từ năm 1857 cho đến 1858 thì có hơn một trăm ngàn người qua chức vụ giảng Tin Lành của Finney cách gián tiếp và trực tiếp, trong khi có chừng năm trăm ngàn người tin nhận Chúa và dâng cuộc đời mình cho Chúa trong nhưng cơn phục hưng lớn. Có người cho rằng Finney là một nhà giảng Tin Lành và là một nhà thần học vĩ đại trong thế hệ của mình.

Các lịch sử gia gọi MS Finney là “Người cha của cơn phục hưng hiện đại.” Chức vụ Phục hưng của MS Finney đã ảnh hưởng những nhà giảng Tin Mừng lừng danh sau này như Dwight L Moody, Billy Sunday, and Billy Graham.

Thưa quý vị anh chị em yêu dấu, Mục sư Charles Finney đã từng hành nghề luật sư, nhưng sau khi kinh nghiệm gặp được Chúa, được sinh lại từ trên bởi Thánh Linh và được báptem bằng Đức Thánh Linh thì ông bỏ nghề luật để đi giảng Tin Lành của Chúa Cứu Thế Giêsu dấu yêu của mình. Chúa đã dùng đầy tớ Ngài mang lại cơn phục hưng lớn trong thế hệ của mình. Mực sư Finney đã viết về những dấu hiệu tình trạng xa cách Chúa ở dưới đây. Mục sư Finney muốn cảnh cáo và nhắc nhở Hội Thánh Chúa phải đề cao cảnh giác về những dấu hiệu nguội lạnh khô hạn tâm linh xa cách Chúa nầy.

Sau khi đọc xong những dấu hiệu về tình trang tâm linh nguội lạnh. Tôi khích lệ quý vị anh chị em, không chỉ đồng ý và nói, “Đúng thật. Hay quá. Đúng tâm trạng của Hội Thánh Chúa ngày nay. Nó xảy ra trong Hội Thánh tôi. Nó cũng đang xảy ra trong đời sống tôi. Đúng vậy Mục sư trong Hội Thánh tôi giảng dạy lời Chúa mà thiếu sự xức dầu của Chúa. Ông không được báptem Thánh Linh, không đầy dẫy Đức Thánh Linh cho nên ông giảng mà không động chạm tâm hồn tôi.”

Quý vị anh chị em đừng chỉ đồng ý với MS Finney và nói hay quá, đúng qua đi, rồi không làm gì cà. Quý vị anh chị em phải xin Chúa Thánh Linh đánh thức chính mình, quỳ gối lòng, xét chính lòng mình xem có nguội lạnh, có xa cách Chúa không. Anh chị em phải thành thật với chính mình. Nếu biết lòng mình đang nguội lạnh khô hạn, thì xin Chúa giúp mình ăn năn trước mặt Ngài. Chúa luôn thương những người có lòng thống hối vỡ tan. Chúa không khinh dể anh chị em đâu. Nếu anh chị em thực sự ăn năn trước mắt Chúa mà có ai còn khinh dể anh chị em, thì chính Chúa sẽ khinh dể người ấy.

Nếu lòng anh chị em đang nguội lạnh. Nếu tâm linh anh chị em đang khô hạn, thì anh chị em phải đến với Chúa cầu xin Thánh Linh phục hồi lòng và tâm linh mình. Nếu có thể được trong lúc tĩnh nguyện, tôi khích lệ anh chị em lắng nghe và hát bài ca “Thần Linh của Chúa” và xin Chúa chạm đến tâm linh mình, xin Ngài làm tươi mát tâm linh mình. Nội dung của bài hát có thể dùng như lời cầu nguyện từ cõi lòng của anh chị em:

“Thần Linh của Chúa hiện diện nơi đây! Thần Linh của Chúa đang ở nơi nầy! Ngài nhìn thấy mọi lòng khát khao. Ngài nghe thấy tiếng con kêu cầu. Lạy Chúa xin hãy chạm lên chính tâm linh này, một tâm linh đang khao khát Chúa. Lòng con đây như đất khô hạn chờ đợi cơn mưa Thánh Linh Ngài, làm tươi mát tâm linh đang mòn mỏi. Lòng con đây như đất khô hạn chờ đợi cơn mưa Thánh Linh Ngài làm đã khát tấm lòng đang khát khao!”

Anh chị em nhớ phải tâm tình chia sẻ với MS mình và khích lệ MS mình kêu gọi cả Hội Thánh thành tâm cầu nguyên xin Chúa phục hưng Hội Thánh Chúa nơi mình đang phục vụ.

Đừng bao giờ có thái độ coi thường khinh dể các đầy tớ Chúa trong giáo phái khác chẳng hạn như: “HT Thuần túy, HT Tin Lành Việt Nam. HT C&MA, HT Báptít, HT Giám lý, HT Trưởng Nhiệm, HT Lutheran, HT Phúc âm Toàn vẹn, HT Ân tứ, HT Ngũ tuần vv. Và cho rằng mấy ông truyền thống này, mấy ông CMA này, mấy ông Báptít nầy không biết gì về quyền năng Thánh Linh, giảng không ra hồn, không được xức dầu, không có quyền năng Thánh Linh, chưa được báptem Thánh Linh. Và có người nói rằng mấy ông ân tứ và ngũ tuấn cứ cho mình là siêu Cơ đốc nhân mà khinh thường Hội Thánh trên và Hội Thánh Truyền thống, và nói chỉ những người cầu nguyện trong Thánh Linh, chữa bịnh, đuổi quỷ, và có ơn nói ngôn ngữ mới, mới là được đầy dẫy Đức Thánh Linh.” Nếu quý vị có thái độ khinh các đầy tớ khác của Chúa trong Hội Thánh của Ngài thì Chúa sẽ khinh quý vị đó. Quý vị anh chị em phải cầu nguyện cho đầy tớ Chúa và luôn có lòng yêu thương anh chị em trong Chúa của mình mặc dù là khác giáo phái và cũng đừng cho rằng mấy anh mấy chị ân tứ ngũ tuần nầy là nhóm cuồng tín hay tà đạo. Tôi biết một số anh chị em trong Hội Thánh Truyền thống, Ân tứ và Ngũ tuần là người kính sợ Chúa. Những anh chị em này cũng là bạn của tôi, mà niềm tin của họ không quá khích hay cực đoan. Họ tin Chúa và chân lý của Ngài. Họ tin hết lòng những điều Chúa dạy trong Thánh Kinh. Họ rất yêu mến Chúa và họ không khoe khoang về ân tứ của mình, nhưng bước đi trong thái độ khiêm tốn và yêu thương, coi người khác đáng tôn trọng hơn mình.

Xưa kia Sứ đồ Phaolô mặc dù đang ở trong tù mà vẫn nhớ đến Hội Thánh Chúa. Người kêu gọi các tín hữu hiệp nhất trong Chúa và người viết cho Hội Thánh Êphêsô những lời khích lệ sau đây, ”Vậy, là một tù nhân vì Chúa, tôi khuyên anh chị em hãy sống xứng đáng với ơn kêu gọi của Ngài. Phải hết sức khiêm nhường, nhu mì, mềm mại, và kiên nhẫn, lấy tình yêu thương chịu đựng lẫn nhau. Hãy hết sức gìn giữ sự hiệp nhất do Thánh Linh đem lại, bằng sợi dây xích hòa thuận. Chỉ có một thân thể và một Thánh Linh, cũng như chỉ có một niềm hy vọng cho anh chị em khi được kêu gọi. Chỉ có một Chúa, một đức tin, một phép báptem, một Đức Chúa Trời, là Cha của tất cả, ở trên tất cả, thấu suốt tất cả và ở trong tất cả.”

Sứ đồ Phaolô khích lệ chúng ta rằng, “Là dân được Đức Chúa Trời chọn lựa, thánh hóa và yêu quý, anh chị em hãy mặc lấy lòng thương xót, nhân từ, khiêm nhường, hiền lành, nhu mì và nhẫn nhục. Hãy ráng chịu đựng, khoan dung, tha thứ nhau khi anh chị em có điều gì phiền trách nhau, như Chúa đã tha thứ anh chị em thể nào, thì anh chị em cũng phải tha thứ nhau thể ấy. Trên hết các mỹ đức cao đẹp ấy, anh chị em hãy mặc lấy tình yêu, là sợi dây ràng buộc liên kết tuyệt vời và toàn hảo. Hãy để sự bình an của Chúa Cứu Thế Giêsu ngự trị trong lòng anh chị em.”

NHỮNG DẤU HIỆU VỀ TÌNH TRẠNG XA CÁCH CHÚA

Mục sư Charles Finney viết điều này để nhắc nhở Hội Thánh Chúa phải đề cao cảnh giác về những dấu hiệu nguội lạnh tâm linh xa cách Chúa.

1. Khi sự cầu nguyện không còn là một phần quan trọng trong đời sống bạn. Điều đó khiến cho sự phục hưng chậm đến, vì đời sống cầu nguyện trễ nải.

2. Khi bạn không còn khát khao lời Chúa nữa và trở nên thỏa mãn với những hiểu biết mà bạn đã thu thập được.

3. Khi những tư tưởng vĩnh cửu (hoặc giá trị tâm linh đời đời) không còn quan trọng và không còn nghĩ đến một cách thường xuyên nữa.

4. Khi bạn tự bỏ qua tội lỗi của mình bằng cách bào chữa rằng: “Chúa biết tôi được dựng nên từ tro bụi” hoặc “đó là con người yếu đuối của tôi. Chúa hiểu!” hoặc “Tâm linh thì tha thiết, mà xác thịt lại yếu đuối – một câu nói rất quen thuộc trong các hội thánh.”

5. Khi những cuộc đối thoại về đời sống tâm linh khiến bạn cảm thấy khó chịu và lúng túng.

6. Khi sự giải trí, thể thao, và ăn chơi trở nên ưu tiên hàng đầu trong đời sống của bạn.

7. Khi bạn sống trong tội lỗi mà không còn cảm thấy bị cáo trách nữa.

8. Khi nguyện vọng sống trong sạch, thánh khiết giống như Đấng Christ không còn trong đời sống bạn nữa.

9. Khi việc tìm kiếm của cải, tiền bạc, vật chất, giàu sang, và thịnh vượng của đời này hoàn toàn chiếm hữu tâm trí và đời sống bạn.

10. Khi bạn không còn cảm thấy đau buồn và khó chịu khi nghe danh Chúa Giêsu bị xúc phạm và những giá trị tâm linh bị mỉa mai.

11. Khi bạn cảm thấy lạnh lùng, chán nản, và mệt mỏi lúc thờ phượng Chúa, không còn cảm thấy sự hiện diện của Chúa trong hội thánh và đời sống hàng ngày, và bạn cũng không còn yêu thích ca hát, ngợi khen Chúa và đọc lời Ngài nữa.

12. Khi bạn không còn quan tâm đến mối thông công và sự hiệp nhất của hội thánh đang bị đe dọa.

13. Khi vì một lý do nho nhỏ nào đó cũng đủ khiến cho bạn chán nản từ khước sự phục vụ Chúa.

14. Khi năm giác quan của bạn không còn quân bình và thánh khiết nữa. Bạn xem những phim ảnh đồi trụy, nghe những loại nhạc nhảm nhí, và đọc những sách báo dâm ô.

15. Khi bạn vui vẻ có xu hướng theo đời này, ví dụ như có nợ không trả mà lại khai phá sản để trốn nợ. Bạn không thành thật, không giữ lời hứa, gian lận, và đàn áp nhân viên của mình.

16. Khi bạn không còn quan tâm đến tình trạng thiếu quyền năng Thánh Linh trong đời sống, hội thánh, và chức vụ mình và không còn khát khao được Chúa thăm viếng chiếm hữu toàn vẹn và nhận lấy năng quyền từ trời.

17. Khi bạn cảm thấy thỏa mãn trong lúc hội thánh mình đang lâm vào tình trạng sa sút (hoặc trầm cảm tâm linh) và lời Chúa không được giảng ra trong quyền năng Thánh Linh.

18. Khi bạn không còn quan tâm đến sự suy đồi về đạo đức, không còn quan tâm đến tình trạng xuống dốc trong đời sống tâm linh và đời sống xã hội của đất nước mình.

19. Khi lòng bạn chai đá, không còn tuôn đổ một cách dễ dàng như trước đây nữa. Bạn không còn quan tâm, không còn khóc cho những gì Chúa Giêsu đã từng khóc, ví dụ như khóc cho một thành phố đang trong tình trạng chết mất, khóc cho một linh hồn đang lạc mất, hoặc khóc cho sự đau khổ của một con người.

20. Khi bạn đã mất đi sự xức dầu và quyền năng Thánh Linh mà không hề biết.

“Lạy CHÚA, Con đã nghe danh tiếng Ngài. Lòng con bàng hoàng kính sợ về công việc diệu kỳ của Ngài. Lạy CHÚA hằng hữu, xin CHÚA phục hưng công việc Ngài trong thời đại chúng con. Trong cơn giận, xin CHÚA nhớ đến lòng thương xót của Ngài” (Habacúc 3:2).

Cầu xin CHÚA Đức Chúa Trời ban phước cho anh chị em và bảo vệ anh chị em. Cầu xin CHÚA gìn giữ và phù hộ anh chị em! Cầu xin CHÚA chiếu sáng mặt Ngài trên anh chị em và làm ơn cho anh chị em. Cầu xin CHÚA bày tỏ lòng nhân từ đối với anh chị em! Cầu xin CHÚA đoái xem anh chị em, ban bình an và thịnh vượng cho anh chị em! Trong đại Danh Đức Chúa Giêsu. Danh trên mọi danh. Amen!

*NẾU BẠN ĐƯỢC TRUYỀN CẢM, KHÍCH LỆ VÀ GÂY DỰNG SAU KHI ĐỌC BÀI VIẾT NẦY, NHỚ CHIA SẺ “SHARE” VỚI CÁC BẠN MÌNH!

*XIN LƯU Ý: TRANG “SỨ ĐIỆP CỦA SỰ SỐNG”
Nếu bạn muốn đọc thêm những bài viết bồi linh giá trị khác để được truyền cảm, khích lệ và gây dựng. Xin mời bạn ghé thăm. Nhớ ‘ADD’ các bạn mình và ‘JOINED’ Trang ‘Sứ Điệp Của Sự Sống’ sau đây: www.facebook.com/groups/SDCSS/

*Nếu bạn nào biết đọc tiếng Anh thì có thể vào trang dưới đây để đọc, sưu tầm và nghiên cứu những cuốn sách giá trị do MS Charles Finney viết:www.swartzentrover.com/cotor/e-books/holiness/Authors/Charles%20G%20Finney.htm

 

QUÀ TẾT

qua-tet-2016-221Ngày Tết truyền thống của Việt nam có những mỹ tục rất hay như sum họp họp đại gia đình, cư xử hoà nhã ” tử tế như ba ngày Tết”; ” lì xì” cho con cháu; quà tặng để mừng tuổi cho Cha mẹ, Ông bà  hay để tỏ lòng biết ơn đối với những người đã giúp đở mình trong cuộc sống.

Có một món quà quý giá mà chúng ta có thể tặng và nhận lảnh: Đó là mảo miện vinh hiển ( crown)
Mão miện còn được gọi là mão triều, hay là vương miện; đó là chiếc mũ đặc biệt tượng trưng cho uy quyền tuyệt đỉnh về một lỉnh vực nào đó như là vương miện hoa hậu quốc gia, hoa hậu    Thế giới rồi lại thêm hoa hậu hoàn vũ nữa.

Đã nói đến vương miện thì phải nói đến hào quang sáng chói của nó. Chẳng hạn như chiếc vương miện của thánh Wenceslas được chế tác vào năm 1347 cho Hoàng đế Charles lên ngôi. Chiếc vương miện này được chạm trổ từ 21-22 cara vàng, gắn tổng cọng 19 viên ngọc bích, 44 viên đá quý màu đỏ, 1 viên hồng ngọc, 30 viên ngọc lục bảo và 20 viên ngọc trai ( Ngọc lục bảo tiếng Anh là Emerald là loại ngọc quý nhất trong các loại ngọc cho nên nó được dùng để tặng cho kỷ niệm  lần thứ  55 ngày cưới, chỉ trước kỷ niêm ngày cưới Kim cương lần thứ 60 cuối cùng (Diamond Wedding).

Trong kinh thánh I Sử ký 20:2 có ghi chép mão miện của vua dân Amôn cân nặng được 1 ta-lâng vàng và trên đó có những ngọc  báu.( 1 ta lâng = 34kg).

Chiếc vương miện hoa hậu Pháp năm 2011 được gắn rất nhiều viên kim cương lập lánh cùng đá quý, kim loại bạc và vàng trắng, tất cả tạo nên một vẻ đẹp mền mại, quý phái như vẻ đẹp của người phụ nữ.

Trong kinh thánh có đề cập đến những mão miện mà chúng ta nên trao cho nhau:

1/ Mão triều thiên cho Ông già.

“Tóc bạc là vương miện vinh quang dành cho người đi trong đường công bình.”( Châm 16:31: Bản TTHĐ). Tóc bạc là tượng trưng cho người cao tuổi. Con cháu chẳng những chúc cho cha mẹ, Ông Bà mình sống lâu để có được mái tóc bạc làm Mão triều vinh hiển. Người có mái tóc bạc đi trong đường lối công binh của Chúa   là vinh hiển cho con cháu.

2/ “Mão triều thiên cho cha mẹ, ông bà.

” mão triều thiên của ông già ấy là con cháu.” ( Châm 17:26)

Có điều  con, cháu ít nghĩ đến là một cử chỉ vô lễ, xấc xược, một lời nói xẳng xớm dù là vô tình hay cố ý; một sự thờ ơ với trách nhiệm của bổn phận làm con, làm đâu, làm rể đối với cha mẹ hay Ông Bà sẽ làm tổn thương đến mão miện vinh hiển của cha mẹ, ông bà mình. Hãy nhớ nếu như vậy thì sẽ ” mắc tội với trời và với cha.” Dù cho chúng ta được bao nhiêu tuổi đi nữa mà còn cha còn mẹ thì vẫn còn bổn phận làm con , làm  cho mão triều của cha mẹ mình được lóng lánh vinh quang.Nếu không thì chiếc mão miện của con cái dành cho Ông cha không có viên Ngọc nào, đừng nói chi đến kim cương. Chúng ta trân trọng tặng cho cha mẹ, ông bà mình những chiếc  mão miện lấp lánh  với một đời  sống xứng đáng: vâng lời, lễ phép, ân cần, hiếu thảo và phụng dưỡng.

. Đó cũng là cách làm vinh hiển danh Chúa. Chúng ta đừng bao giờ làm cho cha mẹ mình phải ” Đau Lòng Xót Dạ xuống âm phủ” ( Sáng 42:38). Đặc biệt là những người được kêu gọi vào chức vụ .( I Phioro 5; 3). Hãy làm gương cho các tín đồ.

3/  Mão triều cho chồng.

“Người vợ nhơn đức là mão triều thiên cho chồng nàng.”( Châm 12:4). Người vợ nhơn đức được mô tả ở Châm ngôn 31:1-2 ” Một người nữ tài đức ai sẽ tìm được, giá trị nàng trổi hơn châu ngọc. Lòng người chồng tin cậy nơi nàng, người sẽ chẳng thiếu huê lợi. Trọn đời nàng làm cho chồng được ích lợi,” Đây là một trong “Tứ Đức” , công -dung-ngôn-hạnh của người phụ nữ Viêtnam. Có thể nói người vợ cần mẫn, siêng năng không có thì giờ để ngồi lê đôi mách gây phiền toái cho mọi người.

“Nàng mở đưa tay ra giúp kẻ khó khăn, Giơ tay mình lên tiếp người nghèo khổ.”( Châm 31:20). Nàng thể hiện lòng nhân ái bằng việc làm chứ không bằng lời nói và lưởi. Đó là “Hạnh”. “Nàng mở miệng ra cách khôn ngoan, phép tắc Nhơn từ ở nơi lưới nàng”. Nàng khôn ngoan đối đáp với chồng nàng khi chồng vui, khi chồng  giận, không bao giờ có lời ” xẳng xớm trêu cơn thạnh nộ thêm”. Nàng cũng biết dùng lời an ủi hay vổ về khi chồng mình ” túi bụi” trong công việc. Thông cãm những sơ sót của chồng khi não bộ đã bắt đầu lảo hoá hay căng thẳng trong suy nghĩ lo toan…. Đó chính là “Ngôn” trong tứ đức.

“Duyên là giả dối, sắc lại hư không; Nhưng người nữ nào kính sợ Đức Giê Hô Va sẽ được khen ngợi “ ( Châm 31:30). Người biết trau dồi dung nhan của mình thích hợp theo tuổi tác. Không quá chú trọng vẻ đẹp bên ngoài mà quên đi sự dạy dỗ của Chúa.” Chớ tìm kiếm sự trang sức bề ngoài, như gióc tóc, đeo đồ vàng, mặt áo quần loè loẹt. Nhưng hãy tìm kiếm sự trang sức bề trong, giấu ở trong lòng, tức là sự tinh sạch chẳng hư nát của của tâm thần dịu dàng yên lặng, ấy là giá quý trước mặt Đức Chúa Trời. Vì các bà thánh xưa kia , trông cậy Đức Chúa Trời, vâng phục chồng mình, đều trau giồi mình dường ấy.” ( I Phiero 3:3-5) . Mỗi lời nói dịu dàng ví như một viên ngọc hồng ngọc; mỗi hành động yêu thương ví như viên ngoc trai; sự chăm chỉ trong công việc ví như những viên Bích ngọc; và sự trang điểm thích hợp bề ngoại với sự trang sức bề trong là những viên ngọc lục bảo.

Đức tính chung thủy trong tình nghĩa vợ chồng là viên kim cương sáng chói ở chính giữa những viên ngọc quý khác.

4/ Mão triều cho người hầu việc Chúa.

” Khi đấng làm đầu các kẻ chăn chiên hiện ra, anh em sẽ được mão triều thiên vinh hiển chẳng hề tàn héo” .( I Phioro 5:4) Nhơn dịp Tết đến chúng ta là những người tình nguyện hầu việc Chúa hơn ai hết chúng ta phải là những chiếc mão miện vinh hiển đáng phải có để trao cho những người thân thương mà kinh thánh đã khuyên dạy chúng ta. Có như vậy chúng ta sẽ xứng đáng nhận những chiếc vương miện ở dưới đất và đặc biệt là mảo triều thiên ở ở thiên quốc khi Đấng chủ chăn hiện ra như lời hứa của Ngài .

Hãy trao cho nhau mảo miện vinh hiển trong những ngày vui Tết như lời Chúa đã dạy và hãy nhớ rằng tất cả chúng ta đều có mão triều thiên vinh hiển Chúa dành cho chúng ta theo lời hứa của Ngài : ” Khá giữ trung tín cho đến chết, rồi ta sẽ ban cho ngươi mũ triều thiên của sự sống .”

 Mục sư Nguyễn Đức Na

TẾT VUI

tet

Tết Vui

(Happy New Year)

Mathiơ 5:3

“Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước Thiên Đàng là của những kẻ ấy.”

I. Vui Tết

 Đối với những người Việt đang sống ở các nước tây phương, thì kể ra c/ta cũng được lợi thêm một điểm, đó là c/ta được ăn tới hai cái tết.

 Tết tây đầu năm vừa xong, thì lại lo sửa soạn để ăn mừng Tết ta (Vietnamese New Year), thường đến vào tháng Hai ngay sau đó.

 Sống bên đây tuy Tết Nguyên Đán không được nhộn nhịp/tưng bừng như ở Việt-nam, nhưng có lẽ ai nấy trong c/ta vẫn còn giữ nhiều truyền thống “ăn tết” hay của người Việt.

 Khi đề cập đến Tết thì c/ta phải nghĩ ngay đến niềm vui, vì có Tết nào buồn không?

 Tại sao c/ta vui trong những ngày Tết?

 Các em nhỏ vui vì chờ đợi nhận tiền lì xì, trong những phong bì đo đỏ mà mỗi năm chỉ có được một lần.

 Ông bà cha mẹ thì vui sướng vì thấy con cháu & gia đình ai nấy về đoàn tụ xum họp thật là vui nhà vui cửa.

 Tết vui là khi c/ta được ăn những món đặc biệt mà thường chỉ có mỗi năm một lần, nào là bánh chưng, củ kiệu, dưa hành, đủ loại các thứ mứt, hạt dưa, cùng với trò đốt pháo, múa lân, cắm mai, hái lộc thật là nhộn nhịp.

 Chưa hết, trong mùa Tết c/ta cùng chúc nhau bằng những lời hay ý đẹp thật vui tai như là Phước, lộc, thọ… an khang, thịnh vượng, may mắn, phúc lợi trong những ngày đầu xuân của năm mới.

a) Có người CHÚC MỪNG NĂM MỚI như sau: Chúc 12 tháng phú quý, 366 ngày phát tài, 8784 giờ sung túc, 527,040 phút thành công, 31,622,400 giây VẠN SỰ NHƯ Ý.

b) Người khác thì chúc: Đong cho đầy hạnh phúc – Gói cho trọn lộc tài – Giữ cho mãi an khang – Thắt cho chặt phú quý – Cùng chúc nhau Như ý.

c) Cung chúc tân niên. Vạn sự bình yên. Hạnh phúc vô biên. Vui vẻ triền miên. Kiếm được nhiều tiền. Sung sướng như tiên

d) Chúc mừng năm mới: Tiền vào như nước sông Đà, Tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin.

Những người ở Mỹ lâu cũng vui thích mùa Tết ta, là vì thường cũng là mùa đấu trận Super Football, hay ở Louisiana là mùa Mardi Gras nhộn nhịp nữa, mà được nghỉ vài ngày ăn Tết.

II. Niềm Vui Chóng Qua

 Mặc dầu Tết đến thì vui, nhưng hình như niềm vui của Tết chóng qua.

 Những lời chúc Tết thì quá mỏng manh, chỉ nghe cho vui tai một lát, vì ai biết ngày mai sẽ ra sao.

 Tiền lì xì thì có bao nhiêu đi nữa thì cũng chẳng mấy chốc sẽ xài hết ngay.

 Gia đình đòan tụ rồi lại phải chia tay, ai nấy trở về chỗ mình sinh sống để lo cho gia đình.

 Những trận đấu thể thao lại sẽ trôi qua nhanh, và những ngày nghỉ lại chấm dứt.

 Niềm vui Tết chóng qua, những cuộc vui Tết chóng tàn, và ai nấy trở lại vật lộn với những bận rộn, nợ nần, chức nghiệp trong cuộc sống của đời này.

 Đúng như người Việt c/ta nói đùa về cuộc sống này trong 4 phần: Hối hả, vội vã, buồn bã, rồi cuối cùng chỉ là mồ mã.

  Có lẽ c/ta thường thắc mắc thế nào là niềm vui thật và làm sao tôi có được đây?

 Điều căn bản để có niềm vui thật chính là những mối liên hệ tốt đẹp và lâu bền.

Tiền bạc, danh vọng chưa chắc đem đến niềm vui thật.

 Câu chuyện vị mục sư đi thăm một nhà thương tâm thần (mental hospital)

 Thấy một người đàn ông đứng ở cột tường khóc lóc thảm thiết thì hỏi vị bác sĩ tại sao?

 Vị bác sĩ nói anh này khùng vì yêu một cô ca sĩ nổi tiếng, nhưng đã không cưới được cô gái đó.

 Đi một chút, vị mục sư lại thấy một người nam khác cũng đứng cột tường khóc lóc thảm thiết thì hỏi tại sao?

 Vị bác sĩ trả lời anh này bị điên vào đây là vì chính anh đã cưới được ô ca sĩ nổi tiếng mà anh kia không được.

 Sẽ có lúc tiền bạc, nữ trang chẳng còn giá trị và không đem đến cho c/ta niềm vui nữa.

 Câu chuyện chiếc tàu Titanic.

 Khi chiếc thuyền Titanic sắp sửa chìm và một trong những người triệu phú tên là A. H. Peuchen được cơ hội xuống phao cứu cấp trước, thì sau khi được cứu sót ông làm chứng lại là trong lúc sửa soạn xuống thuyền nhỏ thì khi trở lại phòng, ông đã đành phải quyết định để lại tất cả tiền bạc, những nữ trang, những vật quí gía của mình ở lại trong phòng nghủ trị giá ~300,000 đôla.

 Nhưng chỉ đem theo có 3 trái cam mà thôi, vì biết rõ rằng tiền bạc và nữ trang trong lúc đó chẳng có ích chi cho mình và không còn là điều ưu tiên cho cuộc sống nữa.

 Các món đồ chơi hay tiền bạc chỉ đem tiện nghi và sự vui sướng một chốc lát, nhưng “tình người” là yếu tố quan trọng nhất để đem đến cho con người niềm vui bền lâu.

 Lý do là vì nhu cầu thầm kín nhất trong lòng của loài người là mối liên hệ tình cảm, vì c/ta không phải là những thứ vô tri vô giác.

 Từ lúc sanh ra, c/ta đã cần mối liên hệ với cha mẹ chăm nuôi để vui sống.

 Lớn lên c/ta cần đến mối liên hệ bạn bè, hay thầy cô hướng dẫn để thành công trong đời và vui hưởng thành quả của mình.

 Khi đến tuổi trưởng thành, c/ta cần có mối liên hệ hôn nhân và gia đình để hưởng hạnh phúc.

 Nhưng trên hết mọi mối liên hệ để c/ta gặt hái được niềm vui bền lâu là mối liên hệ bề dọc với Đấng đã sáng tạo nên chính mình, nghĩa là hiểu biết Đấng đó là ai và mục đích đời đời Ngài đã dựng nên loài người c/ta là để làm gì.

 Hay nói cách khác, khi c/ta biết và sống đúng mục đích của Đấng đã tạo dựng nên mình, thì c/ta sẽ tìm được niềm vui thật, không cần phải là mùa Tết hay bất cứ trong hoàn cảnh nào.

III. Phước của Nước Thiên Đàng

 Ngày xưa khi Chúa Giê-su, Con ĐCT đã đến thế gian, Ngài bày tỏ cho c/ta biết Đấng Sáng Tạo là ai và mục đích của Chúa cho loài người c/ta là gì.

 Một trong những lời Chúa Giê-su giảng dạy về mục đích này đó là lời giảng trên núi, đã được ghi chép lại trong Kinh Thánh, để c/ta hiểu được mục đích của đời sống và tìm được niềm vui thật.

 Trong sách Mathiơ 5:1-3 có chép – “Đức Chúa Jêsus xem thấy đoàn dân đông, bèn lên núi kia; khi Ngài đã ngồi, thì các môn đồ đến gần. Ngài bèn mở miệng mà truyền dạy rằng: “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!”

 Chữ “phước” tiếng Anh là chữ “blessed,” trong nguyên nghĩa của văn tự Hy-lạp (tiếng Greek) có liên quan đến chữ “vui mừng” (hay dịch ra tiếng Anh là “happy”) hay là chữ “may mắn, tốt số…” (fortunate).

 Cho nên qua lời của Chúa Giê-su, c/ta thấy được mục đích tốt lành của Đấng Tạo Hóa dựng nên loài người c/ta là để c/ta được vui mừng, sung sướng, thỏa lòng, chứ chẳng phải để dằn vật loài người trong sự khổ sở triền miên.

 Có những lý thuyết dạy “ông Trời” như là một vị thần dữ, luôn bay vòng vòng với cái “roi mây” để tìm và quất, hay phạt những ai chẳng may mắn gặp phải Ngài?

 Trong Kinh Thánh 1 Giăng 4:8b chép “ĐCT là sự yêu thương.” Ngài yêu thương dòng giống loài người là loài mà Ngài đã dựng nên “giống hình ảnh của Mình,” để có mối liên hệ đời đời với mỗi người c/ta.

 Có chỗ trong Kinh Thánh diễn tả Đấng Tạo Hóa, ĐCT như một người Cha nhân lành yêu thương con cái mình, chăm sóc và bảo vệ từng đứa con thuộc của mình.

 Một số quí vị là cha mẹ, ông bà, quí vị biết yêu thương con cháu ra từ dòng dõi của mình, thì chắc cũng hiểu được phần nào ĐCT yêu thương mỗi c/ta.

Tình yêu thương của ĐCT là thực tế là vì Ngài muốn c/ta được vui vẻ sung sướng trong mối liên hệ đời đời với chính Chúa, nên mục đích luôn là c/ta được ở trong nước thiên đàng của Ngài mãi mãi – “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!”

 Nước thiên đàng là gì và ở đâu?

  1. a) Nước thiên đàng là một chỗ toàn hảo không còn có một sự nguyền rủa nào nữa.

Khải Huyền 21:3-4, sứ đồ Giăng cho hé thấy nước thiên đàng khi nói: “Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng. 4 Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi.”

 Nơi đó sẽ không còn một sự đau đớn, không còn nước mắt, không còn sự chết nữa, vì trái của cây sự sống chữa lành mọi bệnh tật của c/ta.

 Ai vào đó sẽ không còn mắc một chứng bịnh nào nữa: dù là nhức khớp, đau đầu, áp xuất cao, tiểu đường, bệnh lãng…

 Không ai sống ở đó còn phải lo sợ những bịnh dịch nữa… như Mad Cow, chicken flue, AIDS, westnile, hay bệnh dịch mới Zika…

 Chỗ đó c/ta sẽ không còn cần đến xe cấp cứu, và cũng không có nghĩa điạ hoặc nhà xác nữa, vì sẽ không còn có sự chết.

 Không còn chiến tranh đe doạ của bọn khủng bố ISIS nữa, cũng không cần c/trình “Homeland security” của Tổng thống Mỹ.

 Nhà cửa trên đó c/ta sẽ không cần mua bảo hiểm nữa… vì mối không đục được, lửa không làm cháy nó được, không còn giông bão nào làm nó trôi đi… và sẽ không bao giờ cần sửa chữa.

 Nơi đó không còn tội lỗi, một sự tham nhũng, bất công, hối lộ, gian ác, dối trá, tranh chấp, ghen ghét nữa, vì Chúa đã làm thẳng mọi sự cong queo của tội ác rồi.

 C/ta không cần phải chúc nhau “Phước, Lộc & Thọ” nữa, vì không còn bệnh già nua nữa, vì phước, lộc và thọ chẳng bao giờ tàn, Xuân chẳng bao giờ dứt, nên c/ta cũng không cần phải lo đến tiền về hưu 401K nữa.

2) Nước thiên đàng là chỗ có niềm vui trọn vẹn, và bền lâu mãi mãi, chứ không chóng qua như niềm vui của tết, vì có mối liên hệ đời đời với Đấng Sáng Tạo.

 Đêm không còn nữa, và nơi đó ĐCT sẽ ở với c/ta, sẽ trị vì đời đời và soi sáng trên c/ta luôn.

 Thiên đàng là nơi có một mùa Xuân bất tận, mà “cuộc vui sẽ không bao giờ tàn,” vì mùa xuân trên đó không bao giờ chấm dứt hoặc thay đổi.

 Sách Kinh Thánh Khải Huyền 22:1-5 chép về những điều sẽ xẩy đến trong tương lai, hé mở cho c/ta thấy được hình ảnh thiên đàng như sau mà sứ đồ Giăng đã thấy được: “Thiên sứ chỉ cho tôi xem sông nước sự sống, trong như lưu ly, từ ngôi Đức Chúa Trời và Chiên Con chảy ra. Ở giữa phố thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mười hai mùa, mỗi tháng một lần ra trái; và những lá cây đó dùng để chữa lành cho các dân. Chẳng còn có sự nguyền rủa nữa; ngôi của Đức Chúa Trời và Chiên Con sẽ ở trong thành; các tôi tớ Ngài sẽ hầu hạ Ngài; chúng sẽ đượcthấy mặt Chúa, và danh Chúa sẽ ở trên trán mình. Đêm không còn có nữa, và chúng sẽ không cần đến ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Đức Chúa Trời sẽ soi sáng cho; và chúng sẽ trị vì đời đời.”

 Thiên đàng là nơi có cây của sự sống… trổ đúng 12 mùa, mỗi tháng 1 lần ra trái, nghĩa là mỗi tháng là một mùa xuân… đây chính là mùa xuân không bao giờ tàn.

IV. Lòng Khó Khăn  

 Nhưng nếu đọc kỹ lời chúc phước của Chúa Giê-su thì thấy không phải ai cũng được phước của nước thiên đàng này, nhưng chỉ những kẻ có lòng khó khăn mà thôi – “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn, vì nước thiên đàng là của những kẻ ấy!”

 Đây nghĩa là sao?

 Một bản dịch Kinh Thánh khác, cho c/ta hiểu rõ hơn “tấm lòng khó khăn” có nghĩa là sao:

“Phước cho ai biết tâm linh mình nghèo khổ, thì sẽ hưởng Nước Trời!”

 Tại sao “nghèo khổ”… thì mới hưởng được “phước” này? Sự “nghèo khổ” tâm linh chi đây?

 Điều này mới nghe sao ngược “lỗ tai” vô cùng… không giống như những câu nói, mà người ta thường hay chúc nhau trong đầu năm như: thịnh vượng, giàu sang, dư dật, phát tài… chứ ai lại nhắc đến tình trạng bị nghèo nàn, hay thiếu thốn đâu?

 Nhưng khi đọc kỹ lại lời của Chúa Giê-su chúc phước cho c/ta ở đây thì sẽ thấy sự nghèo nàn ở đây… không phải là sự nghèo nàn về của cải vật chất, hay tiền bạc.

 Đây cũng không phải là sự nghèo nàn vì mình thiếu học vấn… nhưng là sự “nghèo nàn” của phần tâm linh, ở bên trong lòng của mỗi người c/ta.

1) Người có tấm lòng nghèo khổ tâm linh đây có nghĩa là một người đang ở trong tình trạng lương tâm bị cắn rứt, dằn vặt… vì ý thức được tình trạng tội lỗi xấu xa của mình: những lời ác mình đã nói, những việc ác mình đã làm, những ý tưởng ác mình đã có, và kể cả những điều lành lương tâm thúc mình làm, nhưng chưa có thể làm trọn được.

 Không phải ý thức được sự nghèo khổ của tâm linh mà thôi, nhưng còn ở trong tình trạng tuyệt vọng, vì tự biết rằng chính mình không thể tự cứu mình được, vì “cả đời làm thiện thì thiện đâu không đủ, nhưng chỉ một ngày làm ác, thì việc ác có dư rồi;” hoặc có một người nào khác có thể giúp đỡ xóa sạch tội mình được, vì “nhân vô thập toàn.”

 Giống như một người bị chìm thuyền giữa biển cả sóng vỗ… mà mình lại không biết bơi nữa, chỉ lênh bên trên mặt nước, chờ thần biển cuốn mình đi vào chỗ chết mất mà thôi.

2) Không phải vậy thôi, nhưng sự “nghèo nàn tâm linh” sẽ thúc đẩy họ đi tìm cầu một vị Cứu Tinh thật để nhận được sự tha tội, hầu cho tâm hồn được vui mừng, bình an trở lại.

 Và vị cứu tin duy nhất có quyền năng để làm sạch mọi tội của những kẻ có lòng khó khăn chính là Cứu Chúa Giê-su, Con ĐCT.

 Đấng Tạo Hóa nhơn từ vì yêu nhân thế đã sai Con Ngài xuống thế gian, chịu chết trên cây thập tự làm của lễ chuộc tội, hầu cho qua “huyết của Đức Chúa Giê-su, Con Ngài, làm sạch mọi tội c/ta,” cất đi mọi nỗi khó khăn của tấm lòng, và hàn gắn lại mối liên hệ giữa người và Trời.

 Mỗi khi bạn thấy hình thập tự là dấu của tình yêu thương tuyệt vời của Thiên Chúa cho mọi người, và cho chính bạn cùng tôi.

 Ngày hôm nay, còn biết bao nhiều người chưa nhận được “thiên phước” của Chúa Giê-su hứa ban cho, không phải vì họ nghèo đói, không nhà không cửa, hay thiếu học… nhưng chỉ vì chưa ý thức được tình trạng tội lỗi hư mất, tuyệt vọng của mình… mà tìm cầu đến Cứu Chúa Giê-su.

 Như vậy câu Chúa Giê-su chúc phước: “Phước cho ai biết tâm linh mình nghèo khổ, thì sẽ hưởng Nước Trời!” nghĩa là ai ý thức tình trạng tội lỗi hư mất của mình, ăn năn hối cãi, kêu cầu Cứu Chúa Giê-su, Con ĐCT thì Ngài sẽ lấy huyết của Mình làm sạch mọi tội người đó, hàn gắn lại mối liên hệ với ĐCT, và chờ đợi một ngày sẽ hưởng cơ nghiệp là nước Trời, là thiên đàng!

 Khi c/ta biết rõ được điều này thì mình sẽ thật sự kinh nghiệm một niềm vui vô biên, tìm ẩn bên trong mà không có gì bên ngoài có thể chi phối được.

V. Nhận Phước

 C/ta chỉ có thể cầu chúc những phước lành cho nhau… nhưng thật ra không có quyền năng ban cho phước, chỉ có một mình Đấng Sáng tạo nên sự sống… mới ban mọi phước cho c/ta.

 Ngài hứa ban cho mỗi người một món quá, một đại phước đó là sự sống lại và sự sống đời đời trong nước thiên đàng của Ngài.

 Chúa nhân từ ban cho phước lành này như một món quà không điều kiện… chỉ có cái là mình có ý thức tình trạng tâm linh khó khăn tội lỗi của mình, và tìm cầu Chúa Giê-su, Con ĐCT mà thôi.

 Trong 1 Giăng 5:11-12 chép rõ về sự ban cho này – “Chứng ấy tức là Đức Chúa Trời đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong Con Ngài. Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống.”

 Bạn có muốn tìm được niềm vui thật trong mùa Tết Nguyên Đán này không?

 Không phải chỉ sự vui vẻ trong 3 ngày Tết mà thôi, nhưng một niềm vui trường tồn.

 Bạn hãy đến với Chúa Giê-su mà nhận lấy phước Ngài hứa ban cho những kẻ ý thức tình trạng tâm linh khó khăn của mình.

 Không phải chỉ những phước tạm bợ ở đời này thôi… mà một cơn giông bão có thể hủy phá được trong vòng vài tiếng đồng hồ, hay 1 cơn động đất có thể chôn lấp lấy.

 Phước đó chính là nước thiên đàng đời đời dành cho bạn.

 Niềm vui đó là vì mọi gánh nặng tội lỗi của bạn đã được cất đi hết.

 Sự thỏa lòng vui sướng vì bạn sẽ được Chúa “chúc phước.

 Tôi thành thật mong khi mọi người bước sang một năm mới Bính Thân sẽ nhận được “phước Xuân vĩnh cửu” ở trong lòng, vì có lại được mối liên hệ với Đấng đã sáng tạo nên mình và sẽ ban cho mình sự sống vĩnh cửu trong nước Ngài một ngày.

 Mong bạn đến nhận món quà nước thiên đàng mà Chúa hứa ban cho bất cứ ai nhận biết lòng khó khăn và cầu xin Con ĐCT, Cứu Chúa Giê-su ngay hôm nay!

 

——— Lời Mời Gọi

 Khi tết đến, điều tự nhiên… ai nấy cầu chúc nhau được sống lâu, sống vui, sống khỏe; nhưng “con người c/ta” là giới hạn… thì không có quyền để thực hiện và làm trọn được ~điều mong ước này.

Không ai có thể ban cho c/ta một niềm vui trọn vẹn, hoặc một mùa xuân bất tận được… vì mỗi người c/ta mang trong mình con vi trùng của tội lỗi.

C/ta sanh ra và sống, nhưng rồi một ngày sẽ chết trong tội lỗi… để lãnh tiền công của nó.

Chỉ có ĐCT là Đấng quyền năng mới ban cho sự tha tội và sự sống đời đời qua chính Con một của Ngài là Đấng đã đến, đổ huyết vô tội trên thập tự gía gần 2,000 năm… hầu một ngày c/ta sẽ được sống mãi trong nước thiên đàng của Ngài.

Chúa Giê-su đã đến và qua sự chết của Ngài, mối liên hệ của c/ta với ĐCT được tái tạo và nay có đủ điều kiện để hưởng nước thiên đàng; c/ta là những người được phước và có niềm vui thật.

Thi Thiên 32:1 chép rõ – “Phước thay cho người nào được tha sự vi phạm mình! Được khỏa lấp tội lỗi mình!”

Cho bất cứ ~ai ý thức tình trạng tội lỗi hư mất của mình, ăn năn hối cãi và kêu cầu Cứu Chúa Giê-su thì Ngài hứa ban cho người ấy sự sống đời đời, một mùa Xuân bất tận trên thiên đàng.

Phước lành này Chúa Giê-su chúc phước c/ta như một món quà không đòi giá, không phải trả tiền, không mua được bằng ~công đức cá nhân của mình… nhưng chỉ lấy đức tin mà nhận lấy.

Không phải tình cờ mà mỗi người c/ta có mặt ở đây hôm nay, nhưng đây là cơ hội “Trời cho” để c/ta nghe được phước lành Chúa hứa ban cho, mà khôn ngoan nhận lấy.

Cuộc sống có ý nghĩa vì c/ta biết rõ mình sẽ đi về đâu khi bước qua cõi đời này, và đó là niềm vui thật.

Nhà triết gia nổi tiếng Plato đã nói một câu khá đúng: (The human life is a meditation about death) “Đời người là một cuộc hành trình suy gẫm, trầm tư về sự chết.”

Nhưng đối với con cái Chúa thì còn đúng hơn nữa… đó là: (The Christian life is a journey to prepare for heaven) “Đời sống của Cơ Đốc Nhân là một cuộc hành trình sửa soạn để trở về nước thiên đàng của ĐCT.”

Đó là niềm vui thật!

Bạn có sẵn sàng trở về quê Cha Thiên Thượng của mình mà hưởng “Tết vui trường tồn” chưa?

Bạn sẽ hái lộc gì trong năm nay? Bạn sẽ nhận được phước lành nào trong mùa Tết này?

Lộc trần thế hay tàn héo, hay chóng qua… nhưng “Thiên phước” – phước của Trời ban cho sẽ tồn tại đời đời đó chính là sự sống đời đời… một mùa xuân bất tận ở trên thiên đàng.

Chúa Giê-su muốn chúc phước cho bạn điều này… mong bạn mở lòng tiếp nhận lấy, ngay hôm nay, ngay giây phút này!

 Bạn có sẽ nhận “lì xì” Chúa ban cho không khi còn cơ hội?

 Có thể bạn tự nghĩ “tôi tội lỗi quá làm sao Chúa cứu?”

 Chính khi bạn biết mình là một tội nhân nghĩa là nhận biết tâm linh khó khăn, thì nếu bạn cầu cứu Ngài thì được nước thiên đàng; vì Chúa Giê-su đến không để cứu người lành, nhưng cứu những kẻ có tội!

[Tôi xin thành thật kính chúc mọi người được một mùa Xuân vui tươi, cùng một Năm Mới thật đầy đủ sức khỏe, bình an và dư dật, nhất là một niềm vui bất tận vì có lời hứa của nước thiên đàng Chúa ban cho một ngày. Amen!]

ĐỢI CHỜ VƯƠNG QUỐC CHÚA

Kingdom-of-heaven-city-heavenly-city-mary-k-baxter

Theo lời hứa của Chúa, chúng ta chờ đợi trời mới đất mới, là nơi sự công bình ăn ở. (2 Phi-e-rơ 3:13)

Có bao giờ, anh nóng lòng trông đợi,
Một người tình, hứa đến để viếng thăm?
Một người yêu, anh ao ước được gần
Để thỏa nguyện bao nổi niềm thương mến?

Có bao giờ em trông bạn lòng đến,
Sau bao ngày, chờ đợi đã nhiều năm.
Dệt ước mơ, đem ấp ủ vào lòng,
Đếm ngày tháng, thăng hoa niềm thương nhớ?

Người yêu tôi, tình yêu người muôn thuở,
Tình yêu Người như hoa nở mùa xuân,
Hy sinh Người thật quí giá vô ngần,
Tôi ngưỡng mộ, kính yêu lòng tan vỡ.

Người yêu ơi, Lời người đã nâng đỡ,
Đã rịt lành, đã yên ủi hồn thân.
Nâng tôi lên từ đất buị dương trần,
Ban hy vọng, ban tình yêu cứu rỗi.

Chúa yêu ơi, hồn thân tôi trông đợi,
Một người tình siêu đẳng vượt thời gian.
Một người yêu, cao vút tận thiên đàng,
Đang theo dõi, đang cầu thay an ủi. 1

Tôi đọc lại, lời Người yêu nhắn nhủ,
Tôi trông chờ dấu hiệu Chúa hồi lai.
Tôi nghiệm xem thời cuộc, lẫn thiên tai
Lòng hớn hở, lời tiên tri nghiệm đúng.

Chúa yêu ơi, lòng con không rúng động,
Tim hồn con, đang dệt mộng yêu đương.
Con trông mong, chờ tiệc cưới thiên đường,
Cùng sứ thánh vang lời ca khen ngợi.

Người yêu ơi, linh hồn con trông đợi,
Ngày huy hoàng, ngày Cứu Chúa hồi lai. 2
Như nông dân, chờ mùa gặt lâu dài 3
Như lính gát, đêm khuya trông đợi sáng. 4

Vương quốc Chúa, ngày mai sẽ tỏ rạng,
Khi vùng trời vạn tỉ cơ đốc nhân.
Hát thiên ca, cao vút nhạc mây tầng
Cả vũ trụ hân hoan trời đất mới. 5

THANH HỮU
Tháng 2 năm 2016

1. 1 Giăng 2:1, Hêbơrơ 7:25
2. Tít 2:13
3. Gia Cơ 5:7
4. Thi thiên 130: 6
5. 2 Phierơ 3:13

MÙA XUÂN MỚI

chim-mua-xuan-1

Mùa Xuân Mới

Mùa xuân mới Chúa ban ôi đẹp quá
Chúa cho ta vui thỏa ở trong Ngài
Tình yêu Chúa ôi thật quá láng lai
Không tả được bằng ngôn từ giới hạn.

Mùa xuân mới, nào ta cùng kết bạn
Thêm yêu thương, thêm thân ái giữa đời
Chúa yêu con người ở khắp mọi nơi
Ta cũng vậy, thương yêu người hư mất.

Mùa xuân mới, hương hoa thơm phảng phất
Quyến rũ lòng ta, quyến rũ bao người
Cuộc đời nầy bao hy vọng đẹp tươi
Cảm tạ Chúa ban thiên nhiên tuyệt mỹ.

Mùa xuân mới, gợi bao điều suy nghĩ
Hỏi lòng ta ai đã tạo xuân lành?
Ai cho mình xuân đẹp tựa như tranh?
Chẳng ai khác ngoài chính mình Tạo Hóa.

Mùa xuân mới nguyện lòng nầy vui thỏa
Sống biết ơn, sống phục vụ Chúa Trời
Ca tụng Ngài mãi mãi không hề thôi
Xuân có Chúa trọn đời xuân miên viễn.

-Bình Tú Ngọc –

TẾT NHỚ ƠN CHÚA

smeI6NA

(Thi thiên 103:1-5, 15-17)

Nhơn dịp xuân về, tôi kính chúc Quý vị trong Năm Mới được Chúa ban cho mọi sự an lành, đầy sức khỏe và sống lâu trường thọ.

Tết là mùa Xuân, hoa nở nhiều. Trong văn chương Việt Nam, người ta thường so sánh “hoa” với “phái nữ,” như: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.” Và “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.” Đây là những câu thơ Nguyễn Du diễn tả Thúy Vân và Thúy Kiều. Nhưng Kinh Thánh thì ví sánh hoa với cả nam lẫn nữ. Thi thiên chép: “Người sanh trưởng khác nào bông hoa nơi đồng.” (Thi 103:15).

Hôm nay, nhân dịp Tết đến, nhờ cậy Chúa, chúng ta cùng suy nghĩ xem đời người trên đất có những đặc tính gì? Chúng ta nên sống theo cách nào? Khi còn đi học, chúng ta đều thấy đời mình đẹp như hoa. Các Bạn trẻ thấy tương lai mình tươi như vườn hoa mới nở. Điều nầy có lý. Vì họ thấy đời mình còn dài. Tương lai sáng lạng. Nhưng xin mỗi chúng ta nhớ rằng: “Thời gian như thể thoi đưa, Nó đi, đi mãi có chờ đợi ai!” Thời gian qua nhanh, và nó lại vô tình mang tuổi tác đặt lên vai của chúng ta, cho nên tuổi tác của chúng ta cũng chồng chất lên thật mau với năm tháng đến. Vì vậy mà Nguyễn Công Trứ nói: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.” Nguyễn Khuyến nói:

“Nhớ từ năm trước hãy thơ ngây, Phút chốc mà già đã đến ngay,
Mái tóc chùm đen, chùm lốm đốm, Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay!”

Môi se nói: “Đời sống chóng qua, rồi chúng tôi bay mất đi.” (Thi thiên 90:10). Gia cơ nói: “Sự sống của anh em là chi? Chẳng qua như hơi nước, hiện ra một lát rồi lại tan ngay.” (Gia cơ 4:14).

Nói đến cuộc sống chúng ta cũng nhận ra một khía cạnh khác là đời người vui ít và buồn nhiều. Có một bài ca hát rằng: “Đường vào tình yêu có trăm lần vui, có vạn lần buồn!…….” Câu hát nầy nói lên phần nào sự thật của đời người. Nếu trong đời chúng ta có được một trăm lần vui thì chúng ta đã phải trải qua một vạn (10.000) lần buồn! Thật vậy, bao phen lăn lộn với đời, Nguyễn Công Trứ viết: “Ra trường danh lợi, vinh liền nhục, Vào cuộc trần ai, khóc trước cười.” Ông Môi se nói: “Tuổi tác chúng tôi đếm được bảy mươi, còn nếu mạnh khỏe thì được tám mươi; song sự kiêu căng của nó bất quá là lao khổ và buồn thảm.”(Thi thiên 90:10). Nói tới cuộc đời buồn, chúng ta nhớ đoàn cải lương hát tuồng: “Con Gái Chị Hằng.” Các cô đào chánh là những nghệ sĩ. Họ đóng kịch rất hay. Cảnh đời chị Hằng quá khổ, vì quá thương con mà con lại không hiểu. Chị Hằng khóc hoàn cảnh buồn của mình! Mấy bà già coi cải lương cũng thi nhau khóc theo! Khóc thôi là khóc! Cảnh đời quá buồn thảm! Cải lương buồn và ngoài đời nhiều khi cũng buồn như vậy!

Còn một khía cạnh nữa về cuộc sống mà mỗi chúng ta phải để ý. Đó là: Đời sống có thể chấm dứt bất cứ lúc nào! Ngay cả làm Tổng Thống, tim cũng có thể ngừng đập bất ngờ. Tổng Thống Kennedy đã chết bất ngờ vào tháng 11 năm 1963. Còn dân giả cũng có thể chết bất ngờ. Mới đây, có cơn bão ở Phi luật tân đã giết chết nhiều ngàn người. Sự thật thì Sự chết sẽ đến, và thường thì đến rất bất ngờ, không ai biết trước và cũng không từ chối được. Như Đức Chúa Giê-su đã phán: “Có ai trong các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài thêm một khắc không?” (Luca 12:25). Thấy cuộc đời lao khổ và nhiều bất trắc, có thi sĩ nào đó viết câu thơ hỏi rằng: “Đời đáng chán hay không đáng chán?” Câu trả lời là đời đáng sống. Vì Đức Chúa Trời tạo dựng mỗi chúng ta theo ý muốn tốt đẹp của Ngài.

Muốn có đời sống đẹp lòng Chúa và hữu ích, chúng ta phải nhớ cầu nguyện như Môi se rằng: “Cầu xin Chúa dạy chúng con biết đếm các ngày của chúng con, hầu cho chúng con có lòng khôn ngoan.” (Thi thiên 90:12). Đếm ngày của chúng ta nghĩa là chúng ta sống cẩn thận mỗi ngày, khá để ý rằng mỗi ngày, mỗi giờ qua đi có ích hay không và chắc chắn là chúng ta không thể lấy lại được. Ví dụ: Chúng ta có dịp đi du lịch ở Hà Nội 5 ngày. Nếu đến Hà nội chúng ta chỉ mướn khách sạn, ở đó ngủ 5 ngày rồi về. Thế thì tiếc thời gian quá! Trái lại chúng ta phải tính ngày thứ nhất đi tham quan chỗ nào, ngày thứ hai đi thăm ai, ngày thứ ba, ngày thứ tư, ngày thứ năm…. làm gì, chúng ta không nên bỏ mặc cho thì giờ đi qua vô ích.

Đức Chúa Trời ban cho mỗi chúng ta một thời gian trải qua trên đất là 80 – 90 năm, quý vị định xử dụng thời gian nầy như thế nào? Hôm nay, từ sáng tới giờ, chúng ta có cầu nguyện với Chúa chưa? Trong tháng nầy có nói về Chúa cho ai chưa?

Tết năm nay, nhìn lại những ngày qua, Quý vị có bao nhiêu điều để tạ ơn Chúa? Có người nói: Nhiều điều lắm, không biết sao kể ra cho hết. Rồi không chịu kể cho ai nghe cả. Trong Lớp Tiểu học, cô giáo hỏi: “Các em biết chữ cám ơn nghĩa là gì không?” Có một học sinh đưa tay. Cô giáo bảo, em biết thế nào, nói đi.

– Thưa cô em biết mà em nói không được! Cô giáo không cho em điểm nào.

Quý vị đã đi nhà thờ, đã đọc Kinh Thánh, đã hát Thánh ca, đã cầu xin Chúa ban phước cho gia đình, nhưng: “Quý vị có nhớ xin Chúa Jêsus xóa tội cho Quý vị không?” Quý vị hãy nhớ rõ là “huyết của Đức Chúa Jêsus, Con Đức Chúa Trời, làm sạch mọi tội chúng ta.”(I Giăng 1:7b). Và “…hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời.” (Giăng 1:12). Cảm tạ ơn Đức Chúa Giê-xu, qua dòng cứu chuộc của Ngài, chúng ta hưởng được phước rất lớn mà Kinh Thánh cho biết là: Phước thay cho kẻ lỗi mình được tha thứ, tội mình được che đậy! Phước thay cho người mà Chúa chẳng kể tội-lỗi cho!” (Rôma 4:7-8).

Mỗi khi cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời” Quý vị có nhận thấy mình có phước không? Con Trời đã chết thay cho Quý vị, nhờ vậy Quý vị được phép gọi Đức Chúa Trời là Cha. Thật là phước vô cùng! Nhờ Đức Chúa Giê-xu, chúng ta thật sự có phước. Vì chính Đức Chúa Giê-su ban lời phước hạnh của Ngài cho chúng ta rằng: “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi; vì Cha các ngươi đã bằng lòng cho các ngươi nước Thiên đàng.” (Lu ca 12:32). Phước nầy lớn biết bao nhiêu, chúng ta sẽ được ở Thiên đàng phước hạnh đời đời với Cha Thiên Thượng, thoát khỏi Hồ lửa khổ hình đời đời. Cám tạ ơn Chúa.

Phao lô dạy rằng chúng ta hãy “hiểu biết những ơn mà chúng ta nhận lãnh bởi Đức Chúa Trời.” (1 Cô rinh tô 2:12). Tác giả Thi thiên nói: “Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va, Chớ quên các ân huệ của Ngài. Ấy là Ngài tha thứ các tội ác ngươi, Chữa lành mọi bịnh tật ngươi.” (Thi thiên 103:1-2). Thưa Quý vị, Tết cũng là cơ hội để chúng ta nhìn lại chính mình trong năm qua để cảm tạ ơn Chúa.

Đức Chúa Trời ban cho mỗi chúng ta có đời sống trên đất. Cầu xin Chúa dạy cho chúng ta biết dùng đời sống của chúng ta để ngợi khen Chúa. Tác giả thi thiên nói rằng: “Trọn đời sống tôi sẽ ngợi khen Đức Giê hô va; Hễ tôi còn sống chừng nào tôi sẽ hát xướng cho Đức Chúa Trời tôi chừng nấy.” (Thi thiên 146:2). Đây là một tấm gương tốt cho mỗi chúng ta. Tết năm nay, Quý vị có định làm điều gì để ca ngợi sự vinh hiển Chúa không?

Năm mới này, chúng ta suy nghĩ mình nên ca ngợi Chúa bằng cách nào? Hát một bản Thánh ca, ca ngợi Chúa. Đúng. Còn gì nữa? Sự ca ngợi Chúa rất quan trọng là qua hành vi cử chỉ trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chính Cứu Chúa dạy rằng: “Các ngươi là sự sáng của thế gian…. Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta, như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi và ngợi khen Cha các ngươi trên trời.” (Ma thi ơ 5:14,16). Sự dạy dỗ nầy có nghĩa rằng: “Nếu tội lỗi các ngươi và sự tối tăm các ngươi soi trước mặt người ta, thì họ sẽ cười chê Cha các ngươi trên trời.” Xin mỗi chúng ta nên suy nghĩ điều nầy. Thánh Phao lô cũng dạy mỗi chúng ta rằng: “Anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với đạo Tin Lành của Đấng Christ.” (Phi lip 1:27).

Quý vị nghĩ năm nay chúng ta làm gì để được Đức Chúa Trời vui thích nhất? Đi nhà thờ, hát Thánh Ca, học Kinh Thánh, dạy con cái theo Chúa….. Vâng, những điều nầy là những điều Chúa ưa thích. Có điều Chúa rất ưa thích nữa, đó là: “Linh hồn tội nhân trở lại với Ngài, để Ngài tha tội cho họ, để họ được cứu.” Vì chính Cứu Chúa của chúng ta đã phán: “Con Người đã đến…để phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người.” (Mathiơ 20:28). “Trên trời cũng vậy, sẽ vui mừng cho một kẻ có tội ăn năn.” (Lu ca 15:7). Vậy thì điều rất quý trong năm mới nầy là: Xin Chúa cho mỗi chúng ta dắt tội nhơn về với Chúa ít nhất là một người. Đời sống của một người dẫn dắt tội nhơn đến với Chúa là đời sống có ý nghĩa vì ích lợi cho người khác và làm sáng Danh Chúa. Lời Đức Chúa Trời hứa cho mỗi chúng ta rằng: “Những kẻ dắt đem nhiều người về sự công bình sẽ sáng láng như các ngôi sao đời đời mãi mãi.” (Đa ni ên 12:3). Lời hứa quý báu nầy và tấm lòng của Đức Chúa Giê su muốn tìm con chiên “bị lạc mất” (Mathiơ 18:12), thúc giục mỗi chúng ta siêng năng làm chứng về tình yêu cứu rỗi của Đức Chúa Giê su cho nhiều người biết và tin Chúa để họ sự cứu.

Tết năm nay chúng tôi xinh kính chúc Quý vị được hưởng sự bình an của “chính Chúa bình an” (2 Tê sa lô ni ca 3:16) ban cho. Tạ ơn Đức Chúa Trời Từ ái đã ban cho chúng ta cuộc đời đáng sống trên đất nhờ ơn cứu rỗi của Đức Chúa Giê-su, Ngài dành sẵn cho chúng ta nhiều phước hạnh quý báu không xiết kể trong Nước vinh hiển Ngài.

Cầu xin Chúa ban phước cho quý vị luôn. A-men.

Mục sư Trần Hữu Thành.

CHÚA LƯU ĐÀY ISRAEL ĐẾN ASIRI, BABYLON VÀ THẾ GIỚI

CHÚA LƯU ĐÀY ISRAEL ĐẾN ASIRI, BABYLON VẢ THẾ GIỚI-


Tuyển dân đã phạm tội quá sâu,
Chúa lưu đày đi cả địa cầu,
Mười chín bốn tám họ lập quốc,
Chấm dứt án lưu đày nhiệm mầu.

Exe 4:4-6- Kế đó, ngươi khá nằm nghiêng mình bên tả, và để tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên tại đó. Ngươi nằm như vậy bao nhiêu ngày, thì mang lấy tội lỗi chúng nó cũng bấy nhiêu. Vì ta đã định cho ngươi một số ngày bằng với số năm của tội lỗi chúng nó, là ba trăm chín mươi ngày, ngươi sẽ mang lấy tội lỗi nhà Y-sơ-ra-ên như vậy. Vả lại, khi những ngày ấy đã mãn, ngươi khá nằm nghiêng mình bên hữu, và mang lấy tội lỗi của nhà Giu-đa, trải bốn mươi ngày ta định cho ngươi mỗi một ngày thay vì một năm. 
Phục 28:64–và Đức Giê-hô-va sẽ tản lạc ngươi trong các dân, từ cuối đầu nầy của đất đến cuối đầu kia; tại đó, ngươi sẽ hầu việc các thần khác bằng cây và bằng đá mà ngươi cùng tổ phụ ngươi không hề biết. 
Lê 26: 18,21,23-24, 27-28– Nếu đến đỗi vậy mà các ngươi không khứng nghe ta, ta sẽ vì cớ tội phạm, thêm gấp bảy lần đặng sửa phạt các ngươi

Vì sau khi vào đất hứa dân Israel không giữ năm sa bát là cho đất nghỉ một năm sau 6 năm canh tác, và họ cũng đã phạm tội thờ hình tượng nên Chúa hình phạt Israel bằng cách cho lưu đày đi:

1.Lưu Đày Đến Asiri (Iraq)_
Ép ra im hay bắc quốc Israel vong quốc vào năm 721TC. Và cả 10 chi phái bị lưu đày sang Asiri.- 2 Vua 17:6–Đoạn, vua A-si-ri đi lên xâm chiếm cả xứ, đến vây Sa-ma-ri trong ba năm. Năm thứ chín đời Ô-sê, vua A-si-ri hãm lấy Sa-ma-ri, đem dân Y-sơ-ra-ên sang qua A-si-ri, lập họ ở tại Cha-la và trên bờ Cha-bo, sông của Gô-xan, cùng trong các thành nước Mê-đi. 10 chi phái nầy đi khắp địa cầu, mãi năm 1948 có một thiểu số hồi hương.

2.Lưu Đày Đến Babylon— (606-536 T.C).==70 năm
Nam quốc Giu đa bị vua Nê bu cát nết Sa, của Babylon ba lần bắt dân di lưu đày.
– Lần 1 vào năm 606 TC., có Đa niên ên và nhiều người thuộc nhà quyền quý.
– Lần 2 vào triều vua Giê hô gia kin, có tiên tri Ê xê chi ên và thợ thuyền, công nhân…
– Lần 3 vào- năm thứ 11 triều vua cuối cùng là Sê đê kia. Quân Babylon phá thành Gierusalem và đền thờ.
Kể từ năm 606 TC. đến năm đại đế Ba tư là Siru lên ngôi (536TC) cuộc lưu đày Giu Đa tại Babylơn chấm dứt.
Dân Israel, chủ yếu là người Giu đa (Do thái), Lê vi, thầy tế lễ, số lượng khoảng 50 ngàn người đã trở về Israel xây lại đền thờ và thành thánh. Dân hồi hương nầy tồn tại mãi đến thời Tân ước, để sinh ra Chúa Jesus. Rồi vào năm 70 SC. Họ lại bị lưu đày lần nữa vì ho đã giết Đấng Mê-si. Đền thờ và thành thánh cũng bị tiêu hủy lần thứ hai.

3. Lưu Đày Đến Thế Giới
Phục 28:64 nói dân israel đã bị đày khắp thế giới. như 10 chi phái Israel không hồi hương vào năm 536 T.C, họ đã lưu lạc luôn. Rồi vào năm 70 S.C., dân Giu Đa đã đóng đinh Chúa Jesus nên cũng bị lưu đày nốt.
Tôi biết có một người Do thái làm giám đốc ngân hàng tư nhân tại Saigon trước năm 1975. Rõ là họ đã lưu lạc đến mọi quốc gia trên cả địa cầu nầy.

Theo Exechien 4, chúng ta thấy Chúa phải phạt Israel 390 năm và Giu đa 40 năm, tổng cộng là 430 năm. Dân Giu đa đã bị lưu đày sang Babyon 70 năm- Giê rê mi 25:11 chép- Cả đất nầy sẽ trở nên hoang vu gở lạ, các nước nầy sẽ phục sự vua Ba-by-lôn trong bảy mươi năm.
Như vậy lấy 430 năm trừ đi 70 năm, thì Israel còn phải bị án phạt lưu dày 360 năm nữa mới đủ hạn.

Rồi theo Lê vi ký 26:18, 21, 24, 28, Chúa 4 lần nói: vì họ không ăn năn ở xứ người đang khi sống lưu đày, nên Chúa phạt họ gấp 7 lần nữa.
Như vậy 360 năm x 7= 2520 năm theo kinh thánh.
Vì Năm Kinh thánh là 360 ngày một năm, mà năm dương lịch là 365 ngàyy ¼ một năm.. Như vậy 2520 năm của Kinh thánh đổi thành 2483 năm của dương lịch quốc tế.

Họ đã hồi hương sau khi lãnh hình phạt 70 năm vào năm 536 TC..
Nay chúng ta lấy năm 536 TC làm mốc, và cộng thêm 1948 bằng 2484. Lấy 2484 – 1 = 2483 ( vì năm Chúa sinh ra là ở giữa trước Chúa ( BC) và sau Chúa ( AD).).Chúng

 ta sẽ có con số 1948. Đó là năm Israel tái lập quốc tại đất tổ, vào ngày 14/5.


Kết luận 
Sau hơn 25 thế kỷ lãnh án phạt nặng nề của Đức Chúa Trời, theo nguyên tắc tổng quát, Israel đã mản hạn án lưu đày vì tội lỗi của dân tộc mình.
Trong cơn đại nạn dân Israel còn sót lại chưa tiếp nhận Cứu Chúa Jesus, Đức Chúa Trời sẽ có phương cách cứu họ nhưng dường như qua lửa và làm thành lời hứa  đối với tuyển dân của Ngài.

Minh Khãi  và MS JosephNa .

26-1-2016

NĂM MỚI, TẤM LÒNG MỚI

Bấm vào link dưới đây để nghe.

Năm Mới, Tấm Lòng Mới

Lu-ca 2:25-40
Mục Sư Lê Duy Tín

http://www.vietchristian.com/sermon/result.asp?id=7015&qt=playa

TÂM SỰ VỚI XUÂN

1451404104-viet-doan-van-ta-canh-mua-xuan

Kính tặng Mục sư Quản nhiệm và Ban Cơ đốc giáo dục, cùng những người thân nhân dip Tết Nguyên đán 2016
Bài thơ                           

            TÂM SỰ VỚI XUÂN

      *  Đông sang,xuân lại đến rồi,
Nhắc ta tâm sự bồi hồi xuân qua.!
          Nhưng xuân đến với mọi nhà,
Xuân đâu chỉ có riêng ta  bao giờ.

      *  Xuân về,sao lại ngẩn ngơ,
Tiếc thương xuân trước,bây giờ sao quên
          Chúa cho gia đạo êm đềm,
Cùng nhau sum họp,Cha thêm tuổi đời.
     
      *Xuân đi,xuân đến  đó thôi,
Ai ngăn xuân lại,chuyển lời tiêc thương.
        Tâm hồn ta  cứ vấn  vương,
Dù mơ hay tĩnh,thiên đường dõi trông.

      *  Lời Cha chạm đến cõi lòng :
Đời người quy luật,theo vòng xuân qua.
          Chúa đà định sẵn đời ta,
Nơi ăn chốn ở, tuổi đà bao nhiêu.+

      *  Hoa xuân tươi, dưới nắng chiều,
Cỏ khô,hoa rụng;   là điều Chúa ban.++
          Dù cho hoa đẹp,cũng  tàn,
Tuổi đời hương sắc,rõ ràng sẽ phai.

      *  Nếu ta nghĩ đến tương lai,
Vườn xuân vĩnh cửu,chẳng phai bao giờ.
         Dù ta  có tĩnh  hay mơ,
Chúa đà sắm sẵn,đang chờ đợi ta .
      
      
      *  Xuân nay thăm viếng mọi nhà,
Cầu cho xuân tuổi,trẻ già đều vui .
          Quan tâm, chăm sóc mọi người.
Hài lòng Chúa thánh,mĩm cười vì ta.

      * Ngày xuân sum họp nhà Cha,
Dâng lên khúc nhạc,lời ca ân tình.
         Đẹp lòng Chúa thánh xác minh:
Ngợi khen,làm chứng gia đình năm qua.
         Yêu thương,chia xẻ mọi nhà,
Tâm tình gởi gắm,lòng Cha nhân từ.

                                LÊ MAI  (Cao niên )

+     Thi thiên 139: 16
++   Thi thiên   90: 6

JERUSALEM TRẢI QUA CÁC THỜI ĐẠI

2015-02-05.11.13.29-jerusalem-green-building

Nhìn xem Si-ôn thánh, ngai của Vua công bình,

Chỗ họp các nước sau khi định phân nghiêm chỉnh,

Là Si-ôn công nghĩa trên núi cao hơn đồi,

Nơi lập pháp cho muôn dân phục hồi tươi mới.

Nhìn xem Si-ôn cũ, trong ánh quang khôi phục,

Chỗ dự các lễ cho thiên hạ trong vương quốc;

Hợp ca trong đêm thánh, dân Chúa vui vô hạn,

Khi Vầng Đá của Israel phơi sáng-

Bình an Si-ôn lớn, như nước con sông rộng,

Giúp mọi nước hưởng vinh quang hoàng kim vô đối,

Thi quan ai trông thấy, xương cốt nên khang kiện,

Trong lòng quá vui, trông mong dự phần vinh hiển.

Tại Si-ôn yêu dấu danh Chúa rao theo lệ,

Chỗ lời sống phát phân cho mọi dân xem lễ,

Người trông Quân Vương đến, van khẩn cho nơi nầy,

Yêu bụi đất Si-ôn, mong chờ đạp lên ấy.

Esai 33:20-Hãy nhìn xem Si-ôn, là thành của các kỳ lễ trọng thể chúng ta! Mắt ngươi sẽ thấy Giê-ru-sa-lem, là chỗ ở yên lặng, là trại sẽ không dời đi nữa, các nọc nó chẳng hề nhổ lên, chẳng có một cái dây nào đứt! 

Sáng 14:18-19-Mên-chi-xê-đéc, vua Sa-lem, sai đem bánh và rượu ra. Vả, vua nầy là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao,  chúc phước cho Áp-ram và nói rằng: Nguyện Đức Chúa Trời Chí Cao, là Đấng dựng nên trời và đất, ban phước cho Áp-ram!

Quan xét 1:7-8-Bấy giờ, A-đô-ni-Bê-xéc nói rằng: Có bảy mươi vua bị chặt ngón cái của tay và chân, lượm vật chi rớt dưới bàn ta. Điều ta đã làm, Đức Chúa Trời lại báo ứng ta. Người ta dẫn vua đến Giê-ru-sa-lem, và người chết tại đó. Người Giu-đa hãm đánh thành Giê-ru-sa-lem và chiếm lấy, dùng lưỡi gươm giết dân cư, và phóng hỏa thành-

Quan xét 19:11-12-Khi hai người đến gần Giê-bu, ngày đã xế nhiều rồi. Kẻ tôi tớ thưa cùng chủ rằng: Hè, chúng ta hãy xây qua đặng vào trong thành dân Giê-bu nầy, và ngủ đêm tại đó.  Chủ đáp rằng: Chúng ta không vào trong một thành kẻ ngoại bang, là nơi chẳng có người Y-sơ-ra-ên; chúng ta sẽ đi đến Ghi-bê-a.

2 Sam 5:6-7, 13-Vua và các thủ hạ kéo đến Giê-ru-sa-lem, đánh dân Giê-bu-sít, vốn ở tại xứ nầy. Chúng nó nói cùng Đa-vít rằng: Ngươi chớ vào đây: những kẻ đui và què, đủ mà xô đuổi người đi! – Nghĩa là muốn nói: Đa-vít sẽ không vào đây được. Nhưng Đa-vít hãm lấy đồn Si-ôn: ấy là thành Đa-vít.–Sau khi Đa-vít từ Hếp-rôn đến, thì còn cưới thêm những hầu và vợ ở Giê-ru-sa-lem-

Exora 1:11; 3:1– Khi những người bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn được dẫn về Giê-ru-sa-lem, thì Sết-ba-xa đem lên luôn hết thảy vật ấy.-Đến tháng bảy, khi dân Y-sơ-ra-ên đã ở trong bổn thành mình rồi, thì dân sự hiệp lại như một người ở tại Giê-ru-sa-lem-

Mathio 2:1- Vả, khi Jêsus đã sanh tại Bết-lê-hem thuộc Giu-đê đương đời vua Hê-rốt, có mấy bác sĩ từ Đông phương đến Giê-ru-sa-lem

Mathio 5:34-35-Chớ thề chi hết: ..đừng chỉ Giê-ru-sa-lem, vì là thành của Vua lớn.

Esai 2:2-3-Sẽ xảy ra trong những ngày sau rốt, núi của nhà Đức Giê-hô-va sẽ được lập vững trên đỉnh các núi, cao hơn các đồi. Mọi nước sẽ đổ về đó,  và nhiều dân tộc sẽ đến mà nói rằng: Hãy đến; chúng ta hãy lên núi Đức Giê-hô-va, nơi nhà Đức Chúa Trời của Gia-cốp: Ngài sẽ dạy chúng ta về đường lối Ngài, chúng ta sẽ đi trong các nẻo Ngài. Vì luật pháp sẽ ra từ Si-ôn, lời Đức Giê-hô-va sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem.

Esai 60:1-3– Hãy dấy lên, và sáng lòe ra! Vì sự sáng ngươi đã đến, và vinh quang Đức Giê-hô-va đã mọc lên trên ngươi.  Nầy, sự tối tăm vây phủ đất, sự u ám bao bọc các dân; song Đức Giê-hô-va dấy lên trên ngươi, vinh quang Ngài tỏ rạng trên ngươi.  Các dân tộc sẽ đến nơi sự sáng ngươi, các vua sẽ đến nơi sự chói sáng đã mọc lên trên ngươi

Galati 4:25-26-Vả, A-ga đây, tức là núi Si-na-i trong Ai-cập, chỉ về Giê-ru-sa-lem bây giờ, vì thành đó với con cái mình đều bị ở dưới ách tôi mọi. Nhưng Giê-ru-sa-lem ở trên là tự chủ, và là mẹ của chúng ta.

Đọc qua các câu Kinh thánh trên đây, chúng ta thấy từng thời đại, Đức Thánh Linh mặc khải về Giê ru salem càng lúc càng sáng tỏ hơn cho chúng ta.

1.Thời các tổ phụ:

Heb 7:1-3 chép “Vả, Mên-chi-xê-đéc đó là vua của Sa-lem, thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao, đã đón Áp-ra-ham khi ông ấy đánh giết các vua trở về, mà chúc phước cho.  Áp-ra-ham cũng lấy một phần mười về mọi vật mình đã thâu được mà chia cho vua. Theo sự dịch giải thì tên vua ấy trước nhứt là Vua sự công nghĩa, lại là Vua Sa-lem, tức là Vua bình an.  Người không cha, không mẹ, không gia phổ, không có ngày sanh thỉ, cũng không có ngày mạng chung, bèn là giống như Con Đức Chúa Trời, cứ làm thầy tế lễ mãi mãi”-

Chúng ta không biết nhiều về nhân vật Mên chi xê đéc. Qua ông chúng ta thấy Salem là thủ đô trong vương quốc huyền bí của ông.

2.Thời Chinh Phục Đất Hứa:

Chi phái Giu đa đã chiếm thành Salem, nhưng người Bên gia min không đủ sức định cư trong đó, nên vào thời các quan xét, Salem, cũng  được gọi là Giê bu, đã trở nên:-  “một thành kẻ ngoại bang, là nơi chẳng có người Y-sơ-ra-ên”;

3. Thời Các Vua:

David và quân đội ông từ Hếp rôn kéo nên bao vây đồn Si-ôn tnên núi Si-ôn và chiếm nó. Đa Vít xây Si-ôn thành trung tâm hành chánh của quốc gia Israel. Ông cũng xây cung điện ông tại Si-ôn. Đền thờ Gierusalem cũng được xây dựng trên đồi Mô ria trong quận Giê ru sa lem này. David cũng đã mở rộng thành Giê ru sa lem này và xây thành chung quanh và từ đó gọi là thành David.

Chúng ta thấy trong  Kinh thánh dùng  chữ “Giê-ru-salem” và “Si-ôn” rất gần gui với nhau. Nhưng Sion là thủ đô còn Giếualem là đền thờ thờ phượng Đúc Chúa Trời.

Từ thời Vua Đa vít, Giê ru sa lem, thành phố nói chung, và Si-ôn là cơ quan hành chánh quốc gia, đã trở thành thủ đô của quốc gia Israel cho đến ngày họ bị lưu dày, vong quốc vào khoảng năm 587 T.C.

4. Thời Hôi Hương

Sau khi hồi hương về đất thánh, Israel tái lập đền thờ và xây dựng thành Jerusalem như cũ. Jerusalem được phục hồi khoảng năm 538 TC và kéo dài mãi vào thời Chúa Jesus giảng đạo. Sau đó vào  năm 70 S.C, thành  Giê ru salem bị thái tử Titus của hoàng đế La mã triệt hạ. Họ đã san bằng đền thờ Giê ru sa lem, chỉ còn sót lại một đoạn bức tường của vách nội thành, bao quanh khu đền thờ cổ. Bức tường nầy nổi tiếng ngày nay, được gọi là “bức tường than khóc”. Hằng ngày có nhiều người Israel đến gần bức tường để cầu nguyện khóc lóc, hồi tưởng vinh quang quá vãng của dân tộc họ. Họ cầu mong Đấng Messiah hiện đến để giải cứu họ, phục hồi vinh quang cho họ.Thực sự thí họ đã giết Đấng Mê-si trên thập tự giá và ĐCT đã làm ứng nghiệm lời tự nhận khi họ cổ xuý giết Chúa ” huyết vô tội sẽ đổ lên chúng toi và con cháu chúng tôi” . Thật ĐCT không chịu khinh dễ đâu!

5. Thời kỳ Cây vả trổ lộc:

Ô sê 3:4-Vì con cái Y-sơ-ra-ên sẽ trải qua nhiều ngày, không vua, không quan trưởng, không của lễ, không trụ tượng, không ê-phót, và không thê-ra-phim-

Mathio 24: 42–Nầy, hãy học thí dụ nơi cây vả: vừa lúc nhành non, lộc nứt, thì các ngươi biết mùa hạ đã gần

Dân Israel mất chủ quyền thực thụ trên xứ sở từ 26 thế kỷ rồi và lần lưu đày sau cùng, năm 70 SC, gần như xóa sổ Giê ru salem. Bản đồ quốc gia Do thái đã bị xoá trên bản đò thế giới cho đến năm 1948.

Sau khi lập quốc năm 1948, và được Liên hiệp quốc công nhận sự hiện hữu của Israel, nhưng họ lấy thành phố Tel Aviv (Đồi Xuân) làm thủ đô, chớ không thể phục hồi thủ đô Jerusalem, dù từ năm 1967, họ đã hoàn toàn kiểm soát Jerusalem. Năm 1980, Israel dự định đem thủ đô về Jerusalem,( thành David) thì bị phe Á rập phản đối dữ dội.

Cây Vả Do thái sau 68 năm nức lộc chắc chắn mùa hạ sẽ đến và sẽ có thủ đô Jerusalem như cũ. Cách thực hiện thuộc về ý muốn của Đấng Toàn năng ( Omnipotent / all-pơerfull). Điều này là huyền nhiệm chỉ có Chúa biết.

6. Thời Thiên Hi Niên-

Sách E sai và các sách tiên tri khác dự ngôn ngày đến, Giê ru salem sẽ là thủ đô của địa cầu. Muôn dân tộc mới trên địa cầu sẽ đến Giê ru sslem mỗi năm ba lần để thờ phượng Chúa và hầu việc dân Israel.

Xa 14:16- Xảy ra hết thảy những kẻ nào còn sót lại trong mọi nước lên đánh Giê-ru-sa-lem, sẽ lên đó hàng năm đặng thờ lạy trước mặt Vua, là Đức Giê-hô-va vạn quân, và giữ lễ lều tạm.

7. Giê ru sa lem mới

Trong Ga la ti 4, Phao lô nói rằng toàn bộ lịch sử của Giê ru salem mà chúng ta vừa duyệt qua là thuộc về Giê ru sa lem trên đất, chúng ta các Cơ Đốc nhân thuộc về Giê ru salem ở trên trên trời , là Giê ru sa lem mới mà Khải thị 21-21 miêu tả. Chúng ta sẽ có một quê hương mới là trời mới, đất mới và một đền thờ để thờ phượng Đức Chúa Trời là Giê-ru-sa-lem mới.

Tại sao Phao lô châm biếm họ là : « núi Si-na-i trong Ai-cập, chỉ về Giê-ru-sa-lem bây giờ, vì thành đó với con cái mình đều bị ở dưới ách tôi mọi » ?

Jerusalem trên đất và con cái họ là núi Sinai sao ? Ngụ ý thuộc về Do thái giáo theo kinh luật khắc khe. –Còn họ giống Ai cập là vì tình trạng luân lý của họ đồi bại như xứ Ai cập sao ? Tại sao Phao lô châm biếm như vậy ? Ông ngụ ý khuyên chúng ta : Bạn đừng hãnh diện về cố đô Jerusalem yêu dấu với chiều dài lịch sử của nó. Chúng ta hãy trông chờ Giê ru sa lem mới là đền thánh đời đời   cho những ai trông cậy sự cứu chuộc bởi ân điển trong danh Jesus chứ không phải cho những ai trông cậy vào luật pháp nữa .

Minh khải 13-1-2016

Post Navigation