Hội Tin Lành Liên Hiệp

Vinh hiển thuộc về Chúa

KÝ ỨC PHỤC SINH

the_walk_to_emmaus

MỪNG CHÚA PHỤC SINH 2016

Thay mặt Giáo Hội Tin Lành Liên Hiệp Toàn Cầu – Việt Nam

Hội trưởng: Mục sư Nguyễn Đức Na

KÝ ỨC PHỤC SINH
( The Resurrection Memory )

Trong mùa Phuc sinh năm nay tôi muốn cùng tôi con của Chúa suy nghĩ về những ký ức đã được sống lại trong số các môn đồ (disciples) và các sứ đồ của Chúa (apostles) trong khoảng thời gian  từ khi Chúa bị bắt bớ, chịu thương khó và sống lại từ âm phủ .

I/ SƠ LƯỢT VỀ KÝ ỨC:

(Generality of Memory)

Ký ức (Trí nhớ) là khả năng của trí óc có Thể nhớ lại những sự kiện mà nó đã ghi nhận. Khi chúng ta không nhớ nổi một sự kiện mà ai đó nhắc lại, ta thường nói tôi e rằng sự kiện đó đã trượt khỏi ký ức của tôi .(I am afraid that the fact slipped my memory.)
Trong nảo bộ của con người, khoa học tìm thấy rằng có một vùng gọi là ” hạnh nhân” (amygdala) nó  tạo cảm xúc và in dấu những ký ức của con người.  Lớp ngoài của vỏ nảo lưu giữ trí nhớ ( ký ức) dài hạn ở những khu vực khác nhau.Một Vùng sâu trong nảo bộ (hippocampus) sẽ có nhiệm vụ duy trì ký ức.

 II/ ĐIỀU KIỆN ĐỂ KÝ ỨC HỒI SINH.

 (Conditions for resurrection memory)

 1/ Hiện Tượng Sinh Học:

 ( Biological phenomena )

 Muốn ký ức tái xuất hiện, ký ức phải được in dấu trong vỏ nảo và được lưu giữ ở đó.

 2/ Hiện Tượng Tâm lý.

 ( Psychological phenomena )

Một người có lòng nhân ái (charity) thì ký ức dễ tái hiện.

Hai môn đồ đi về làng Em-ma-út cùng với Chúa, họ đã chân tình với lòng nhân ái, giục Ngài vào làng nghĩ lại đêm vì trời đã sập tối. Họ lo cho sự an nguy của người khách bộ hành xa lạ với hành trình tiếp theo trong đêm tối. (Luke 24:29 ) But they urged him strongly, “Stay with us, for it is nearly evening; the day is almost over.” So he went in to stay with them.”

Giả sử họ không nhiệt tình mời Chúa với lòng Trắc ẩn (compassion) thi họ đã không gặp được “Chúa Phục Sinh”,hay nói cách khác ký ức về Chúa không có dịp hồi sinh đúng lúc.

3/ Hiện Tượng Hướng Thượng.

 (Spiritual phenomena )

Một tấm lòng hướng thượng cũng là một điều kiện để ký ức hồi sinh.

Hai môn đồ tìm kím Chúa nhưng không gặp, lòng họ buồn bã không biết Chúa mình đang ở đâu vì như Chúa quở trách họ  là “ngu dại và có lòng chậm tin vào những lời tiên tri.” “How foolish you are, and how slow of heart to believe all that the prophets have spoken” ( Luke 24:25).

Tuy vậy lòng họ lúc nào cũng suy nghĩ về Chúa mình. Một tâm hồn hướng thượng.

Chúng ta ai cũng biết rằng Juda là sứ đồ của Chúa, nhưng lòng Ông hướng về vật chất nên lời quở trách của Chúa trực tiếp đến với Ông không được kích hoạt để in dấu ở vỏ nảo để được duy trì. Do đó Juda không có một ký ức nào để hồi sinh! Và Ông đã treo cổ tự vận!

4/ Đức Thánh Linh Hành Động .

Trong đời sống thuôc linh, những người thuộc về Đức Chúa Trời thì Đức Thánh Linh là Đấng sẽ hành động trong chúng ta để ký ức của chúng ta tái xuất hiện với mục đích làm cho chúng ta ăn năng, nóng cháy và đứng dậy Phuc sự Ngài.

” But the Councellor,  the Holy Spirit, whom the Father will send in my name, will teach you all things and will remind you of everything.”

III/ NHỮNG YẾU TỐ GIÚP KÝ ỨC HỒI SINH:

  (Elements to support the resurrection of memory)

1/ Hành Động. (Action).

 Đang khi ngồi ăn cùng 2 môn đồ, thì Chúa hành động với tư cách là Chúa của họ chứ không phải là khách mời. Ngài chủ động lấy bánh, cảm tạ, bẻ ra và phân phát cho họ. Ngài biết rằng hành động của Ngài sẽ tái hiện ký ức về Chúa của họ vì nhiều lần các môn đồ này đã ghi nhận hình ảnh Chúa lấy bánh , tạ ơn rồi bẻ ra và phân phát cho môn đồ. Thay vì Chúa nói với họ Ta là Chúa phục sinh đây, Ngài cho họ  một hành động , tức thì mắt họ mở ra và nhận biết Ngài.

” When he was at the table with them, he took bread, gave thanks, broke it and began to give it to them. Then their eyes were opened and they recognized  him, and he disappeared from their sight.”

  2/ Âm Thanh. (Sound)

 Phi-e-rơ trong khi đứng trước uy quyền đã để cho tâm thần mình yếu đuối cho nên đã chối Chúa đến 3 lần.Tức thì gà gáy, một âm thanh vang lên trong khoản không gian tỉnh mịnh va lạnh lẻo “tiếng gà gáy “. Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa phán “Trước khi gà gáy,  ngươi sẽ chối ta 3 lần.”  Mặc dù trước đó Phi-e-rơ đang nói những lời mạnh mẽ, quyết chí theo Chúa tưởng chừng không ai bằng.

“Immediately a cock crowed . Then Peter remembered the words Jesus had spoken: Before the cock crows, you will disown me three times.”

Âm vang tiếng gà gáy đã hồi sinh ký ức của Phi-e-rơ. Ông đã đi ra ngoài và khóc lóc đắng cay.

” And he went outside and wept bitterly.”

3/ Hình ảnh. (Image)

Khi tiên tri Giô-na đã theo ý mình, không vâng lời Chúa đến cảnh cáo thành Ni-ni-ve mà đi Ta-rê-si, bảo tố nổi lên và người ta trên thuyền phát hiện lý do bảo tố là vì Giô-na.

Giô-na bằng lòng để người ta liệng mình xuống biển để sóng yên gió lặng.

Chúa đã dự bị một con cá lớn nuốt Giô na vào bụng.

Trong bung cá, Giô-na để cho ký ức mình hồi sinh. Ông thấy đền thánh mà Ông đã từng ở trong đó nguyện cầu.

Giô na nói rằng tôi đã bị ném khỏi trước mặt Ngài; dầu vậy tôi còn nhìn lên đền thánh của Ngài.

“I have been banished from your sight; yet I will look again towards your holy temple.” ( Jonah 2:4) 

Giô-na đã cầu nguyện với ký ức là mình đang ở trong đền thánh và đã cầu nguyện rằng khi linh hồn tôi mòn mõi trong tôi, thì tôi nhớ đến Đức Giê Hô Va, và lời cầu nguyện của tôi đạt đến Ngài, vào đền thánh Ngài.

 “When my life was ebbing away, I remember you, Lord, and my prayer rose to you, to your holy temple.”

LỜI KẾT:

Mong rằng khi đọc những giòng chữ này, lòng của quý vị hãy rộng mở với lòng vị tha, nhân ái, mọi tự ái , tị hiềm nhỏ nhen nhường chỗ cho tình yêu của Chúa Phục sinh để những ký ức đáng trân quý trong mỗi chúng ta được Đức Thánh Linh làm cho sống lại . Khi đó chúng ta cũng sẽ nói như các môn đồ có ký ức về Chúa phục sinh rằng : “Lòng chúng ta há chẳng nóng nảy sao? Nội giờ đó họ liền đứng dậy, trở về thành Giê ru sa lem gặp mười một sứ đồ cùng các môn đồ khác đương nhóm lại nói với họ rằng: Chúa thật đã sống lại, và hiện ra với Si môn”.( Luca 24: 32-34). 

Và nếu có ai hỏi bằng cớ Chúa sống đâu nào, “rằng Chúa sống trong lòng này” một cách chân thành không hề dối trá, hay tô vẻ cho mình một hình thức “Phục sinh” bên ngoài với đủ mọi nhản mác (lables) để tự đánh lừa mình và đánh lừa người khác.

Một đời sống thực sự Phục sinh là một đời sống nóng cháy phục vụ tha nhân theo gương “Chúa Jesus Phục Sinh.”, là một đời sống đích thực phước hạnh.

 

Amen.

Mục sư JosephNa.

KỶ VẬT ĐỂ LẠI

ky vat

Gia đình của Paul Weeks đi du lịch từ Australia đến Malaysia vào đầu tháng 4 năm nay. Họ được hạnh phúc bên nhau tại đất nước xinh đẹp có tòa tháp đôi Petronas. Vì tài chánh eo hẹp, họ chỉ có ít ngày đi chơi ngắn ngủi rồi phải chia tay nhau. Vợ anh, Danica và hai con sẽ bay về lại Australia, còn anh sẽ bay đi Mông-Cổ.

Hôm nay, họ thực hiện cuộc chia tay đó và cùng ra sân bay trên một chiếc taxi trong thời tiết nắng đẹp…

Ngồi thoải mái ở băng ghế trước, Weeks quay lại hào hứng nói với Danica:

– Anh đến Mông-Cổ làm kỹ sư cơ khí cho một hãng xưởng chuyên sản xuất máy móc nông nghiệp. Anh sẽ ký hợp đồng với họ trong thời gian 5 năm với mức lương cao. Mỗi năm, anh được nghỉ phép nửa tháng để về thăm em và các con một lần. Vì cuộc sống, chúng mình đành phải tạm xa nhau vậy.

Dù đã được nghe Weeks nói vài lần và cả hai vợ chồng nằm đêm tâm sự với nhau, Danica cũng không khỏi chạnh lòng khi mình sắp sửa xa cách người chồng yêu dấu. Cô nói nhỏ với chồng:

-Em biết, anh yên tâm mà đi. Ở nhà, em sẽ lo cho hai đứa nhỏ.

Lincoln Weeks, thằng con trai lớn 3 tuổi, nghe lõm bõm được câu chuyện, dù không hiểu hết, nó chen vô:

-Ba cứ đi đi, ở nhà con sẽ ngoan với mẹ.

-Ừ, con trai của ba, giúp ba nhé. Lại trông chừng em nữa đó!

-Dạ.

Còn Jack Weeks 11 tháng tuổi thì đã ngủ ngon ở băng sau trong chiếc ghế dành cho trẻ em, gương mặt như thiên thần.

Họ lại im lặng với nhau, mỗi người một ý nghĩ cho đến khi taxi đưa gia đình Weeks đến sân bay…

Paul Weeks và Danica đã lập gia đình với nhau được 5 năm. Cuộc sống hôn nhân của họ không được suông sẻ lắm. Thời trẻ, Weeks nhập ngũ trong quân đội New Zealand. Sau khi giải ngũ, anh theo học ngành cơ khí nông nghiệp và tốt nghiệp bằng kỹ sư. Mãi đến năm 34 tuổi anh mới gặp được Danica, một cô giáo tiểu học còn rất trẻ. Weeks da ngăm đen, cao lớn và rắn rỏi còn Danica thì dáng thon thả, da trắng như trứng gà bóc nhưng họ yêu nhau nhiệt thành và cưới nhau luôn trong năm. Căn nhà của họ ở Christchurch sau vài năm chung sống không may bị động đất tàn phá nên gia đình phải chuyển tới sinh sống ở Australia. Ở đây, công ăn việc làm có phần khó khăn, nhất là sau khi Danica sinh đứa con thứ hai, cô ấy phải nghỉ dạy học để ở nhà chăm sóc hai đứa trẻ. Trong hoàn ảnh như vậy, đọc được thông tin tuyển việc làm là người nước ngoài trên báo, Weeks liên lạc với họ và quyết định đi Mông Cổ với hy vọng đổi đời.

Hôm nay, ngày ấy đã tới, anh như chạm được vào cánh cửa của ước mơ đã biến thành sự thật…

Xuống xe taxi, Weeks đẩy xe hành lý cùng vợ và các con vào quầy làm thủ tục cho cả hai chuyến bay. Anh sẽ lên chuyến bay MH.370 của Malaysia Airlines từ Kuala-Lumpur đi Bắc Kinh, rồi sau đó chuyển tiếp máy bay khác đi Mông-Cổ, vợ và hai con sẽ đi một chuyến bay khác sau đó vài giờ để về Australia.

Trong phòng chờ trước khi vào phòng cách ly, vì chuyến bay của Weeks cất cánh sớm hơn chuyến bay của Danica, anh tháo chiếc nhẫn cưới và chiếc đồng hồ đang đeo ra, nói với Danica:

– Đây là kỷ vật trong ngày cưới của chúng ta. Nếu có chuyện gì xảy ra với anh, nhẫn cưới của chúng ta sẽ được trao lại cho đứa con nào cưới vợ trước. Đứa cưới vợ sau sẽ có cái đồng hồ này của anh.

Danica giận dỗi:

– Sao anh lại nói gở như thế! Anh không giữ gì để kỷ niệm cho mình, để nhớ em và các con sao?

– Không sao đâu, hình ảnh em và các con nằm trong tim anh, làm sao quên được. Nhưng tính anh cẩn thận, lo xa như thế cũng không thừa đâu.

Danica buộc phải cầm lấy kỷ vật của chồng, cô rơm rớm nước mắt:

– Em cầu Chúa ban bình an và phúc lành cho anh.

– Anh cũng chúc em và các con vui vẻ, về Úc bình an. Anh đã nhờ nhân viên trợ giúp đưa em và các con lên máy bay rồi. Anh sẽ điện thoại ngay khi tới nơi.

Weeks ôm vợ hôn thật lâu, anh xúc động muốn khóc, hai mắt đỏ hoe. Lincoln thấy thế kêu lên:

– Kìa, ba lớn rồi mà còn khóc!

Nói xong, nó lại khóc òa lên làm thằng Jack cũng giật mình khóc theo.

Weeks luống cuống, anh rời khỏi tay vợ ôm lấy Lincoln:

–  Lincoln, con đã hứa với ba là ngoan mà, nín đi con, ba đi rồi ba sẽ về lại với con thôi.

Thằng bé chỉ còn thút thít. Weeks quay sang vợ, Jack vẫn đang khóc. Anh đỡ lấy con từ Danica, hôn lấy hôn để vào đôi má đỏ hồng của nó, thằng bé cũng im bặt. Weeks hôn vợ lần nữa, nắm tay các con thật chặt, che dấu những giọt nước mắt vụng về rồi vội vã vào phòng cách ly, mặc cho Lincoln khóc thét và gào lên:

–            Ba ơi, cho con đi với ba!

Trong cửa kính, Weeks đưa tay chào cả nhà một lần nữa. Danica ngồi sụm xuống ghế, mắt nhòa lệ…

images (1)

Nhưng định mệnh thật trớ trêu, chỉ một tiếng đồng hồ sau khi máy bay cất cánh từ Kuala-Lumpur ngày 8/3/2014, Weeks cùng 238 người khác cùng đi trên chuyến bay MH.370 đã biến mất trên bầu trời cách bí ẩn. Thật không ngờ buổi chia tay tạm biệt đó trở thành một cuộc chia ly dài vô tận. Ước mơ của Weeks như tưởng nằm trong tầm tay lại vụt bay đi. Weeks không tới được Mông-Cổ để thực hiện ước mơ đổi đời và bao nhiêu “chuyến đi cuộc đời” bị lỡ chuyến, không tới được nơi mình định đi đến. Thật là một thảm họa trong lịch sử hàng không thế giới.

Danica không hề hay biết gì hết, cô cùng hai con đáp một chuyến bay khác sau đó vài tiếng đồng hồ và về Australia bình an. Ngày hôm sau, tin tức truyền thông loan báo chuyến bay MH.370 mất tích nhưng Danica không nhớ rõ số hiệu chuyến bay của chồng và cũng không nghĩ rằng chuyến bay đó có Weeks. Lo lắng, Danica gọi điện thoại đến văn phòng Malaysia Airlines để xác minh, cô đổ gục xuống sàn khi nhân viên sân bay thông báo có tên Paul Weeks trong danh sách. Không hết hy vọng, Danica gọi điện cho bạn của chồng mình, người sẽ đón anh ấy tại Mông-Cổ để xem thử anh ấy đã đến chưa, cô ngã xuống một lần nữa khi nghe tin không có anh ấy trong chuyến bay đến Mông-Cổ sáng hôm nay.

Danica không dám cho Lincoln biết, nó hãy còn quá nhỏ không thể hiểu và hình dung được điều gì mà có thể sẽ bị sốc nữa. Cô cam chịu một mình, chưa vội tin cho gia đình vì Danica vẫn hy vọng máy bay đang ở đâu đó…

Hai ngày, ba ngày, năm ngày… và nhiều ngày trôi qua máy bay vẫn bặt vô âm tín, hy vọng trong cô giảm dần và gần như tuyệt vọng. Cha mẹ, anh em đôi bên gia đình đã biết tin, họ đến để cùng chia sẻ nỗi đau với Danica. Cô nói cứng với mọi người:

-Tôi không thể từ bỏ hy vọng. Tôi muốn được nhìn thấy anh ấy như thường ngày. Anh ấy sẽ đi làm về, đứng trước cửa ra vào và chúng tôi sẽ lao ra ôm anh ấy. Rồi tôi có thể nhìn thấy anh ấy mọi nơi trong căn nhà!

Tuy nói như vậy nhưng trong lòng Danica như có ai vò nát từng cơn, mỗi lúc mỗi nóng hơn, rát hơn. Cô bắt đầu đau dạ dày, không ăn uống và cũng không ngủ được chút nào. Các con của Danica đã được người nhà nhận chăm sóc, còn cô suốt ngày ngồi cạnh tivi, máy tính để cập nhật tin tức về chuyến bay, trả lời điện thoại và khóc…

Chuyến bay đã biến mất một cách kỳ lạ, không để lại một thông tin nào. Đến nay, mọi cố gắng tìm kiếm đều thất bại. Người ta tin rằng biển sâu trên 4.500m ở Nam Ấn-độ -dương là mồ chôn tập thể vĩnh viễn chiếc Boeing 777-200 với 239 nhân mạng.

Danica không còn sức để khóc. Cô như người mất hồn. Ngày nào cô cũng lấy hai kỷ vật để lại của chồng ra mân mê, ngắm nghía, nói lẩn thẩn một mình:

– Cái nầy của Lincoln, cái nầy của Jack, còn của em đâu Weeks? Anh biết lần nầy sẽ đi xa, xa lắm và không trở về nữa, sao anh không cho em cùng đi với anh? Tại sao? Người ta chuẩn bị để sống còn anh chuẩn bị để chết? Sau nầy, em sẽ trả lời với con ra sao khi chúng hỏi về anh đây hả Weeks?

Ai nghe Danica lẩm bẩm mà không khỏi cầm được nước mắt? Mọi sự an ủi lúc nầy có vẻ như thừa, chỉ có thời gian mới chữa lành được vết thương lòng. Và thật vậy, thời gian dần trôi, nỗi đau như được chữa lành, Danica đã vững vàng hơn nhiều.

Trong buổi cầu nguyện tại nhà thờ nhân kỷ niệm một tháng ngày máy bay mất tích, Danica nhớ từng lời của vị mục sư nói:

– Chúa có chương trình tốt đẹp cho mỗi người chúng ta. Mọi người sinh ra trên đời đều có một thời gian dành cho mình dài hay ngắn là tùy theo ý muốn và là bí mật của Ngài. Ai trong chúng ta cũng phải từ giã cõi đời, chỉ khác là sớm hay muộn và ra đi như thế nào mà thôi. Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã sống thế nào trong quỹ thời gian ít ỏi mà Thiên Chúa ban tặng cho ta đó?

Paul Weeks đã sống một cuộc sống có giá trị, biết yêu thương và chia sẻ rồi anh đã ra đi như một người dũng cảm ở tuổi 39. Weeks đã giã từ chúng ta để đi xa cùng với rất nhiều người nhưng ta tin rằng anh ấy đã chuẩn bị để đến được cõi vĩnh hằng. Danica cùng các con của cô và chúng ta đau buồn vì không còn anh ấy ở đây nhưng ít nữa chúng ta cũng được sự an ủi nầy: Chúa đã tiếp đón Weeks vào trong vòng tay của Ngài.

Điều Thiên Chúa đã lấy đi ít hơn điều Danica còn lại: Cô ấy còn hai đứa con là hình ảnh của Weeks cùng kỷ vật để lại của anh: Một chiếc nhẫn cưới, một cái đồng hồ đeo tay. Hai kỷ vật nầy thật là ý nghĩa cho Lincoln và Jack cũng là niềm tự hào cho Danica nữa.

Danica, cô còn hơn nhiều người lắm! Cô có những ngày hạnh phúc với Weeks, có kỷ vật để lại của anh và những phút giây chia tay thật cảm động nhưng những người khác thì không có được như vậy. Đó là niềm an ủi cho cô. Cầu Chúa ban bình an cho cô và các cháu…

Tôi rất xúc động khi viết lại câu chuyện nầy dưới hình thức một truyện ngắn và xin dừng lại ở đây với một câu hỏi cho mình và cho bạn:

–  Vì ngày mai là một bí mật nên chúng ta đã chuẩn bị gì cho chuyến đi của mình và định để lại kỷ vật nào cho những người thân yêu?

THUẬN THIÊN

CHÚA GÁNH ĐAU THƯƠNG !

000-jesus39-1619

              CHÚA GÁNH ĐAU THƯƠNG !

    *  Chiều xưa ,mây trắng  ngừng trôi,
Hoàng hôn chầm chậm trên đồi Gô -tha.
U buồn gió nhẹ lướt qua,
Ngàn cây in bóng,sương sa trên đường.
Không gian mờ mịt thê lương ,
Giê xu vui gánh đau thương một mình.!

     * Vì sao Chúa phải hy sinh?
Mão gai Ngài đội,thân hình đớn đau!
Loài người ác nghiệt lắm thay:
Tay chân đinh đóng, hông Ngài huyết tuôn .
Đau thương,sĩ nhục trám đường,
Treo thân thập giá,là phương cứu người.

     * Nhưng Giê-xu chắng  nên lời,
Tấm lòng vâng phục,rạng ngời tình yêu.
Vì con ,Chúa chịu mọi điều,
Đớn đau Ngài gánh bao nhiêu nhục hình.
Con Trời đành phải hy sinh,
Tim Ngài tan vỡ, tội mình Chúa mang.

     * Đêm nay nhớ Chúa vô vàn!
Vì yêu Ngài phải,sẵn sàng phó thân.
Ai ơi , xin hãy  đến gần,
Tìm về thập giá, cứu ân  đời  đời.
Hồng ân rãi khắp nơi nơi,
Ơn Thiên lai láng, rạng ngời vinh quang.

Lễ Thương Khó 2016                              

 LÊ MAI

* Phỏng theo TC  593

BÔNG HOA ĐẸP NHẤT

CubbanPark

Ghế công viên một mình tôi ngồi đọc
Cội liễu già phủ rợp bóng hoang sơ
Buồn làm sao cơn sóng đời vùi dập
Cuộc thế gian truân, hồn mãi sững sờ

The park bench was deserted as I sat down to read
Beneath the long, straggly branches of an old willow tree.
Disillusioned by life with good reason to frown,
For the world was intent on dragging me down.

Chưa đủ sao cho một ngày tơi tả
Thằng bé mon men lại đến quấy rầy.
Đứng trước tôi đầu nghiêng về phía trước
Nó nói, “vui thay, tìm được vật này!”

And if that weren’t enough to ruin my day,
A young boy out of breath approached me, all tired from play.
He stood right before me with his head tilted down
And said with great excitement, “Look what I found!”

Trong bàn tay một đóa hoa xơ xác
Không đủ mưa đủ nắng, cánh tả tơi
Muốn đuổi nó đi với đài hoa chết
Tôi gượng cười đoạn nhìn cõi xa xôi

In his hand was a flower, and what a pitiful sight,
With its petals all worn – not enough rain, or too little light.
Wanting him to take his dead flower and go off to play,
I faked a small smile and then shifted away.

Thay vì đi nó đến ngồi bên cạnh
Nâng đóa hoa lên mũi ngửi vài giây,
Trong ngạc nhiên nó kêu lên, “thật tuyệt!”
“Mùi hoa thơm và sắc cũng diệu kỳ!”

But instead of retreating he sat next to my side
And placed the flower to his nose
And declared with overacted surprise,
“It sure smells pretty and it’s beautiful, too”.

Trước mắt tôi, cành hoa khô đã chết
Đã không còn màu sắc: đỏ vàng cam
Nhưng phải lấy, kẻo nó nhây ngồi mãi
Tôi vươn tay, “Đây là cái tôi cần!”

The weed before me was dying or dead.
Not vibrant of colors: orange, yellow or red.
But I knew I must take it, or he might never leave.
So I reached for the flower, and replied, “Just what I need.”

Thay vì đặt vào tay tôi mong đợi
Nó đưa giữa lừng không một lý do
Chỉ chừng đó tôi bỗng nhìn ra được
Đứa trẻ cầm hoa đôi mắt đã mù!

But instead of him placing the flower in my hand,
He held it mid-air without reason or plan.
It was then that I noticed for the very first time
That weed-toting boy could not see: he was blind.

Giọng tôi nghẹn, lệ trào dâng trong nắng
“Cảm ơn em đã nhặt đóa hoa xinh!”
“Không có chi”, em mỉm cười bỏ chạy
Nào hiểu với tôi đời lại hữu tình!

I heard my voice quiver; tears shone in the sun
As I thanked him for picking the very best one.
“You’re welcome,” he smiled, and then ran off to play,
Unaware of the impact he’d had on my day.

Tôi ngồi đó tự hỏi sao em thấy
Người đàn bà trách phận dưới cành dương
Sao em biết cảnh ngộ tôi vùi dập?
Chắc từ tim em, thần nhãn thiên-đường!

I sat there and wondered how he managed to see
A self-pitying woman beneath an old willow tree.
How did he know of my self-indulged plight?
Perhaps from his heart, he’d been blessed with true sight.

Qua mắt mù em, cuối cùng tôi thấy
Đau khổ thế gian, đã đến từ mình
Trong những lúc theo dòng đời xuôi ngược
Tôi đã mù nào thấy được bình minh

Through the eyes of a blind child, at last I could see
The problem was not with the world; the problem was me.
And for all of those times
I myself had been blind,

Tôi nguyện sẽ nhìn thấy đời tươi đẹp
Cảm kích với từng giây phút mong manh
Tôi chợt nâng lên đóa hoa tàn rũ
Thở vào lòng hương sắc đóa hồng xinh

I vowed to see the beauty in life,
And appreciate every second that’s mine.
And then I held that wilted flower up to my nose
And breathed in the fragrance of a beautiful rose

Tôi mỉm cười mắt nhìn theo cậu bé
Giờ đây em với hoa dại cầm tay
Mon men đến bên cụ già trầm mặc
Để sẽ cho ông hạnh phúc đủ ngày.

And smiled as I watched that young boy,
Another weed in his hand,
About to change the life of an unsuspecting old man.

(Thơ của Cheryl Costello-Forshey – Lê Việt Mai-Yên chuyển ngữ)

ĐỪNG HAM CHỨC VỤ

Dường như sự cô đơn là cái giá mà ông phải trả cho sự kêu gọi của mình. Khi nghĩ về những ngày đã qua, về họ, những người ông yêu thương nhất cũng lại là những người đem đến cho ông nhiều nỗi đau nhất.

Họ không hiểu sự kêu gọi của ông!

Ông mang ơn chị, người đã cứu ông thoát chết khi còn nhỏ, người đã đi cùng ông suốt những ngày khó khăn trong đồng vắng. Nhóm múa Mi-ri-am của chị đã truyền lửa mạnh mẽ cho cả trại quân.

A-rôn lại giúp ông nói chuyện với Pha-ra-ôn, rồi khi vào đồng vắng anh ấy giúp ông chăm sóc bầy chiên của Chúa trong vai trò thầy tế lễ thượng phẩm.

Hai người ấy luôn ở bên phải ông vậy. Ông sống một mình đã lâu, vợ ông đã bỏ đi kể từ ngày ông quay lại Ai Cập, chỉ còn họ là anh, chị, là bạn đồng lao của ông. Vậy mà họ cũng nghi ngờ ông, nghi ngờ thẩm quyền mà Chúa đặt để ông, họ thắc mắc tại sao chỉ một mình ông được ra mọi quyết định, tại sao lúc nào cũng là ông mà không phải là họ: thầy tế lễ thượng phẩm A-rôn hay nữ tiên tri Mi-ri-am. Họ nghĩ ông độc đoán và tự tôn cao mình.

Mi-ri-am khó chịu về điều này, chị ấy kéo A-rôn vào cuộc. A-rôn thì vẫn vậy, tính anh ấy dễ cả nể lắm, không quyết đoán được. Bởi vậy mà bị dân sự lôi theo làm bò vàng để thờ, nhờ Chúa thương nhận lời cầu thay của ông chứ không thì bị phạt chết rồi. Lần này cũng thế, chẳng suy tính gì cả, nghe theo Mi-ri-am kiện cáo ông. Họ nghĩ ra kế rằng ông phạm tội vì cưới người Cu-sơ làm vợ. Nhưng lúc đó Chúa chỉ cấm lấy người Ca-na-an thôi, chứ đâu cấm lấy người Cu-sơ là một dân tộc ở gần Ai-Cập. Thực ra là chị ấy ghen tỵ vì Chúa chỉ phán với ông không phán với chị ấy.

Ông thì lại khác, ông muốn tất cả mọi người đều nói tiên tri được, ông muốn thêm nhiều người giúp ông gánh vác công việc nặng nề này nhưng chị ấy mất bình an. Chị ấy cảm thấy giá trị của mình bị ảnh hưởng, đặc biệt là sau khi bầu thêm bẩy mươi trưởng lão, chị ấy cảm thấy vị trí của mình không còn quan trọng như trước nữa.

Chị ấy lớn lên ở Ai Cập, dân tộc chị bốn trăm năm làm nô lệ, đã có bao giờ được tôn trọng, được vị thế đâu nên địa vị, quyền lực quan trọng lắm. Ông thì lớn lên ở cung điện, ông có nó ngay từ nhỏ, nó chẳng làm cho ông thấy thỏa mãn hay dễ chịu gì.

Mọi chuyện làm sao dấu được Chúa, Chúa giận lắm, phạt chị ấy bị bệnh phong da thịt thối rữa hết một nửa.

Cả trại quân đều biết hết, A-rôn sợ lắm, A-rôn hoảng hốt xin ông hãy cầu thay cho chị ấy.

Làm sao ông có thể quên được cái giây phút ấy, đau đớn, xót thương khi nhìn thân thể của chị mình đang thối rữa ra. Ông nài xin Chúa chữa lành cho chị ấy, Chúa nhận lời ông, nhưng chị ấy vẫn phải ở ngoài trại quân một tuần cho lành hẳn mới được vào lại.

Môi-se dừng lại lấy khăn chặn những dòng nước mắt đang chảy dài trên đôi gò má nhăn nheo của tuổi 120. Đám thanh niên yên lặng, một vài tiếng sụt sịt trong góc lều trại của mấy đứa con gái. Ông ngẩng đầu nhìn bọn trẻ nhẹ nhàng căn dặn:

“Các cháu nhớ nhé, đừng ghen tỵ với người khác, mỗi người có một sự kêu gọi, hãy trung tín với sứ mạng của mình. Địa vị không làm cho chúng ta giá trị hơn đâu, địa vị chỉ là chức việc. Nếu cháu được kêu gọi làm người giúp đỡ thì đừng cố tranh giành để làm lãnh đạo, đừng khó chịu khi thấy người khác hơn mình, Chúa không đẹp lòng đâu và các  cháu sẽ phải gánh hậu quả cho sự ghen tỵ của mình đấy.”

Tác giả khách: Debbie Thuy

RU-TƠ VÀ CHÚA CỨU THẾ

2016_02_21_x6tweckzuyf

Cuối bài trước, Ru-tơ xin Bô-ô chuộc sản nghiệp nàng bởi vì ông là người bà con. Bô-ô ưng thuận, nhưng phải hỏi ý một “người chuộc lại – redeemer”gần hơn. Chữ “người chuộc lại” được dùng mười lăm lần và là một trong những từ quan trọng nhất của cả Kinh Thánh. Từ nầy thường được dùng để chỉ về Chúa Jesus, Ðấng Cứu Chuộc.

Theo Lê-vi-ký 25:48, một người nô lệ có thể được chuộc lại, được mua lại. Một người rơi vào cảnh túng thiếu, phải bán sản nghiệp, thì người bà con gần nhất có quyền chuộc lại (Lê-vi 25:25). Một người chết mà không có con trai, một người anh em chồng có quyền lấy vợ người chết, để nối dõi cho người chết (Phục-truyền 25:5). Ðây là trường hợp “chuộc lại” của Bô-ô và Ru-tơ.

Người chuộc lại” phải là bà con, có khả năng và sẵn lòng chuộc lại. Ru-tơ 2:1 xác định cả ba điều kiện nầy:Na-ô-mi có một người bà con bên chồng tên là Bô-ô, một người quyền thế và giàu có, thuộc gia tộc của Ê-li-mê-léc.”

Vì sẵn lòng chuộc lại sản nghiệp cho Ru-tơ, Bô-ô phải xác định một chỗ họp, mời người bà con gần hơn, mời nhân chứng và công bố rõ vấn đề (Ru-tơ 4:1-4). Bô-ô đến cổng thành chờ người bà con, “mời anh ngồi đây.” Bô-ô cũng mời mười trưởng lão. 

Bô-ô nói với người bà con: “Trước sự chứng kiến của các trưởng lão, xin anh mua lại sản nghiêp của Ê-li-mê-léc cho Na-ô-mi, nếu không thì hãy cho tôi biết, vì sau anh, quyền nầy thuộc về tôi.” Bô-ô tiếp: “Khi mua ruộng, anh cũng lấy Ru-tơ người Mô-áp, để lưu danh người quá cố.”

Câu 6: “Người có quyền chuộc sản nghiệp đáp: ‘Tôi không thể chuộc, sợ làm hại đến sản nghiệp của tôi. Xin anh thay tôi chuộc sản nghiệp ấy.” Ông là người bà con gần nhất, có quyền và có tiền nhưng lại không sẵn lòng.

Bô-ô nói với các trưởng lão và cả dân chúng: “Hôm nay, các ông làm chứng rằng tôi mua tài sản thuộc về Ê-li-mê-léc, Ki-li-ôn và Mạc-lôn và cũng lấy Ru-tơ người Mô-áp, vợ của Mạc lôn làm vợ, để lưu danh người quá cố” (câu 10).

Mọi người ở cổng thành và các trưởng lão đều nói: Chúng tôi làm chứng về điều đó. Chúc anh được nổi danh ở Bết-lê-hem. Nguyện dòng dõi mà Ðức Giê-hô-va ban cho anh qua thiếu phụ nầy sẽ làm cho nhà anh giống như nhà của Pha-rết mà Ta-ma đã sinh cho Giu-đa vậy!” (câu 11).

Mọi người chúc mừng vợ chồng mới sinh được nhiều con, vì “con cái là cơ nghiệp Ðức Giê-hô-va ban cho. Bông trái của tử cung là phần thưởng” (Thi thiên 127:3). Con cái là nguồn phước. Còn được nổi danh? Anh, Chị biết Bết-lê-hem là quê hương của ai? Bết-lê-hem còn được gọi là thành Ða-vít!

Người bà con gần không lấy Ru-tơ vì sợ hại đến sản nghiệp mình. Không ai biết tên ông. Còn Bô-ô được nổi danh suốt lịch sử vì tin cậy Chúa! Sách Ru-tơ bắt đầu buồn thảm nhưng kết thúc với đám cưới hân hoan – như Thi thiên 30:5 mô tả: “Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, Hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.”

Di sản của sách Ru-tơ là con cái – nguồn phước, niềm hân hoan Chúa ban cho người mẹ và gia đình. Câu 13-17:Như vậy, Bô-ô cưới Ru-tơ làm vợ. Họ ăn ở với nhau, Ðức Giê-hô-va cho nàng thụ thai và sinh một con trai. Phụ nữ trong thành nói với Na-ô-mi: ‘Nguyện cháu được nổi danh trong Israel.’ Na-ô-mi bồng đứa trẻ vào lòng mình và chăm sóc nó. Phụ nữ láng giềng đặt tên nó là Ô-bết. Ô-bết là cha của Gie-sê, ông nội của Ða-vít.”

Trước kia ở Mô-áp, Ru-tơ làm vợ Mạc-lôn gần mười năm nhưng không con. Trở về Bết-lê-hem Nhà Bánh, Ðất Hứa phước hạnh, chỉ một năm, Ru-tơ có chồng, có con và cả gia đình chuộc lại được sản nghiệp đã mất.

Câu 15 tuyệt vời ân hậu, ngọt ngào: Ðứa bé ấy sẽ an ủi bà, nuôi dưỡng bà lúc về già, vì con dâu bà đã sinh nó cho bà. Con dâu bà quý hơn bảy con trai.” Vì Ru-tơ chân thành, tận tâm yêu thương mẹ chồng và tin cậy Ðức Giê-hô-va, nàng được phước. Ru-tơ đem phước hạnh chan hòa cho mẹ chồng, đến độ cả thành xem nàng quý hơn bảy con trai.

Ðứa bé là niềm vui và nguồn phước cho cả xóm, vì phụ nữ láng giềng đặt tên cho nó. Ðây là chỗ duy nhất trong cả Kinh Thánh, với người ngoài đặt tên cho con. Ô-bết có nghĩa là “người thờ phượng.” Cả cộng đồng tạ ơn Chúa, thờ phượng Chúa vì Ðức Giê-hô-va đã phục hồi sản nghiệp và phước hạnh cho Na-ô-mi và Ru-tơ.

Ô-bết là phước Chúa cho Bô-ô, Ru-tơ, Na-ô-mi – và nhiều, rất nhiều người. Ô-bết tiếp tục đem phước hạnh đến chúng ta hôm nay – vì tiếp nối thế hệ Ô-bết là Gie-sê, Ða-vít, và Chúa Cứu Thế Jesus, Ðấng Cứu Chuộc. Qua Ngài, mọi người được phước, được tha thứ tội, cứu chuộc và được thiên đàng.

Ru-tơ và Bô-ô sinh Ô-bết. Ô-bết sinh Gie-sê và Gie-sê sinh Ða-vít. Sách Ru-tơ bắt đầu với gia đình Ê-li-mê-léc rời bỏ Bết-lê-hem, Nhà Bánh của Ðất Hứa, làm theo ý mình, đến sống tại Mô-áp. Hai con trai lấy vợ Mô-áp không thờ kính Chúa. Ê-li-mê-léc chết, hai con trai chết, để lại Na-ô-mi một mình, không chồng, không con.

Sách Ru-tơ nối liền Các Quan Xét và Các Vua, sau Sau-lơ đến Ða-vít. Ða-vít nối kết với Giu-đa. Sách Ru-tơ là chuyện tình thiên thượng tuyệt đẹp, nối kết Chúa Cứu Thế Jesus, Ðấng Cứu Chuộc. Ngài sinh hạ tại Bết-lê-hem xứ Giu-đa, bởi trinh nữ Ma-ri như đã được tiên tri từ thời Cựu Ước.

Gia phổ của Ngài ghi rõ trong Ru-tơ 4:12 với tên Pha-rết:Nguyện dòng dõi mà Ðức Giê-hô-va ban cho anh qua thiếu phụ nầy sẽ làm nhà anh giống như nhà của Pha-rết mà Ta-ma đã sinh cho Giu-đa vậy!

Ta-ma là mẹ của Pha-rết. Sáng Thế Ký 38 cho biết Ta-ma giả đóng vai gái mãi dâm để có con nỗi dõi cho chồng, và được Giu-đa, cha chồng khen ngợi là công chính hơn ông. Gia phả của Chúa Cứu Thế Jesus trong Ma-thi-ơ 1:5 cho biết:Sanh-môn bởi Ra-háp sinh Bô-ô. Bô-ô bởi Ru-tơ sinh Ô-bết. Ô-bết sinh Gie-sê, Gie-sê sinh vua Ða-vít.

Ai là mẹ của Bô-ô? “Sanh-môn bởi Ra-háp sinh Bô-ô.” Ra-háp là ai? Ra-háp là kỹ nữ thành Giê-ri-cô (Giô-suê 2:1), người tiếp đón hai thám tử của Israel. Như vậy, chỉ trong mấy câu Kinh Thánh, chúng ta thấy Ta-ma, người nữ đóng vai gái điếm, và Ra-háp, một cô gái điếm.

Ru-tơ, phụ nữ thứ ba trong gia phổ Chúa Cứu Thế là người Mô-áp. Người Mô-áp chuyên thờ cúng tà thần và dâng trẻ con làm sinh tế cho thần của họ. Bát-sê-ba, người nữ thứ tư trong gia phả, vợ của U-ri, sau thành vợ vua Ða-vít và là mẹ của Sa-lô-môn.

Cả bốn phụ nữ nầy đều là dân ngoại. Ta-ma và Ra-háp là người Ca-na-an, Ru-tơ người Mô-áp và Bát-sê-ba là người Hê-tít. Không ai trong bốn người được xem là mẫu mực đạo đức, đáng kính. Ta-ma và Ra-háp là gái điếm. Bát-sê-ba phạm tội ngoại tình. Ru-tơ là dòng dõi thù nghịch với tuyển dân.

Tại sao Ðức Chúa Trời dùng bốn người nữ nầy? Ngài muốn Chúa Cứu Thế vào đời – chuyên chở thông điệp yêu thương, ân sủng, tha thứ, chấp nhận – cho cả dân ngoại và người tội lỗi. Chúa Cứu Thế vào đời không phải chỉ nhắm cứu người lành mạnh, đạo đức nhưng cả người yếu đuối, lầm lỗi, tội ác.

Câu chuyện Ru-tơ xảy ra trong thời hỗn loạn của Các Thẩm Phán mà hầu như ai cũng làm theo ý mình. Ru-tơ, người nữ Mô-áp ngoại bang, trung thành hiếm có với mẹ chồng. Nàng sống đời tận hiến sâu sắc cho Ðức Giê-hô-va. Ru-tơ trở thành tổ mẫu của Ða-vít, vị vua vĩ đại nhất của tuyển dân.

Câu chuyện thời Các Thẩm Phán cho thấy tai họa ập đến khi dân Chúa từ bỏ Ngài. Nhưng sách Ru-tơ cho thấy phước hạnh đến với một người nữ dân ngoại khi nàng quyết tâm nhiệt thành theo Chúa. Nhờ Ru-tơ, phước hạnh đến cho cả nhân loại qua Chúa Cứu Thế Jesus.

Ru-tơ, người nữ ngoại bang xa lạ trở thành tổ mẫu Chúa Cứu Thế Jesus. Nhờ tình thương, can đảm và tận hiến tuyệt vời, Ru-tơ được ghi danh muôn thuở. Vì can đảm, nàng rời bỏ gia đình, quê hương để theo Na-ô-mi, mẹ chồng và để theo Chúa. Ru-tơ hiếu thảo, trung thành, tận tâm tuyệt vời mẫu mực.

Không sợ hãi, Ru-tơ đi mót lúa trên ruộng đồng xa lạ, ngỡ ngàng để tìm thức ăn cho mình và mẹ chồng. Nàng cả gan nghe lời hướng dẫn kỳ lạ của mẹ chồng, đến sân đập lúa giữa đêm khuya.

Ru-tơ yêu thương, hiếu thảo, tin cậy, trung thành với mẹ chồng và cả hai dìu dắt nhau từ thảm cảnh đau thương đến đắc thắng huy hoàng trong ân sủng thiên thượng, nhiệm mầu. Không ai ép Ru-tơ. Chính nàng quyết định chọn con đường hẹp.

Ru-tơ chọn sống cô đơn, lẻ loi – theo mẹ chồng và theo Chúa. Hình bóng tuyệt vời mẫu mực về Chúa Cứu Thế Jesus – Ðấng từ bỏ chính mình, mang hình đầy tớ, và trở nên giống như loài người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phi-líp 2:7-8).

Bỏ việc thờ cúng thần tượng sau lưng, Ru-tơ tin cậy Ðức Giê-hô-va, chân thần duy nhất. Và Ðức Chúa Trời thành tín ban thưởng tình thương và nếp sống tin cậy vâng lời tuyệt vời của nàng một cách đặc biệt.

Anh, Chị có thể là người can đảm theo Chúa như Ru-tơ. Ðức Chúa Trời có thể dùng Anh, Chị và ban phước chan hòa trên Anh, Chị vì lòng nhiệt tình tin cậy vâng lời của Anh, Chị.

Anh, Chị bày tỏ lòng can đảm của mình thế nào trong hoàn cảnh khó khăn, cam go, thách thức? Anh, Chị yêu thương, tử tế và tôn trọng người chung quanh thế nào để họ thấy Chúa và kinh nghiệm được tình thương và ân sủng tuyệt vời của Ngài?

Nếu Anh, Chị chưa theo Chúa, cầu xin Chúa soi sáng, kêu gọi và cảm động để Anh, Chị quyết định tin nhận Ngài hôm nay. Câu chuyện Ru-tơ, Người Nữ Tuyệt Vời được ghi lại trong Thánh Kinh. Mời Anh, Chị tìm đọc cả câu chuyện ngắn tuyệt vời nầy.

Cầu xin Chúa hướng dẫn Anh, Chị để Anh, Chị can đảm đến với Chúa Cứu Thế Jesus như Ru-tơ đã dẫn đường năm xưa. Amen.

MỤC SƯ HỒ XUÂN PHƯỚC

TIN MỤC VỤ THÁNG 2-2016

Đoàn Từ Thiện Giô sép VN ( Joseph Charity Group in VN) kết hợp với Giáo Hội Tin lành Liên Hiệp Toàn Cầu VN đã về các địa phương thuộc tỉnh Daklak,Gialai, Cần thơ và Lâm đồng để làm công tác từ thiện và thực hiện mục vụ bồi linh và huấn luyện các Quản nhiệm và nhân sự.

Ngoài ra Mục sư Nguyễn Đức Na là Trưởng Đoàn từ thiện Giô sép cũng là Giáo hội trưởng thay mặt Giáo hội tham dự hiệp nguyện với F2 và họp với Ban sáng lập của Giáo Hội Tin Lành Baptist Việt nam mà lâu nay Giáo hội có sự cọng tác mục vụ chặc chẻ.
Trong thời gian này cũng là dịp Tết cổ truyền của dân tộc, Mục Sư hội trưởng cũng cùng Ban Điều Hành Giáo Hội Tin lành Baptist Viet nam đi thăm và chúc Tết các cơ quan trung ương phía nam có quan hệ trong công tác mục vụ.
Có thể nói một tháng bận rộn với các mục vụ dày đặt với sức mới Chúa ban đã mang lại nguồn vui, hạnh phúc cho những người bất hạnh, an ủi nhũng con cái Chúa đang gặp thử thách và thỏa lòng cho những người đang cần trang bị hành trang cho chức vụ chăn bầy và khơi dậy lòng nóng cháy trong trong cộng đồng Cơ đốc thực hiện sứ mạng mà Chúa giao cho Hội thánh của Ngài, đó là:
Bày tỏ tình yêu thương bằng việc làm và lẻ thật và Cứu vớt tội nhân.
Sau đây là một số hình ảnh ghi nhận được từ ngày 31/01/2016 cho đến ngày 26/2/2016.
TTV Hướng Dương.

– LỄ CÔNG NHẬN HỘI THÁNH TIN LÀNH LIÊN HIỆP EAHIAO 31/1/2016

IMG_3401

Lễ Công nhận Hội thánh EAHIAO, huyện EAHIEO, DAKLAK và trao giấy cong nhận MSNC cho Quản nhiệm Phan Trọng Nghĩa

IMG_3396

MS Hội trưởng công bố quyết định công nhận HT. định công nhận HT

IMG_3411

MS Nguyễn Đức Nhân cầu nguyện kết thúc buổi lễ

IMG_3417

Tặng quà cho đại diện mỗi gia đình sau buổi lễ

Hiển thị IMG_3401.JPGHiển thị IMG_3401.JPG– PHÁT QUÀ TỪ THIỆN TẠI GIA LAI NGÀY 1/2/2016

+ LÀNG PLUK PLUI

IMG_3437

149 phần quà đã đẳng sàng để phản phát cho bệnh nhân phong tại làng Pluk Plui, Gialai

IMG_3466

149 phần quà đã phân phát xong. Mỗi phần quà gồm 10 kg gạo , 01 thùng mỳ ăn liền, 2 lít dầu ăn,01 kg đường trị giá trên 200.000đ

IMG_3469

Chào tạm biệt trong niềm vui sau khi nhận quà

+ LÀNG PLEI NGO

IMG_3483

Phát 40 phần quà cho 40 bệnh nhan phong tại làng Plei Ngo, Gialai.

IMG_3511

MS Nhân đang kiếm tra 80 phần quà để phân phát.

 

IMG_3584

80 phần quà đã phân phát xong

– NGÀY 2/2/2016

IMG_3497

Ngày sinh nhật của MS Hội trưởng là ngày mang quà cho người bất hạnh. Những bàn tay không ngón cũng đang vui mừng vẩy chào tạm biệt

IMG_3494

IMG_3495

– NGÀY 4/2/2016

IMG_3591

Phát quà cho bệnh nhân phong ở gia lai xong, MS Na và MS Nhân đáp chuyến bay đêm về HCMC để sáng 3 đi xe nhà về Cần thơ và sáng ngày 4 phân phát 40 phần quà cho người khuyết tật vì hậu quả chiến tranh để lại.

IMG_3595

MS Nhân cầu nguyện cho họ

IMG_3641

Buổi phát quà được tổ chức tại HT TL LH Đông thuận1, thới lai, cần thơ.

IMG_3618

Bệnh nhân bị bại liệt được người nhà nhận thay với tấm hình kềm theo.

IMG_3635

IMG_3617

Với hình kèm theo

IMG_3643

MS Nhân trao quà

– NGÀY 19/2/2016

IMG_3730

Phát quà cho 40 người tàn tật mất khả năng lao động tại các Lộc Đức, Bảo Lâm, Lâm đồng.

IMG_3731

– NGÀY 20,21/2/2016

IMG_3735

MS hội trưởng huấn luyện cho các Quản nhiệm cách soạn bài giảng theo một đoạn/ phân đoạn KT và hướng dẫn thực hành soạn bài giảng theo đoạn KT Thi Thiên 23.

IMG_3754

MS Nhân giảng Bồi linh cho lớp HL và Hội thánh.

IMG_3742

Huấn luyện và bồi linh tại HTTLLH Đinh Trang Hoà 1

IMG_3764

Ban Điều Hành Giáo Hội Tin Lành Baptist Vietnam. Giáo hội Tin lành LHTC-VN là một trong 11 thành viên sáng lập ( 7 thành viên tập thể và 4 thành viên cá thể ( HT địa phương) . MS Nguyễn Đức Na là Phó Hội trưởng Ngoại vụ thường trực của Ban Điều Hành.

IMG_3249

Ban ĐH Giáo Hội Tin Lành Baptist VN chụp hình kỷ niệm với MS Phan Phước Lành; Chủ tịch Hiệp Hội Thông Công Baptist Bắc Mỹ nhân dịp lễ Cung hiến nhà nguyện HT Baptist Thiên Ái, Hóc môn, HCMC

Tet call of Baptist pastors

Hình kỷ niệm Ban Điều Hành thăm chúc Tết Lảnh sự Quán Hoa kỳ tai HCMC.

DSC00010

Ban ĐH Giáo Hội đã thăm và chúc Tết Ban Tôn Giáo CP phía nam.

GIẢ HÌNH

lốt chiên

“Hãy giữ chừng tiên tri giả, là kẻ mang lốt chiên đến cùng các ngươi, song bề trong là muông sói vồ xé.”  Mathio 7:15

Lốt chiên sói đội tinh vi,
Nói năng khôn khéo khác gì chiên ngoan,
Nhằm khi thuận lợi làm càn,
Nhe nanh cắn xé bạn vàng ghê thay;
Ai ơi tỉnh thức hằng ngày,
Coi chừng sói dữ ở ngay bên mình.


Minh Khải–

CHÚNG TA CẦN THÊM LỬA

Ta cần thêm nhiều lửa,
Từ tòa giảng ngày nay ;
Tránh chỗ ngún khói nữa,
Về thối nát hôm nay.

Ta cần than lửa đỏ,
Trong bài giảng ngày nay,
Giảm lòng lãnh đạm đó,
Để không đi lạc sai.

Ta cần thêm nhiệt lượng,
Từ giảng sư hôm nay,
Chuyên cần đi đúng hướng,
Trên lối hẹp đường dài.

Ta cần thêm nóng cháy,
Từ giáo sư dạy lời,
Thành tâm biết sợ hãi
Ngày xét đoán cuối đời..

Ta cần thêm hăng hái,
Hầu việc hội thánh nầy,
Tuyệt đối tránh xa mãi,
Lời đồn đãi lạc sai.

Minh Khải—25-2-2016

KHỐN NẠN CHO TÔI! XONG ĐỜI TÔI RỒI!

Isa thốt lên, “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi! Tôi chắc phải chết, vì tôi là người có môi ô uế bẩn thỉu, sống giữa một dân có môi ô uế bẩn thỉu, vì mắt tôi đã thấy Vua, là CHÚA các đạo quân” (Isa 6:5)

Năm mà vua Uxia băng hà là năm 740 trước công nguyên. Vua Uxia bị Chúa trừng phạt bị bịnh phung vì người vi phạm luật nơi thánh đốt hương dâng lên Chúa mà không phải công việc của minh. Công việc dâng hương chỉ dành cho những thầy tế lễ dòng dõi Arôn mà thôi mới được dâng hương cho Chúa. Mặc dù Uxia là một vị vua tốt vì người đã mang lại sự hưng thịnh cho đất nước Do Thái, nhưng dân tộc ông lại quên mất Giavê Đưc Chúa Trời, từ bỏ Ngài, và không còn tôn thờ Ngài nữa. Khải tượng của Isa là Chúa kêu gọi bổ nhiệm người thành sứ giả của Đức Chúa Trời cho dân tộc mình. Isa được Chúa ban cho một chức vụ hết sức khó. Dân tộc Do Thái tin rằng Chúa là Đấng ban phước cho họ. Nhưng Isa được Chúa kêu gọi để nói tiên tri là Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt họ vì họ bất vâng phục Chúa, không còn nghe Lời Ngài nữa.

Đoạn Thánh kinh này cho chúng ta thấy cái nhìn cao quý của Isa (Êsai) về Đức Chúa Trời vá nó cũng cho chúng ta một giác quan về sự vĩ đại, huyền nhiệm, và quyền năng của Đức Chúa Trời thánh khiết và tối cao. Isa đã nhìn nhận tội lỗi của mình trước mặt Chúa khích lệ chúng ta phải thành thật xưng tội mình với Ngài. Hình ảnh của sự tha thứ mà Isa kinh nghiệm nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta cũng được Chúa tha thứ như Isa đã kinh nghiệm. Khi chúng ta nhìn nhận Đức Chúa Trời chúng ta thật vĩ đại, còn chúng ta thì quá nhỏ nhoi không ra gì, quá nhiều tội lỗi và mức độ mà Chúa tha thứ chúng ta để rồi chúng ta nhận lấy năng quyền để phục vụ làm công việc của Ngài.

Quý vị anh chị em và độc giả yêu dấu, khi chúng ta nhận biết Chúa, am hiểu Ngài cách tường tận và nhìn thấy Ngài trong sự oai nghi, vinh quang, rực rỡ, và thánh khiết, thì chúng ta sẽ nhận thấy rõ ràng tội lỗi của chúng ta, thực chất của con người thật bề trong của chúng ta. Biết Chúa ít, chúng ta sẽ ít thấy và quan tâm đến tội lỗi mình và chúng ta cảm thấy tự mãn với bản thân mình. Isa hẳn đã rất hài lòng với sự thánh khiết của cá nhân mình cho đến khi ông thấy được CHÚA trong vinh quang khôn tả của Ngài. Nhìn thấy Chúa và lắng nghe những lời ca tụng của thiên sứ, Isa nhận thức rằng mình là con người tội lỗi trước mặt Chúa, không hi vọng so sánh hay đo lường với tiêu chuẩn thánh khiết của Đức Chúa Trời. Khi thiên sứ cầm than lửa đỏ sờ vào miệng của Isa và người cảm nhận được lỗi mình được Chúa xóa, tội mình được Chúa tha. Nhưng đây không phải than lửa đỏ tẩy sạch lòng và môi miệng ô uế bẩn thỉu của mình, mà chính Chúa tha thứ tẩy sạch lòng của Isa. Vì thế mà Isa đã tuân phục vâng lời Chúa cách trọn vẹn khi người nghe tiếng Chúa phán, “Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Mặc dù công tác Chúa giao có khó đến đâu đi nữa, nhưng Isa vẫn sẵn sàng vâng phục Chúa, thi hành nhiệm vụ, và đáp lại tiếng gọi của Chúa, “Dạ, có con đây, xin hãy sai con.”

Khi Isa gặp Đức Chúa Trời thánh khiết mặt đối mặt, ngay lập tức, ông nhận ra sự bất khiết của lòng mình và tội lỗi của những người xung quanh mình. Isa nhìn thấy sự tối thượng siêu việt của Đức Chúa Trời làm cho chúng ta có cảm giác về sự vĩ đại, huyền nhiệm, và quyền năng của Đức Chúa Trời. Chúng ta không thể nào thờ phượng Đức Chúa Trời thánh khiết và vẫn giữ một con người không thay đổi. Dấu hiệu cụ thể rõ ràng nhất của một sự thờ phượng thật là một tấm lòng được thay đổi và một đời sống được biến hóa từ trong ra, khi ở trong sự hiện diện của Chúa. CHÚA không hài lòng chút nào về cách thờ phượng chỉ bằng hình thức tôn giáo bên ngoài chúng ta thường thấy trong các nghi lễ, mà không có thực chất của sự thờ phượng thật. Chính Chúa Giêsu phán, “Đức Chúa Trời là Linh Thần nên ai thờ phượng Ngài phải thờ phượng bằng tâm linh và chân lý hay lẽ thật.” Xưa kia CHÚA Đức Chúa Trời phán, “Dân nầy đến gần Ta chỉ bằng miệng lưỡi. Chúng tôn kính Ta chỉ bằng đầu môi chót lưỡi mà thôi, còn lòng của chúng cách xa Ta lắm. Chúng thờ phượng Ta vì theo truyền thống của loài người. Những gì chúng được dạy bảo chỉ toàn là sáo ngữ” (Isa 29:13).

Anh chị em yêu dấu! Câu hỏi là chúng ta có quá đồng hóa mình với thế gian tội lỗi đến nỗi chúng ta hài lòng với cách sống bất khiết của mình? Chúng ta có chìm quá sâu dưới tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời đến nỗi có người nào đó sống và làm theo ý Chúa thì chúng ta cho rằng người đó “quá thiêng liêng, siêu tâm linh?” Nếu chúng ta chỉ so sánh sự tinh bạch thánh khiết của mình với những người xung quanh, chúng ta có thể bị lừa và tin rằng chúng ta đang sống một đời sống tận hiến phục vụ Chúa. Nhưng khi chúng ta gặp Đức Chúa Trời thánh khiết mặt đối mặt, nhìn thấy vinh quang oai nghi của Ngài, chúng ta chỉ có thể thốt lên như Isa, “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi!” Ai có thể đứng nổi trước mặt CHÚA Đức Chúa Trời thánh khiết nầy? Và chỉ khi đó bạn mới nhận ra nhu cầu thật của những người xung quanh mình. Bạn sẽ không thấy những người xung quanh bạn tin cậy Chúa Giêsu cho đến khi họ nhận ra sự khác biệt rõ ràng giữa bạn và thế gian. Đức Chúa Trời muốn thánh hóa bạn và tôi vì Ngài là thánh. Trước khi về trời Chúa Giêsu cầu nguyện cho môn đệ Ngài rằng, “Xin Cha dùng Chân lý thánh hóa họ. Lời Cha chính là Chân lý.” Lời cầu nguyện của Chúa cũng áp dụng cho các môn đệ của Ngài là chúng ta ngày hôm nay. Khi Đức Chúa Trời giải quyết xong với bạn, thì sẽ có mùi thơm ngọt ngào tinh khiết tỏa ra trong cuộc đời bạn. Nó hoàn toàn khác với đời sống mà thế gian tạo nên. Thế gian, bao gồm những người gần gũi nhất với bạn sẽ tin rằng bạn đang thờ phượng một Đức Chúa Trời chân thật, thánh khiết qua đời sống tận hiến của mình.

Chúa ôi! Xin Ngài thương xót con là người có tội! Xin huyết Chúa rửa sạch mọi tội lỗi của con để con được trong trắng trước mặt Ngài. Xin Chúa nhớ đến con khi Ngài trở lại thế gian để phán xử kẻ sống và người chết, và đem con về ở với Ngài trên Nước Thiên đàng!

Cầu xin Chúa Cứu Thế Giêsu ban phước lành cho quý vị anh chị em và các bạn xa gần!

Christian Le PhD
Creator/Admin SỰ ĐIỆP CỦA SỰ SỐNG

Post Navigation